Hộc Châu Phu Nhân

Chương 4: Cỏ xanh sương phủ trắng I



Đế Húc trở nên u mê tàn bạo đã chẳng phải chuyện ngày một ngày hai. Trong suốt tám năm hằng đêm trằn trọc thao thức đợi bình minh, cái kiệt quệ trong y dường như không phải sự thanh tao nhã nhặn và trấn tĩnh cẩn thận mà là tuổi thọ. Kể từ ngày đăng cơ, ngồi trên ngai vàng đã là một thân xác vô hồn ngày một rữa nát.

Y biết mọi người đều nói vậy. Mọi người đều tránh né y, bởi y là hoàng đế, hơn nữa còn là một hoàng đế hung tàn. Từ trong cung đến ngoài triều, không ai dám chạm mắt với y, dẫu vậy, y vẫn nhìn ra mây mù của sợ hãi và thầm oán dày đặc trong cung đình. Tám năm trời đất đảo điên, trong loạn thế thập diện mai phục, y tung hoành ngang dọc đánh đông dẹp tây, trận Hồng Dược Nguyên máu chảy trôi chèo, mười dặm đỏ thẫm. Giờ đây quốc thổ chia năm xẻ bảy đã được gắn kết lại, chí ít y cũng có quyền không tiếp tục lo liệu những chuyện ngàn đầu vạn mối ấy nữa, chỉ cần thiên hạ thống nhất, mọi người sẽ tự xử lí cuộc sống của mình. Cơ mà, y ngắm chậu cây gừa xinh xắn trong tay, nhẹ nhàng ngắt rụng một nhánh cành mọc ngược, cắt sửa cây cối mà còn phải hỏi ý kiến cây thì không khỏi rầy rà quá rồi.

Hai mươi mốt năm trước, phiến loạn xảy ra vào cuối hè năm Lân Thái thứ hai mươi bảy. Năm ấy thời tiết nóng bức, trời nắng chói chang, ai nấy đều bảo là loạn tượng. Khi đó y mười bảy tuổi, lễ đại xã (*) lập xuân vừa thụ phong Húc vương. Cha y Đế Tu chết bệnh, chú ruột Nghi vương Chử Phụng Nghi mượn cớ trấn áp rối loạn trong kinh kỳ, giả tiếng cần vương tiến quân, mưu đồ soán vị. Nhất thời bốn bề binh biến, lũ lượt kéo đến dưới thành, đốt lửa giữa đêm, chiếu Thừa Tắc Môn đỏ rực nửa ngày. Binh mã thay quân của tam đại doanh đã ra đi hơn một tháng, sáu vạn nhân mã Vọng Quân Quan và Mạc Hột Quan thì đồng thời phản bội quay lại bao vây đế đô. Trong đế đô chỉ còn lại gần ba vạn quân Cận Kỳ Doanh, hai vạn lính Cấm Vệ Vũ Lâm, Thiên Khải thất thủ là chuyện đã ngã ngũ. Chỉ mình y dẫn người chống cự, mạo hiểm rút ra ba ngàn Vũ Lâm quân, muốn hộ vệ thái tử Bá Diệu mở đường máu ra khỏi đế đô, toan tính hồi sinh. Nào ngờ y khổ chiến không lùi, tự tay đâm chết ba tên lính đào ngũ và mấy chục phản quân leo lên thành, cuối cùng cầm cự được đến lúc ba ngàn Vũ Lâm quân vòng về Thừa Tắc Môn thì lại chẳng thấy bóng dáng Bá Diệu đâu. Thái tử Bá Diệu xưa nay bạc nhược yếu, còn mang khí tiết thà chết ngu muội gàn bướng, đã tuyên bố chung mạng với nước nhà, tuyệt vọng treo cổ tự sát. Tiên đế để lại bốn người con trai, người con thứ ba Thúc Vân chết sớm, con út Quý Sưởng bị đưa sang nước Chú Liễn ở Lôi Châu Tây Lục từ nhỏ làm con tin, hôm nay Bá Diệu cũng chết, đích tử hoàng thất ở Trung Châu chỉ còn lại mình y.

