Hộc Châu Phu Nhân

Chương 2: Dung nhan như bóng chớp II



“Chẳng lẽ ta đã già rồi? Sao cứ có cảm giác mười năm nay trôi qua còn nhanh hơn hai mươi năm trước vậy nhỉ.” Bàn tay phải gầy guộc nhón que cời đồng đỏ khêu hoa đèn. Ngọn lửa tức thì nổ lép bép, mùi long tiên hương thơm phức sực lên.

Người đối diện không đáp lời, chỉ vân vê một quân cờ đen trầm ngâm. Trong phòng lặng ngắt như tờ, một hồi lâu sau vang lên một tiếng giòn giã, quân cờ đen trong tay rốt cuộc cũng hạ xuống bàn cờ, đột nhập vào thế lực của quân trắng, trở thành một kẻ lạc lõng. Người hạ cờ bận áo trắng đường thảo (*), tuổi chỉ chừng mười sáu mười bảy, nước da màu lúa mạch, mày dài đến tóc mai, tựa như một thiếu niên tuấn tú khôi ngô, lại phảng phất dáng vẻ thiếu nữ anh khí, khó bề phân biệt.

(*) Đường thảo chỉ các loại cây dây leo thân cỏ nói chung, ở đây ý là hoa văn đường thảo thêu trên áo, vì những loại cây này có sức sống bền bỉ nên hoa văn đường thảo mang ngụ ý cát tường lâu dài.

“Nước này đi hấp tấp quá. Đánh cờ phải có lí lẽ, không thể cưỡng ép vô lí được, nhập cảnh cần từ từ.” Người khêu đèn buông que đồng, nói.

Thiếu niên áo trắng mím môi nhoẻn cười, trong anh khí lưu chuyển nét thanh lệ. “Thà bỏ vài quân cờ chứ không thể để mất tiên cơ, không phải nghĩa phụ vẫn thường dạy như vậy à? Hiện giờ nghĩa phụ vừa không nắm chắc có thể ăn được con, vừa không thể khoan nhượng cho con nghênh ngang tiến tới, người định làm sao đây?”

Người đàn ông đối diện bàn cờ dung nhan thanh thoát nghiêm nghị, phong thái từng trải trầm tĩnh, chỉ khi mỉm cười, khóe mắt xuất hiện một nếp nhăn nhỏ xíu, mới nhìn ra được dấu vết năm tháng đã kinh qua.

Trầm tư đôi chốc, người đàn ông xuống tay.

Thiếu niên cũng chẳng cần nghĩ ngợi, hạ tiếp một quân cờ.

Ngón trỏ tay phải người đàn ông gõ nhẹ lên bàn cờ.

Thiếu niên nhìn vị trí chàng chỉ, mặt không khỏi biến sắc, nhưng vẫn cố mạnh miệng: “Chưa thu quan mà, nếu cứ so nửa mục một mục (*) với người thì chắc gì con đã thua.”

(*) Giao điểm của các đường kẻ trên bàn cờ vây được gọi là mục, dùng làm đơn vị tính số đất mà 2 bên đen trắng bao vây chiếm cứ bằng quân cờ.

Người đàn ông nghe vậy ngước mắt, vết đao cũ dài nửa tấc ở khóe miệng bên phải khẽ nhếch, phác một nét cười như có như không lên khuôn mặt đoan chính mà ôn hòa. “Thế nên, Hải Thị, ta e tính khí con hãy còn bồng bột lắm, chức tham tướng Hoàng Tuyền Doanh này nếu con làm không xuể thì chẳng bằng trở về đế đô, ta sẽ thu xếp đường ra cho con.”

Hải Thị vân vê quân cờ, trầm mặc không đáp.

Tiếng gõ cửa kính cẩn vang lên, Trạc Anh cách cửa bảo: “Hải Thị, xiêm áo muội đặt đã được đưa tới, Chức Tạo Phường còn đang chờ đáp lời đó.”

