Cuộc Sống Của Hai Người Ở Rừng Rậm

Chương 2: Tôm sông nấu với nấm hương



Sau bốn giờ chiều, bóng mặt trời đã phủ lên những tán cây cách mặt đất hơn một mét.

Chẳng bao lâu sau, ánh sáng ban ngày sẽ biến mất hoàn toàn.

Mặc dù vẫn có thể nhìn thấy nhiều hạt dẻ trên mặt đất, nhưng Hà Điền vẫn quyết định kết thúc công việc thu nhặt hôm nay. Cô kéo theo Gạo chậm rãi đi xuống núi.

Từ đây về đến nhà mất hơn nửa tiếng. Trời vào thu, tốc độ mặt trời lặn ngày càng nhanh hơn, khi mặt trời lặn hết, nhiệt độ trong rừng sẽ nhanh chóng giảm xuống.

Hiện tại, nhiệt độ ước chừng khoảng mười độ. Bọn họ đi xuống núi, khi Hà Điền và Gạo hít thở, hơi nước trắng sẽ bốc ra từ miệng và mũi của họ, hai gò má cô cũng lạnh như băng.

Khi sắp về đến nhà, Hà Điền dừng lại, cô tháo cái xô treo trên giỏ xuống, đi lấy nước.

Căn nhà bằng gỗ của Hà Điền được xây dựng gần một khe suối.

Nước trên núi từ khe suối chảy xuống, dọc theo thế núi chảy đến con sông bên cạnh.

Dòng sông vô danh ấy ngày đêm chảy xiết, chảy về hướng đông, chỉ khi đến mùa đông mới bị băng tuyết đóng thành băng.

Nhưng bên dưới lớp băng dày ấy, dòng sông vẫn lặng lẽ và chậm rãi chảy.

Khu vực mà Hà Điền sinh sống là nơi có mặt sông rộng nhất, thậm chí xe tuần lộc trượt tuyết chạy từ bờ bên này sang bờ bên kia cũng phải mất hơn một giờ đồng hồ. Nơi hẹp nhất là giữa hai vách núi cao chót vót, đứng ở một bên, thoạt nhìn có thể dùng sức ném mạnh một hòn đá từ bên này sang phía đối diện.

Bà của cô nói, tất cả các con sông cuối cùng rồi cũng sẽ chảy ra biển.

Biển như thế nào? Mùa đông đến, nó có đóng băng không?

Hà Điền đang suy nghĩ lung tung, đột nhiên nghe thấy tiếng kêu cạch cạch trong xô.

Cô nhìn xuống, thấy có hai con tôm sông bơi vào xô lúc nào không hay. Có thể chúng đã bị dòng nước cuốn vào, hoặc cũng có thể là do chúng đang mải mê đánh nhau, nên vô tình bước vào xô của cô. Cả hai đều có chiều dài bằng ngón tay, là hai con đực trưởng thành.

Hà Điền nhấc cái xô lên, hai con tôm vẫn còn vung vẩy, đánh nhau.

Cô mỉm cười vui vẻ, bữa cơm tối nay coi bộ sẽ phong phú hơn mọi ngày.

Thỉnh thoảng có thể nhìn thấy tôm sông trong khe suối. Chúng ẩn mình trong các kẽ đá và trong bóng râm của những cây cao xung quanh. Những con tôm sông có màu xanh lam này gần như trong mờ, khi bơi dưới nước rất khó phát hiện, chúng bơi rất nhanh, nhưng không phải hoàn toàn không bắt được.

Buộc dây vào cành cây, hoặc một sợi dây rơm mỏng bền chắc, sau đó buộc mồi vào đầu sợi dây, chẳng hạn như mảnh da cá nhỏ, rồi kiên nhẫn ngồi đợi, chẳng bao lâu tôm sẽ bơi đến và đớp mồi thật mạnh. Lúc đó cần phải khéo léo, nhấc cần câu lên thật nhanh và ném tôm vào xô.

Khi còn nhỏ, cứ đến về mùa hè, Hà Điền thường ngồi xổm bên bờ suối câu tôm, cô có thể bắt được bảy tám con tôm trong một buổi chiều, con lớn nhất không quá đầu ngón tay trỏ.

Bây giờ nhớ lại, nó đã trở thành một trò chơi rất xa xỉ.