(*) Lễ lập đàn cúng tế thần đất thần núi, cầu phúc báo công cho trăm họ của nhà vua cổ đại.

“Uổng công ta liều chết bày một con đường sống cho hắn, Bá Diệu.” Trọng Húc chém phăng một tên phản quân leo thành rơi xuống, “Cứ thế chết mất không báo tiếng nào.”

Người trên thành ngã xuống một người lại bổ khuyết một người. Ba ngàn Vũ Lâm quân chạy đi chạy về không đến nửa giờ mà xác chết đầu thành đã chất cao nửa người, bèn dứt khoát lấy làm gỗ đá, đẩy xuống thành.

“Điện hạ… Không, bệ hạ! Xin cho chúng thần hộ vệ ngài đi Hãn Châu chiêu binh mãi mã, tiêu diệt nghịch tặc!” Vũ Lâm thiên kị mặc giáp nặng, hai đầu gối chạm đất đánh đùng một tiếng.

Trọng Húc quay đầu lại, nhìn kĩ dung mạo bị mũ giáp che khuất của vị thiên kị trẻ tuổi kia rồi mỉm cười thật khẽ, trỏ xuống lá đại kỳ chữ “Tô” nổi bật trong ánh lửa giữa muôn trùng cờ xí hỗn loạn của phản quân, “Ngươi có quan hệ thế nào với Tô Tịnh Phi?”

Giọng y không lớn, mấy người chung quanh nghe thấy câu này, trong lòng đều rùng mình.

Thiên kị trẻ tuổi ngẩng lên, dõng dạc đáp: “Con thứ Tô Minh.”

Dưới khói lửa đầu thành, gương mặt thẳng thắn vô tư, rõ ràng không quá giống thái thú Đồ Lâm Quận phiến loạn Tô Tịnh Phi.

“Tô Minh, ngươi hộ vệ ta tức là phải đối mặt với binh khí của cha ngươi đấy.” Trọng Húc mỉm cười, thân không khoác giáp, máu tươi vấy bẩn khuôn mặt trắng tựa ngọc mão của y, bèn nghiêng đầu chùi vào vai tấm bào cẩm tú.

“Trước năm mười bốn tuổi, mạt tướng không biết mình có cha, sau này cũng không có ý định nhận cha.”

“Đao ngươi đeo thì lại là loại đao thẳng lưỡi rộng thép ròng khắc hình trùng bọ mà con em nhà họ Tô thường dùng đấy nhỉ.”

“Đó là di vật của mẹ thần, mạt tướng xin thề dùng đao này quyết một phen sống mái với Tô Tịnh Phi, hôm nay xin được làm tiên phong, dọn đường thay bệ hạ, thỉnh cầu bệ hạ tác thành nguyện vọng này của Tô Minh.” Tô Minh nói đến cuối, giọng không kìm được chập chờn, mắt lấp loáng ánh nước.

“Ngươi còn trẻ, đám phản quân dưới thành lại là hạng dụng binh lão luyện, ngươi thế này chẳng phải ắt dẫn thuộc hạ chịu chết sao?”

Tô Minh quật cường mím môi không đáp.

“Vậy cũng khỏi cần. Ban nãy bao nhiêu người chết vì yểm hộ Bá Diệu đã uổng phí lắm rồi, chúng ta không chịu nổi hao tổn binh mã như vậy tiếp nữa.” Trọng Húc ngước mắt xem sắc trời, đã gần nửa đêm, trên Thừa Tắc Môn gió mạnh thổi ngược, y lấy cung khảm sừng ra, ngửa mặt bắn vút một tiếng. Tiếng vút kia khác với bất kì ai, hệt tiếng chim cắt, vang dội sắc bén.