Hải Thị đặt quân cờ sang một bên, nói: “Nghĩa phụ, nếu không thể cưới người con muốn lấy thì con thà tự do tự tại ở quan ngoại cả đời, không bao giờ quay về Thiên Khải nữa còn hơn.”

Ấn đường người đàn ông thoáng nhíu ra nếp nhăn rồi biến mất, mắt vẫn cụp thấp, tay phải nhón quân cờ gõ nhẹ lên bàn cờ, mãi mà không chịu hạ xuống.

Hải Thị đẩy ghế, đứng dậy mở cửa thư phòng, Trạc Anh đang chờ ngoài cửa. Người đàn ông ngẩng đầu nhìn họ sóng vai rời đi trong bóng đêm, sau cùng lặng lẽ buông một tiếng thở dài, tay phải mở ra, trong lòng bàn tay chẳng biết không dưng nhiều thêm một vết thương mới kì dị từ lúc nào.

Một ngấn máu tươi đột ngột quét qua đường chỉ tay ngang dọc rối rắm, ủ rũ nhỏ xuống vạt áo xanh, thấm loang ra một khoảng đỏ bất tường.

Trên đường ra sảnh trước Tễ Phong Quán, Hải Thị đi sóng vai với Trạc Anh.

Có cung nhân hầu hạ nơi khác tới Tễ Phong Quán biếu quà, trên đường trông thấy họ từ xa đều tránh sang một bên chỉnh trang thi lễ. Vài câu rủ rỉ lại theo gió bay vào tai hai kẻ tập võ: “Đó là hai cậu nghĩa tử của Phương công công đấy à? Hì hì, trưởng thành rồi quả nhiên phong thái hiên ngang, dung mạo còn trẻ trung tuấn tú nữa chứ, nếu là hoạn quan, nói không chừng còn có thể đối thực một phen…” Đối thực, tức cung nhân và hoạn quan cùng ăn cùng ngủ như vợ chồng, chỉ để an ủi tịch mịch mà thôi.

“Chao, con đĩ mi thật không có chí khí! Phương Trạc Anh bây giờ đang giữ chức trong Vũ Lâm quân, bao giờ chúng ta được thả ra cung thì cũng coi như một hôn phối tốt đấy.”

Hải Thị nhìn Trạc Anh vẻ hài hước, chỉ thấy gương mặt trắng trẻo của cậu chàng ửng đỏ, sải bước đến là xa, cứ như làm vậy là có thể quăng những lời nhàn rỗi kia ra không bằng. Lại thoáng thoáng nghe thấy…

“Chỉ tiếc cho cậu Phương Hải Thị trẻ tuổi, chiếu chỉ bổ nhiệm vừa hạ xuống, cậu ta phải đi Bắc Cương, từ rày khó mà gặp được lắm. Ôi ôi, chẳng thà đối thực còn hơn.”

Lần này, đến lượt da mặt màu lúa mạch của Hải Thị phớt hồng. Trạc Anh hồn nhiên quên khuấy sự bối rối của mình mới rồi, im ắng cười trêu.

Hải Thị lúng túng hết sức, hậm hực giễu lại: “Năm đó lúc mới vào cung, muội hỏi mọi người đối thực là gì, cũng chẳng biết là ai nói với muội đối thực là một nam một nữ ngồi đối diện nhau ăn cơm đâu đấy, bây giờ lại giả cái đò già dặn lắm cơ.”

Trạc Anh cười dài, hai người rảo bước nhanh hơn về phía sảnh trước.

Chưởng quản Chức Tạo Phường Thi Lâm thấy họ tới, vội đặt chén trà xuống, đứng dậy vái chào, cũng không nhiều lời, lấy từ bọc giấy lụa ra một món xiêm y, giũ ra cho họ xem, trên gương mặt như vắt mì dạt dào đắc ý.

“Ái chà, Thi thúc thúc thiên vị quá đi!” Trạc Anh bật thốt.