Trong lúc cô đi câu tôm, bà cô vừa bửa củi, vừa bận rộn trồng trọt, lâu lâu sẽ chạy đến xem cô có an toàn hay không.

Hà Điền xách theo xô nước, Gạo đi ở phía trước. Cô đã nuôi Gạo được hai năm, nó đã biết đường về nhà.

Trở lại căn nhà gỗ, Hà Điền mở nắp vại nước bên cạnh bếp lò ra, cái vại gốm này được đậy bằng nắp gỗ, trong vại có nuôi một con cá nhỏ.

Khi mùa đông đến, khe suối gần nhà cô sẽ là nơi đóng băng đầu tiên, mà một khi đã như vậy, cô sẽ phải ra sông lấy nước. Nước lấy về mỗi lần đều sẽ được cho vào trong vại, để phòng ngừa trường hợp sông bị đóng băng, nhất thời không làm vỡ được lớp băng đã đóng lâu ngày.

Nuôi một con cá trong vại, nó sẽ ăn những tạp chất nhỏ bám vào thành vại. Nếu không có cá, nước trong vại sẽ bị keo lại sau vài ngày và không thể sử dụng được nữa.

Cô đổ một nửa lượng nước vào vại, nửa còn lại thì đổ vào ấm đồng.

Hai con tôm bị cô để trong xô, hai cái càng to lớn của chúng thỉnh thoảng gõ vào thành xô kim loại, phát ra âm thanh cạch cạch.

Hà Điền mở tấm sắt bên ngoài bếp lò ra, than bên trong chỉ còn lại một màu trắng xám, nơi sâu nhất thì vẫn còn một chút đốm than đỏ.

Cô dùng một chiếc móc sắt móc tro than ra bên ngoài. Tro than vụn rơi ra từ khe hở của thanh sàng bằng gang ở đáy bếp sẽ rơi vào thùng đựng tro đặt trên sàn nhà. Cái thùng này lúc sáng trước khi ra khỏi nhà cô đã đặt ở đó. Lúc này khoai lang trồi lên từ đống tro tàn.

Khoai đã chín, cầm trên tay vẫn còn nóng hổi, ​​cô có thể cảm nhận được phần thịt khoai mềm dưới lớp vỏ cứng sau khi nướng; mùi thơm cũng nhẹ nhàng tỏa ra.

Hà Điền đặt củ khoai lang lên trên nóc bếp, sau đó thêm một khúc củi được chặt to bằng bàn tay vào, rồi lại thêm một nhúm rêu khô.

Rêu lập tức bị bắt lửa bởi những đốm than đỏ nhỏ kia, ngọn lửa của nó lại đốt cháy củi. Lửa càng ngày càng thịnh, Hà Điền lại cho thêm một khúc củi to như một cục gạch vào bếp lò, dùng một cọng lau sậy đút vào trong, thổi thổi lên.

Lửa đỏ khiến mặt cô đỏ bừng. Ngọn lửa từ miệng bếp lò bốc lên, Hà Điền đặt nồi đồng lên đó, đóng cửa sắt của bếp lò lại.

Trong lúc đun nước, Hà Điền nhấc hai cái giỏ mây trên lưng gạo xuống, đặt dưới hiên nhà.

Hạt dẻ được để riêng thành một đống, ném vào sọt; cỏ và lá non thì cho vào một cái nia, san phẳng, mang vào treo cố định vào móc ở trên trần nhà; còn lại đều là những loại hạt và trái cây dại, một vài chùm táo gai, táo tàu núi khô trên cành, một số hạt phỉ và sồi, còn có một vài cây nấm.

Hà Điền phân loại thu hoạch của ngày hôm nay vào các giỏ khác nhau, các loại hạt thì được cho vào hộp gỗ, ngày mai nếu thời tiết tốt, cô sẽ đem chúng ra phơi khô; táo gai và táo tàu thì tạm thời cho vào giỏ rơm trước, sau đó sẽ được xỏ bằng dây rơm, sau khi trời sáng sẽ đem đi treo trong nhà kho chuyên phơi trái cây khô, còn nấm hương thì để một lát sẽ ăn với tôm.

Ngoài cửa, tia nắng cuối cùng đã hoàn toàn biến mất, bầu trời chuyển sang màu xanh xám, màu vàng, cam; màu xanh của cây cối cũng mờ dần theo ánh nắng biến mất, chúng sẽ sớm trở thành bóng đen.