Tiếng vút đó vừa biến mất trong bầu trời đêm thăm thẳm, trong cánh phải trận doanh phản quân dưới thành bỗng nổi lên dị động, một nhánh nhân mã mang cờ hiệu “Thanh Hải” đâm nghiêng đánh về phía cổng thành, chính là quân Lưu Thương dưới quyền Thanh Hải công. Chuyện xảy ra quá đột ngột, phản quân không kịp ứng phó, bị Lưu Thương quân phá tan hàng ngũ. Trước cổng thành là quân Hà Nguyên chủ lực của Viêm vương Chử Phụng Nghi, phản ứng nhanh nhạy, lập tức chém giết trước cổng thành, bộ Vương Diên Niên, bộ Tào Quang, bộ La Tư Viễn, bộ Tô Tịnh Phi ở hai bên và đằng sau đều là tướng trấn thủ các nơi tụ tập kéo đến, lúc này chỉ án binh bất động, không muốn cuốn bừa vào hỗn chiến. Hà Nguyên quân kẹp trái bọc phải, trận hình Lưu Thương quân càng đánh càng mỏng, dần biến thành hình một hàng dài, từ cổng thành rồng rắn ra ngoài hơn một dặm. Đúng lúc ấy, trong quân Lưu Thương bắn một tiếng vút lên trời, cùng một âm thanh với tiếng Chử Trọng Húc bắn trên Thừa Tắc Môn. Theo tiếng, cổng thành bỗng bật mở, một đội nhân mã xông thẳng ra từ đô thành.

Trận hình quân Lưu Thương tuy mỏng song vô cùng dẻo dai, khó lòng cắt đứt, Hà Nguyên quân đang khổ chiến, thình lình trong quân Lưu Thương lại vang thêm một tiếng vút, binh sĩ vốn đang lưng xây lưng đối phó với binh sĩ quân Hà Nguyên hai bên đột nhiên đồng loạt nhào lên trước chém giết, trận rồng rắn tức khắc tách thành hai hàng trái phải, mở một lối đi máu thịt dẫn từ trước cổng thành ra ngoài, hơn sáu ngàn binh mã trong đô thành lao ra theo lối đó, trận rồng rắn theo sau khép lại, lần lượt thu rút, bọc quanh sáu ngàn kỵ binh kia, tổng cộng hơn bốn vạn người cứ thế thoát khỏi đế đô. Bên cạnh thiếu niên dẫn đầu phấp phới một lá cờ đen thêu rồng cuộn chỉ vàng. Trong quân Hà Nguyên có kẻ lanh mắt đã sớm nhận ra đó chính là lá soái kỳ cao tổ bản triều sử dụng khi khởi binh năm xưa, vẫn luôn được thờ trong thái miếu cấm thành, lập tức báo với Chử Phụng Nghi.

Quân Lưu Thương lâm trận phản bội quá bất ngờ, Vũ Lâm quân và Lưu Thương quân giương lá cờ này tất là có đích tử tông thất chạy trốn, Chử Phụng Nghi tuy giành được đế đô song trong lòng vô cùng không vui, đợi đến khi quân phản loạn tiến vào cấm thành, biết được người chạy trốn không phải thái tử Bá Diệu mà là Húc vương Trọng Húc, không khỏi giậm chân bình bịch, nói: “Kẻ này hung hiểm, kẻ này hung hiểm.”

Hơn bốn vạn binh mã ra khỏi đế đô, một đường hướng bắc. Phản quân bộ La Tư Viễn cắn chặt không tha, chịu thiệt mấy lần, chỉ đành bám theo phía sau, rình cơ tấn công. Phe Chử Trọng Húc vừa đánh vừa đi, lúc đến được đèo Kỳ Việt thì đã là chính ngọ hôm sau, đội ngũ dần thu bớt.

Tô Minh thúc ngựa lên đi bên cạnh Trọng Húc, lúc lúc lại liếc y. Húc vương chỉ mới mười bảy tuổi nhưng gương mặt hoàn toàn không có vẻ ngây ngô, ánh mắt sáng rỡ sắc sảo, có thể thấy là một người lòng ôm chí lớn. Trong lòng Tô Minh không khỏi suy tư.