Đó là một tấm bào tiễn tụ (*) dáng ngắn bằng gấm màu tro, kích thước ôm gọn lấy thân mình Hải Thị, sau lưng dùng đủ loại tơ xanh tím thêu một con chim cắt màu biếc, lông cánh chân mỏ tạo dáng tung bay nom y như thật, mắt điểm sắc phỉ thúy, long lanh chớp sáng. Tổng quản Phượng Đình Phương Chư đắc thế, hai nghĩa tử cũng được thơm lây, cậu lớn vào Vũ Lâm quân gần tám năm, tuổi chưa tới hăm tư đã được bổ quan hàm chính lục vị ở Vũ Lâm thiên kị; cậu nhỏ năm nay thi võ đỗ thám hoa, đồng thời được phái đi Bắc Cương đảm nhiệm chức tham tướng của Hoàng Tuyền Doanh. Trước nay Chức Tạo Phường vẫn luôn dụng tâm nghênh tiếp, đường kim mũi chỉ may phục trang quân dụng theo đơn đặt hàng của họ đều vô cùng chỉn chu.

(*) Một kiểu ống tay áo rộng thời xưa, mép tay áo có thể dễ dàng xắn lên, tiện cho việc cưỡi ngựa bắn cung và lao động, khi cần giữ ấm thì buông mép tay áo xuống.

Hải Thị lại cảm thấy ngại ngùng: “Tấm áo này đẹp thì đẹp nhưng Thi thúc thúc ăn diện cho cháu cứ như đào kép ấy, đến Hoàng Tuyền Quan người ta lại chẳng cười cho, dẫn binh sao cho đặng?”

Thi Lâm giục Hải Thị nhân tiện mặc thử, Hải Thị nhận áo bào, tránh sang sương phòng.

Xiêm áo của Trạc Anh là triều phục chính lục vị của Vũ Lâm thiên kị, áo lót đen tuyền thêu thần thú phi liêm (*) màu đỏ tím, vạt dưới viền hoa văn sóng biển ba màu xanh bích trắng. Trạc Anh chỉ bận áo bào tiễn tụ ôm thân, đi ra sảnh chính mới khoác thêm triều phục, trang phục vừa người làm nổi bật thân hình cao ráo, không đội mão võ quan, chỉ buộc dải tơ ngũ sắc, tôn lên nước da trắng ngần và đường nét khuôn mặt mũi cao mắt sâu của cậu, hoa lệ khôn tả.

(*) Một loài thần thú trong truyền thuyết cổ đại của người Hán, được miêu tả là thân chim đầu hươu hoặc thân hươu đầu chim.

Đang ca tụng, Hải Thị đi ra khỏi sương phòng, tấm bào ngắn vừa vặn dài đến vòng eo thon thả của thiếu niên, vóc người thanh tú, nước da thì lại đậm màu hơn Trạc Anh chút ít, xán lạn động lòng người, con chim cắt biếc xanh thêu trên lưng áo sống động như thật, cặp mắt sắc sảo như đang nhìn chằm chằm người ta không dời.

“Bận trước Sưởng vương rảnh rỗi đi tới Chức Tạo Phường chỗ tôi, trông thấy hình mẫu Chá Lựu thêu, cứ cãi khăng khăng là Chá Lựu thêu hình dựa theo con chim cắt ngài ấy nuôi, cái áo này phải thuộc về ngài ấy. Ha, đừng nói đến tổ tông quy định không cho phép mang ưng khuyển vào cung, kể cả có cho, Chá Lựu sao mà trông thấy được? Tôi khuyên can hết lời, nói hình thêu này dùng chỉ đồng tinh vi do nước Chú Liên ở Lôi Châu Tây Nam cống nạp, trông thì óng ánh bắt mắt thế thôi chứ nặng lắm, lại thô ráp châm chích, võ tướng mặc còn được chứ làm thế nào cũng chẳng xứng nổi với phong thái cao quý của Sưởng vương đâu, hay là chờ tơ mới ươm xong lại bảo Chá Lựu thêu một hình dày mịn mềm mại thật sống động đưa sang cho ngài ấy. Ton hót mãi ngài ấy mới chịu thôi. Vị vương gia này thật là…” Thi Lâm vừa càm ràm vừa chỉnh sửa lại xiêm áo.