Hà Điền cởi tấm vải bố và dây cương ra khỏi người Gạo rồi dẫn nó ra sau nhà.

Nó tự bước vào chuồng, Hà Điền hạ hai cánh cửa sổ nhỏ bằng gỗ của chuồng tuần lộc xuống, cột chặt lại, rồi xách một giỏ cỏ khô từ kho để củi vào. Cô cuộn cỏ non còn ẩm thành nhiều bó rồi treo lên một cái đinh được đóng trên tường, đống cỏ khô còn lại thì đặt ở một góc của chuồng. Cô cũng giữ lại một cọng cỏ khô, quấn vào trên ngón tay của mình.

Cô sờ tai Gạo: "Ngủ ngon nhé."

Gạo đong đưa đầu, nhai cỏ non.

Sau khi đóng cửa chuồng tuần lộc lại, trời đã chuyển đen.

Nhưng rừng cây thì lại không mấy yên bình.

Gió thổi vào những chiếc lá, cành khô và cỏ dại, chúng cọ xát vào nhau tạo ra nhiều âm thanh nhỏ khác nhau, xen lẫn với đó là tiếng kêu của những loài côn trùng cuối thu, tiếng động vật săn mồi vào ban đêm và tiếng chim cú ở xa.

Khi Hà Điền trở về căn nhà gỗ, ánh sáng duy nhất trong nhà là ngọn lửa đang bập bùng dưới ấm đun nước. Cô lấy đèn dầu đang treo ở cửa xuống, bước đến bên bếp lửa, mở chụp đèn ra, cho cọng cỏ khô quấn quanh ngón tay vào ngọn lửa dưới ấm, rồi đưa đến ngọn đèn dầu, châm bấc lên.

Cô treo đèn dầu trên móc dưới xà ngang, ánh sáng vàng mờ ảo tràn ngập cả căn nhà. Sau đó, cô đóng cánh cửa gỗ nặng nề, chốt lại bằng một thanh sắt dày bằng hai ngón tay rồi dùng chiếc cọc gỗ nhọn chống vào cánh cửa. Tất cả các cửa sổ trong nhà cũng được đóng chặt.

Lúc này, nước cũng đã sôi.

Hà Điền lấy một cái chén inox đặt trên bếp, thả hai con tôm vào rồi đổ nước sôi lên.

Sau đó, cô mới tháo bình nước đang mang trên lưng xuống, đổ đầy nước rồi cho vào túi giữ nhiệt.

Cô leo lên chiếc thang gỗ đóng đinh vào một bên tường, trèo lên gác nhỏ được lát ván gỗ làm sàn, nơi này là chỗ ngủ của cô.

Chỗ ngủ đơn sơ được lót vải nỉ, có chăn bông vải hoa.

Hà Điền nhét chai nước vào chăn bông, leo xuống chuẩn bị ăn tối.

Hai con tôm giờ đã cong lại, từ đầu đến đuôi đều biến thành màu đỏ cam.

Cô vớt tôm ra đặt lên một cái dĩa inox, sau đó cho nấm hương vào chén, dùng đũa khuấy đều, phần vỏ và chất bẩn trên nấm hương nổi lên, lơ lửng trên mặt nước.

Nấm hương cắt mỏng và thịt tôm sông trắng bóc nằm san sát nhau trên một chiếc dĩa inox, một bên là khoai lang vàng ươm, thức ăn nóng hổi bốc lên khói trắng dưới ánh đèn mờ ảo.

Hà Điền suy nghĩ một chút, cô lấy hũ ớt bột trên giá gia vị xuống, nhẹ nhàng lấy một nhúm nhỏ rồi rắc lên dĩa, sau đó lại rắc thêm một chút muối và vài giọt dầu hạt óc chó.

Bột ớt được cán từ ớt khô thu hoạch lúc hè, còn dầu hạt óc chó thì được ép từ hạt óc chó năm ngoái.

Ớt, muối, cùng chút hương thơm của dầu hạt ốc chó và nấm hương dại càng làm nổi bật vị tươi của tôm sông, lạ là vị ngọt của khoai cũng rất tương xứng với ớt.

Sau bữa tối, Hà Điền pha cho mình một ly trà hoa cúc. Hoa cúc được hái trong rừng vào đầu mùa thu, cắt cả cây cả cành và lá, cột chặt bằng dây rơm rồi cho vào rọ tre, sau đó cho đá vào rọ, ngâm cả rọ dưới suối trong núi nửa giờ rồi nhấc lên, bụi mịn bám trên hoa đều bị cuốn trôi hết.