Thanh Hải công Phương thị là vương công khác họ hiếm hoi của bản triểu, đất phong ở quận Lưu Thương bán đảo Kình Lương vùng Lan Châu, kiêm chưởng quản Lưu Thương quân, tự phụ là một dòng nguyên huân khai quốc nên xưa nay không mấy hòa thuận với Đế Tu. Lần này Nghi vương phản loạn có câu kết với Thanh Hải công vốn cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, ngạc nhiên là ở chỗ Lưu Thương quân của Thanh Hải công đã sớm bàn xong biện pháp với Húc vương, dưới thành binh biến, trong ứng ngoài hợp, đến trận pháp dường như cũng đã được tập trận nhuần nhuyễn từ trước. Câu Húc vương nói bày một con đường sống cho Bá Diệu hóa ra có ý này.

“Húc ca, Húc ca!”

Trọng Húc nghe thấy tiếng gọi, vội vã ghìm ngựa, chỉ thấy một người cưỡi tuấn mã Hãn Châu lội ngược đại quân chạy về phía y. Tới gần, rất ư phấn khởi tháo mũ giáp, để lộ một gương mặt trắng trẻo thanh tú, hiển nhiên là một thiếu niên quý tộc, vóc dáng cao ráo, phỏng chừng kém Trọng Húc một, hai tuổi.

Trọng Húc thấy khóe miệng thiếu niên có một vết đao mới nhàn nhạt, bèn lấy tay áo mình lau vết thương cho thiếu niên, nhưng máu mãi chẳng chịu ngừng.

“Giám Minh, đệ làm sao mà hốc hác thế này?”

Thiếu niên cười tươi rói, hỏi một đằng đáp một nẻo: “Sức khỏe cha không tốt, lại phải đề phòng loạn quân giặc cỏ bốn phía nên chia một nửa Lưu Thương quân cho đệ, chỉ nói là giao hết cho huynh.”

Trọng Húc quay sang giới thiệu với Tô Minh: “Đây là đại thế tử Phương Giám Minh của Thanh Hải công. Ban nãy chính cậu ấy đã thống lĩnh Lưu Thương quân dưới thành.”

Tô Minh ôm quyền hành lễ, thầm lấy làm kinh hãi. Hơn ba vạn quân Lưu Thương kẹp trong loạn quân, đội hình vẫn chẳng loạn mảy may, biến hóa tự nhiên, cậu chàng này quả thực là hiền tài lãnh binh thượng hạng.

Buổi tối lúc dựng trại qua đêm, Trọng Húc và Phương Giám Minh ngủ cùng một lều. Vết thương nơi khóe miệng Giám Minh dính bụi đất, đã kết vảy thành một đường đỏ đậm, nom như cười như không.

“Húc ca, cái tay Tô Minh đó chẳng biết có quan hệ thế nào với Tô Tịnh Phi?” Giám Minh chợt nhổm dậy, ghé lại sát tai y hỏi nhỏ.

Trọng Húc chẳng buồn mở mắt, cất giọng trầm trầm đáp: “Chính hắn tự thẳng thắn thừa nhận là con thứ của Tô Tịnh Phi, nhưng quan hệ với Tô Tịnh Phi như nước với lửa.”

“Tin được không?”

“Tô Tịnh Phi quả thực có rất nhiều kế thất, có điều về sau nạp một ca kĩ, rất mực sủng ái, đám kế thất kia lão đuổi được thì đuổi, bán được thì bán, con rơi con rớt cả đống bên ngoài, ta thấy có vẻ là thật. Cơ mà Tô Minh này vừa nghe Bá Diệu chết đã lập tức đổi giọng gọi ta là ‘Bệ hạ’ – khôn khéo cố nhiên là tốt, nhưng quá mức khôn khéo thì thật khiến người ta khó mà không đề phòng.”

“Húc ca.”

“Hửm?”

“Chúng ta không cùng đọc sách luyện võ đã hai năm rồi đấy. Người ta chỉ coi đệ là con tin ở kinh thành mà hoàn toàn không ngờ rằng hai chúng ta thân nhau nhất, lúc đệ chảy máu chạy về, các dì còn hỏi đệ có bị huynh bắt nạt hay không cơ.”