Hải Thị không tiện tiếp lời y, chỉ đành cười góp. Đến giờ Đế Húc vẫn chưa có con nối dõi, vị hoàng đệ duy nhất là Sưởng vương thì phóng túng xa xỉ, cả đế quốc to nhường ấy mà từ loạn lạc đến thống nhất chưa đến mười bốn năm đã khiến Đế Húc xảy ra lối rẽ, lại còn chẳng có lấy một ai có khả năng kế ngôi.

Trạc Anh không hé răng, chỉ đưa tay vuốt ve con chim cắt sau lưng Hải Thị, con chim dữ ấy như tách lụa xông ra, thần thái sáng láng.

Thi Lâm mỉm cười: “Nào dám làm lơ đại công tử đâu, con phi liêm trên áo bào của ngài cũng do một tay Chá Lựu thêu nên đấy, vì y phục của hai vị công tử, con bé này quả thực dụng công đến cố sống cố chết, cứ ru rú một mình trong phòng tối om cắm đầu vào thêu suốt ngày.”

“Vậy không được, mệt nhọc sinh bệnh thì làm sao!” Trạc Anh buột miệng.

Hải Thị quay người lại nhìn Trạc Anh, chỉ híp mắt cười không nói gì, chòng chọc làm da mặt trắng như tuyết của Trạc Anh đỏ lựng.

“Ngày mai tiểu công tử theo quân đóng giữ Hoàng Tuyền Quan, người không phận sự không thể đi tiễn, đành chúc ngài thuận buồm xuôi gió trước tại đây, cũng xin nhờ hai vị công tử thay tôi gửi lời cát tường đến Phương công công. Tôi đây xin cáo lui.” Thi Lâm dài dòng một chặp rồi chắp tay bái biệt, xoay thân mình ục ịch lui ra cửa.

Dòng nước xanh đặc chảy xuyên giữa ngón tay và kẽ tóc, muôn vàn bọt khí nhỏ vụn lấp lánh như cát bạc ào ạt nổi lên dập dềnh.

Mà nàng thì đang sa xuống giữa vũng nước biển ứ đọng dính nhớp không một âm thanh hay tia sáng, tựa như có bàn tay vô hình dẫn dắt, từ từ chìm tới chỗ sâu tối mịt chẳng biết là đâu, nhưng vĩnh viễn không thể chạm đến đáy biển.

Hải Thị mờ mịt ngửa đầu, mặt biển xanh đục như một bầu trời kì dị, càng ngày càng cao, dần vượt khỏi tầm với. Thân xác khổng lồ lập lòe ánh thép xanh im ắng lướt qua trước mặt nàng, biến mất trong bóng tối hun hút. Một đường đỏ thẫm những sợi tia lan ra, theo sóng nước dập dờn phất qua má nàng, để lại xúc cảm tanh dính lạnh băng như thịt sống.

Lang Hoàn vươn tay về phía nàng, trên gương mặt tuyệt mĩ là thần sắc nôn nóng.

Nàng cũng cố hết sức chìa tay cho Lang Hoàn, nhưng chỉ quờ hụt trong nước biển, vẫn từ từ chìm xuống chẳng thể xoay chuyển. Nàng tuyệt vọng nhìn hai bàn tay mình, thấy chúng mềm mại thơ bé, tỉnh ngộ nhận ra mình đã quay về tuổi nhi đồng, trong tăm tối, lòng bàn tay lờ mờ tỏa ánh bạch quang, từng nét từng vạch, mắt thấy đã sắp hoàn thành nên hai con chữ xinh đẹp.

Hải Thị mở bừng mắt, tay chân lạnh ngắt, gió heo may như nước phất qua má. Mười năm, cơn ác mộng này vẫn quấn lấy nàng.

Nàng thoáng trở mình trên gối, trông thấy cửa sổ mở toang, trong bóng đêm mênh mang, vô số đèn đuốc nườm nượp qua lại, viền dọc hai đại lộ Vĩnh An và Vĩnh Nhạc của đế đô.