Hoa và lá cúc non vò nát đặt vào phên tre phơi khô, hoa dùng để ủ trà, lá thì cho vào ruột gối, khi ngủ tỏa ra mùi thơm ngát. Cành cây của nó cũng rất có ích, thừa dịp chúng vẫn còn chưa khô hoàn toàn, có thể xen kẽ với những cọng cỏ dài và những sợi vỏ cây bạch dương xoắn lại với nhau, đan thành những chiếc giỏ nhỏ, phơi khô rồi treo trong phòng, bên trong đặt những cành thông, than củi và các loại hoa khô khác nhau, sẽ tỏa ra mùi thơm nhẹ suốt cả mùa đông. Treo giỏ hoa nhỏ này ở kho chứa ngũ cốc và đồ da, cũng có thể ngăn chặn côn trùng.

Chén dĩa và đồ dùng mà hôm nay Hà Điền dùng qua đều được đặt trong chậu gốm ở bên phải bếp lò, dưới đáy chậu có một lỗ tròn được nhét một nút gốm buộc bằng dây rơm. Bên dưới chậu có đặt một chiếc hũ gốm có nắp đậy.

Cô lấy một gáo nước từ vại nước đổ lên chén dĩa, sau đó lấy từ thùng đựng tro ra một ít tro, rắc lên. Đợi sáng mai rồi sẽ rửa chén. Đến lúc đó tro thực vật cũng đã loại bỏ hết dầu mỡ bám trên chén dĩa.

Hà Điền lấy đèn dầu treo trên mái nhà xuống, đặt trên nóc bếp lò, cần phải xử lý số hạt dẻ và mấy loại hạt mà hôm nay đã nhặt được.

Cô bóc hạt dẻ ra khỏi lớp vỏ gai, chất lượng không tốt thì ném vào sọt mây cùng với vỏ gai, táo gai và táo tàu thì xâu vào dây rơm rồi tạm thời treo lên cửa sổ.

Lửa trong bếp phát ra tiếng động khe khẽ, Hà Điền ngáp một cái, vặn cổ, đấm bóp bả vai, cầm ly trà hoa cúc đặt trên nóc bếp lên nhấp vài ngụm.

Sau khi màn đêm buông xuống, nhiệt độ trong rừng sẽ nhanh chóng giảm xuống, bốn giờ sáng, nhiệt độ có khi giảm đến âm mười độ.

Nhưng trong căn nhà nhỏ của Hà Điền, ​​nhiệt độ luôn trên hai mươi độ. Ống khói nối với bếp trong nhà cô được làm bằng gạch nung, mỗi viên gạch có sáu lỗ, dùng để giữ nhiệt, ống khói bằng gạch này và tấm gỗ dày trên vách nhà gỗ giúp cho căn nhà giữ được nhiệt lượng trong bếp.

Sau khi bóc những hạt dẻ cuối cùng, cô lại đặt chúng trên một tảng đá, dùng rìu nhỏ chẻ một khe nhỏ ở đỉnh nhọn của hạt rồi đặt chúng lên nóc bếp.

Hà Điền rửa sạch mặt bằng nước ấm, sau đó treo đèn dầu lên xà nhà, đổ đầy nước vào ấm rồi đặt lên bếp, lại cho thêm hai khúc củi vào, đợi cháy hết rồi thì đóng cửa sắt của bếp lò lại, leo lên gác.

Cạnh chỗ cô nằm có một gậy trúc dài mảnh, chiều dài vừa đủ để chạm đến ngọn đèn dầu treo ở xà nhà.

Hà Điền đặt một đầu gậy trúc vào bấc, khều một cái, ngọn đèn dầu vụt tắt.

Cô quấn chặt chăn bông, ôm bình nước trong túi giữ nhiệt rồi chìm vào giấc ngủ.

Bên ngoài căn nhà gỗ, những bông hoa sương giá lặng lẽ kết tụ lại trên lá, trên cành cây, và trên bệ cửa sổ.

Khói trắng lượn lờ tỏa ra từ ống khói của căn nhà gỗ, trôi chầm chậm về phía không trung trên rừng cây.

Tác giả: Món thứ hai.