“Truy binh không xa, mai còn phải đánh một trận ác liệt nữa, lảm nhảm ít thôi, ngủ đi.”

“Huynh muốn chong chóng đến Sương Hoàn gặp Tử Trâm tỷ tỷ chứ gì, sốt ruột ghê cơ.” Giám Minh cười nhăn nhở.

Trọng Húc không trả lời chàng, chỉ co ngón tay cho chàng một cú búng đau điếng rồi tự quay nghiêng đi ngủ, khóe miệng chẳng cầm được nhen nhóm nụ cười.

Lưu Thương quân cùng Vũ Lâm quân do Húc vương lĩnh suất vừa đi vừa đánh liên tục suốt một trăm ngày, đến mùa thu gió cuốn lá vàng thì tới được thủ phủ Hãn Châu – Sương Hoàn Thành, dọc đường thu nạp nghĩa quân và quân cần vương các nơi, nhân mã từ hơn bốn vạn tăng lên bảy vạn, Hoàng Tuyền Quan vốn đã có binh mã trú đóng, trong hè lại được phát thêm ba vạn, tổng cộng cũng được sáu vạn lính khả dụng.

Đông Lục hỗn loạn, cảng biển Tuyền Minh Thành bị tiếm vương chiếm cứ, vật tư khó bề chuyển vận; con đường phía đông Mẫn Chung đã bị phong tỏa; eo biển Oanh Ca mạn tây thường xuyên rình rập nguy cơ nổi sóng lớn, ba lối đi có đến hai đã hóa một nửa đường cùng. Mười đường vận tải tiếp tế toàn bộ Tây Lục thì đến ba bốn lệ thuộc hơn nửa vào đường thủy. Trên biển Trừ Lạo, chỉ có bọn thương nhân Lôi Châu thờ đuôi phượng thần rồng cậy có thủy thủ tộc Vũ dày dạn kinh nghiệm và thuyền mộc lan là dám qua lại giữa Tây Lục và Bắc Lục. Sương Hoàn Thành và Kỳ Châu Thành trở thành then chốt thông thương của Bắc Lục, đội buôn Lôi Châu có lực sĩ Khoa Phụ lại ngày một đông, có đội bán ngựa, có đội bán giáp trụ, có đội bán lương thực, giấy dầu, thậm chí còn có tăng lữ vu y, mưu sĩ dân gian toan tính ăn bám quân đội, đủ loại người tụ tập tại đây. Các nước Chú Liễn, Thổ Hỏa Lỗ còn phái sứ giả tới tuyên bố bằng lòng xuất binh viện trợ diệt phản, nhưng trong lòng Trọng Húc biết, đồng thời, những quốc gia Tây Lục ấy chỉ e cũng đã phái thương khách và sứ giả mang sứ mạng tương tự hướng về tiếm vương ở Thiên Khải. Trên Cửu Châu rộng lớn, cơ hồ mọi mỏ vàng mỏ bạc được biết đến đều tồn tại ở Đông Lục, cũng chính là trên lãnh địa của nhà Trưng. Hai nước Chú Liễn và Ni Hoa La giàu có nhất Tây Lục tuy còn miễn cưỡng ủng hộ Trọng Húc theo minh ước nhưng họ ắt sẽ không bỏ qua cơ hội này để đục nước béo cò, trao đổi hoàng kim giá thấp với Đông Lục.

Chú Liễn và nhà Trưng vốn có minh ước, cậu em út Quý Sưởng của Trọng Húc sang Chú Liễn học tập văn hóa ngôn ngữ của Lôi Châu, thực chất là làm con tin, Chú Liễn cũng có một công chúa được đưa tới nuôi dạy ở nhà Trưng, chuẩn bị kết hôn với đàn ông hoàng tộc. Vị công chúa đó không thích khí hậu Đông Lục, một năm ở Sương Hoàn hết sáu tháng, chính là Tử Trâm mà Trọng Húc mến mộ. Tử Trâm da dẻ láng mịn, mắt mày lúng liếng động lòng người, trời sinh tính tình dịu dàng, đến trâm thoa trang sức cũng ít dùng. Người Chú Liễn giỏi hàng hải thông thương, thờ giao nhân làm thần đuôi rồng, Tử Trâm hết lòng sùng tín, thường ngày chỉ đeo một mặt dây chuyền khắc hoa văn giao nhân của vương thất Chú Liễn, thanh khiết vô ngần.