“Đến giờ dậy rồi.” Phương Chư mặc triều phục đại điển sắc biếc thêu hoa văn cỏ đường, đứng bên cửa sổ ngoảnh đầu lại.

Hải Thị lặng thinh một chốc, nhỏ giọng nói: “Lại nằm mơ ạ.”

“Chừng ấy tuổi rồi vẫn sợ ác mộng à?” Người đàn ông cười khẽ.

Hải Thị cúi đầu nhìn lòng bàn tay không chút dị trạng của mình, cuối cùng vẫn khoác áo rời giường, sóng vai đứng cùng chàng. Theo lệ, cứ mỗi năm năm, Hoàng Tuyền Doanh, Thành Thành Doanh, Vũ Uy Doanh lại thay quân một lượt, năm nay biên ải căng thẳng nên mỗi nơi tăng binh thêm ba vạn, tổng cộng mười tám vạn binh mã sáng sớm mai duyệt binh ngoài Chu Tước Môn, Thiên Khải vốn đã là đô thành không ngủ, nay lại càng nhộn nhịp huyên náo.

Cuối triều Đoan, tộc Tả Kim phía bắc lục địa một lần nữa đánh phá Thiên Khải. Sau đó, quân Tây Đoan, quân cần vương và các lộ nghĩa quân giặc cỏ công thủ lẫn nhau, giẫm đạp suốt mười ba năm, tòa cố đô ngàn năm từng trang nghiêm cao quý này bị hư hại hoàn toàn. Ngày đời vua cuối cùng của nhà Đoan, Ẩn Đế Mục Vân Sênh, rốt cuộc cũng rút khỏi Thiên Khải, gió tàn thu căm căm, buổi chiều, chẳng biết từ đâu nổi lên ngọn lửa, đến trước tảng sáng hôm sau, lửa dữ trong thành đã rọi sáng trăm dặm. Từ Thương Dương Quan trông về phía bắc, khắp bồn địa đế đô rải rác tro bụi, chỉ có thành Thiên Khải là bập bùng đỏ rực, tựa một đóa hoa ăn thịt người khổng lồ, diễm lệ mà hiểm độc, trong khói mù mờ mắt vang dội tiếng cháy nổ. Anh Lâm Cung mà Mục Vân Sênh dốc hết tâm huyết giám sát xây dựng cũng chẳng may mắn thoát kiếp, dẫu cho hàng ngàn hàng vạn loạn quân và dân lưu lạc cướp đoạt trắng đêm thì số báu vật trang trí vàng bạc ngọc ngà và đá vân mẫu lát lối giành được từ trong hỏa hoạn cũng chỉ bằng một, hai phần mười.

Đô thành của nhà Trưng cũng đặt ở Thiên Khải, có điều Thiên Khải này đã là một tòa thành mới mọc lên trên đất cằn. Thiên Khải của dĩ vãng, kể cả những bức họa nửa đêm trải giấy thêm hương trong chốn sâu thẳm tại Anh Lâm Cung, đều đã rốt ráo hóa thành đá vụn than khô cùng triều Đoan. Anh Lâm Cung tinh xảo tráng lệ đã nuốt ngốn vô số tính mạng thợ xây ngự trị trong thành Thiên Khải cũng chỉ được vài năm ngắn ngủi. Nhưng vẻ đẹp như lâu đài ảo ảnh và dòng máu chảy thành sông ngầm dưới nền đá cũng đã đủ khiến người ta nhớ mãi không quên.

Nàng buông nhẹ tiếng than. Vào cái đêm lửa dữ đốt thành năm xưa, phải chăng sắc trời cũng chỉ thế này? Trong cung cũng chẳng lấy gì làm yên bình. Trong cửa cấm trồng đầy những cây phong cây thích, mỗi độ thu chín, dưới bầu trời xanh thẳm, từng cụm ráng son bừng lên như gấm đào, rọi lên lầu gác điện đài đen tuyền trắng phấn, trong tĩnh lặng trang nghiêm bỗng hiển lộ cái duyên chói rực. Hiện giờ đang là ban đêm, đèn xách lưu ly trong cung qua lại như con thoi, soi bóng cây chập chờn, chiếu lá đỏ sáng loáng phồn hoa, chỉ duy Kim Thành Cung của Đế Húc vẫn tịch mịch như cũ. Tuy triều thần đều đã rời giường chỉnh trang, mà đại để cũng biết ngày mai duyệt binh, theo lệ Đế Húc sẽ không đi, song liệu đế có đổi ý nổi hứng bãi giá Chu Tước Môn duyệt binh hay không thì cũng khó nói, thế nên trong Thiên Khải rộng lớn vẫn thâu đêm điều động nhân mã, quét tước giăng màn, chỉ e có điều sơ sót.

“Vì một ý nghĩ không chắc của thiên tử mà bao nhiêu người phải thục mạng bôn tẩu như vậy… Nhưng, thật lòng mà nói thì rất đẹp.” Hải Thị thở dài.

“Con cũng nên chỉnh trang đi. Đúng giờ Ninh nửa đêm là phải vào doanh điều binh tới Chu Tước Môn bày trận rồi, mặc dù có tham tướng cũ chiếu cố nhưng con cũng không thể lơ là.”

Triều phục của Hải Thị là cân đai chính bát vị, được đặt ngay ngắn ở đầu giường cùng nội bào sa xanh năm lớp từ cạn đến sâu. Nàng giũ lớp nội bào trong cùng màu xanh khói ra tròng lên người, thử vòng chéo đai tơ vạt trong ra sau lưng. Kể từ lúc nữ giả nam trang vào năm sáu tuổi, nàng đã tuyệt không cho ai kề bên hầu hạ, nhưng triều phục chồng chéo rườm rà, không ai trợ giúp cũng rất khó mặc.

“Nghĩa phụ…” Hải Thị khó xử cất tiếng. Gió đêm chải vuốt mái tóc dài chấm eo buông xõa của nàng, dung nhan ngày thường bất phân thư hùng thời khắc này lại mĩ miều tận xương.

Phương Chư nghiêng đầu sang một bên, nói: “Để ta gọi Trạc Anh tới chỉnh sửa cho con.”

Hải Thị mỉm cười: “Người cứ coi Hải Thị là con trai, không phải má hồng là được mà.”

“Dù mười năm qua con tập võ luyện bắn, đánh nhau với Trạc Anh từ bé đến lớn thì chung quy vẫn là một cô gái. Cũng tại ta nuôi con quá buông thả, đợi con tòng quân trở về rồi, vẫn cần chọn lấy một người thật tốt, gả con đi.”

Hải Thị nén nhịn nước mắt đã lưng tròng, ngậm cười: “Lúc nghĩa phụ làm việc trong cung, há lại không thường xuyên hầu hạ các nương nương sinh hoạt? Trạc Anh ca ca dù gì cũng là đàn ông, về lễ pháp có nhiều điều không ổn, vẫn là kính xin nghĩa phụ giúp con đi thôi.”

Dù gì cũng là đàn ông. Vào tai hoạn quan, chỉ e chẳng lời lẽ nào sắc bén hơn câu này.

Song ánh mắt Phương Chư lại như mặt hồ đóng băng, thản nhiên ung dung, chỉ đi vòng ra sau lưng Hải Thị, thắt đai áo cho nàng.

Đã đến canh giờ đêm trầm sâu nhất, gió lạnh tiết hàn lộ vi vu, không biết nơi đâu có cung nhân tiêu ma đêm dài, loáng thoáng gảy vang đôi tiếng tì bà. Hải Thị dang rộng hai cánh tay, tựa như một con phỗng tinh xảo, mặc cho chàng lấy áo lụa quần gấm bao bọc thân mình tầng tầng lớp lớp. Ngón tay Phương Chư dịu dàng chạm qua má nàng, vững vàng ấm áp, dẫu có giọt nước mắt nóng bỏng nặng nề rơi xuống tay chàng vỡ tan cũng chỉ khiến hai tay chàng ngừng lại trong thoáng chốc, chẳng mảy may run rẩy. Mái tóc đen dày của nàng cũng được chàng tỉ mỉ vấn cao, chụp mão võ quan bằng gấm huyền lên, buộc dải tơ mão chia làm năm màu, nhất nhất từng sợi thắt chặt dưới cằm, cuối cùng đeo bội đao và lệnh bài hình nghê nạm vàng lên hông nàng. Trên tua lệnh bài điểm ba viên ngọc to cỡ hạt đậu nành, le lói hàm quang dưới đèn đuốc âm u. Hải Thị nhận ra chúng được lấy từ hộc châu giao nhân tặng cho nàng khi còn nhỏ. Mím môi một lần nữa quay đầu về, nàng đã khoác lên mình dáng điệu đường đường của một võ quan thiếu niên khôi ngô vũ dũng, mắt lạnh như sương, tuyệt nhiên không còn chút lưu luyến nào.

Phương Chư cùng Trạc Anh tiễn Hải Thị đi, thuận đường tạt qua Kim Thành Cung, sửa soạn phục dịch Đế Húc rời giường.

Giữa giờ Lan, trong cung truyền lời ra, đêm qua hoàng thượng phê duyệt tấu chương mệt nhọc, hôm nay không tới Chu Tước Môn duyệt binh.

Trước bình minh, trời đất như vẩy mực, mười tám vạn tinh binh quỳ gối hô vạn tuế dậy trời, tiếng búa việt vang khắp mười dặm, đầu thành đuốc lửa liên miên, giáp trụ nhấp nhô tựa sóng biển cuồn cuộn. Dưới sự dẫn dắt của cờ xí, đại quân phân nhánh theo thứ tự rời khỏi Thiên Khải, Vũ Uy Doanh chọn đường Hà Tây lên Khuân Quan, Thành Thành Doanh đi hướng Mạc Hột Quan, Hoàng Tuyền Doanh sang tây tới Hoàng Tuyền Quan, doanh nào thay quân của doanh ấy.

Đi đến trước đèo Kỳ Việt, Hải Thị dừng ngựa. Từ Thiên Khải hướng lên phương bắc, dãy Minh Lạc như một cánh cung cứng cáp, là bình phong thiên nhiên che chở cho bồn địa đế đô, chỉ có một đường duy nhất vượt qua là con đèo rộng rãi chính giữa triền núi này, cách biển dẫn thẳng tới Hoàng Tuyền Quan xa xôi.

“Qua chỗ này rồi là không còn trông thấy Thiên Khải nữa. Lúc tôi đi Hoàng Tuyền Doanh lần đầu mới chỉ mười lăm tuổi, bước chân hãy còn nhỏ vụn, đi tới đây thì khóc òa.” Trương Thừa Khiêm đi song song với Hải Thị, đưa mắt nhìn trời, kể. Ông anh Trương Thừa Khiêm này năm nay ba mươi hai, ba mươi ba tuổi, là tham tướng bản doanh Hoàng Tuyền phái tới bàn giao danh sách lương thảo.

“Sao vậy, khi đó Trương huynh sợ à?” Hải Thị buông tuồng tiếp lời.

Trương Thừa Khiêm toe toét nhe răng: “Nào có, cuối cùng cũng không cần ở quê học cha mổ lợn nữa, có thể đánh giặc lập công, chỉ nghĩ thôi đã mừng phát khóc rồi.”

Đô thành hùng vĩ vẫn say sưa giấc nồng, trong nắng mai, lá phong cả một vùng ngoài Thừa Tắc Môn đỏ rực như khói. Có lẽ đây cũng là lần cuối nhìn thấy lá đỏ đế đô. Cũng phải, nói lời chua ngoa như vậy, gặp nhau lần nữa thì lại có thể thế nào? Hải Thị cười tự trào, phân phó chuyển hướng, giục ngựa chạy một mạch vòng qua con đèo, vứt Thiên Khải lại sau núi.