Dưới thành Sương Hoàn, từ xa họ đã trông thấy bóng dáng áo trắng giữa gió như muốn bay đi đứng trên đầu thành, dõi mắt về con đường cuồn cuộn hồng trần dẫn tới thành.

Trọng Húc bỏ ngựa chạy lên lầu thành, Tử Trâm nhìn y chỉ mỉm cười, hồi lâu sau mới cất tiếng nói một câu: “Nửa năm không gặp, chàng đã già đi rồi.”

Ai cũng khen trải qua trăm ngày liên tục khổ chiến, mắt thấy Húc vương và nhóm tướng lĩnh trẻ tuổi lão luyện hẳn lên, đã dần có phong thái danh tướng rồi, chỉ duy Tử Trâm thương y thân hình gầy rộc, dung nhan già úa như một người đàn bà tầm thường nông cạn.

Cha anh tử nạn, đế đô mất vào tay giặc, y chưa từng để lộ một nét đau thương, nhưng chỉ vì câu ấy của Tử Trâm mà rơi lệ. Y là Húc vương, hoàng đế tương lai hay thống soái dẹp loạn đều là y cả, duy chỉ một người bình thường biết mừng biết giận, có thể ốm già là y không thể đảm đương. Trong loạn thế, chỉ còn mình nàng vẫn cư xử với y như một người có máu có thịt.

Bộ La Tư Viễn đuổi theo vây thành chưa được hai tháng thì mùa đông Hãn Châu đã tới, gió tuyết khắc nghiệt, đường cung cấp lương thảo đứt đoạn, La Tư Viễn buộc phải vượt biển rút về. Từ tháng Mười đến tháng Tư, bảy vạn người nghỉ ngơi dưỡng sức, thao luyện trui rèn ở Hãn Châu, im lìm ngủ đông đến mùa xuân năm sau. Trước sau Trọng Húc vẫn không chịu xưng đế, Tử Trâm mới cưới cũng chỉ thêm tước hiệu Húc vương phi.

Từ năm Lân Thái thứ hai mươi tám đến ba mươi mốt, thời gian trôi qua như bóng câu, bốn bề trên bản đồ nhà Trưng đều bất ổn. Chiến tranh lật nhào kéo dài, dân thường không một ngày bình yên, không ít thôn trấn chẳng có nổi một người đàn ông trưởng thành, đồng ruộng bỏ hoang, lương thực vải vóc gần như cạn sạch, nghe phong thanh còn xuất hiện việc người ăn thịt người. Hoàng tử Quý Sưởng gửi nuôi ở Chú Liễn đã từ nhi đồng lớn thành thanh niên, dưới sự nỗ lực giao thiệp trăm bề của y, Chú Liễn vẫn miễn cưỡng duy trì tiếp tế cho vương sư (*). Nếu Trọng Húc giành được ngôi báu, công chúa Chú Liễn Tử Trâm cũng sẽ thuận lý thành chương trở thành hoàng hậu Trưng triều, ấy là người Chú Liễn tính toán thế.

(*) Tức quân đội của vua.

Đến mùa xuân năm Lân Thái thứ ba mươi hai, mười bốn quận vây quanh kinh kỳ nhà Trưng đều đã khôi phục, chỉ còn kinh kỳ và ba quận cực đông giáp biển là còn nằm trong tay tiếm vương Chử Phụng Nghi. Lấy Sương Hoàn làm bồi đô (*), Trọng Húc và Lục Dực Tướng đã phát triển vương sư dưới quyền lên quy mô gần ba mươi vạn, những nơi khác cũng có gần mười vạn nhân mã nghĩa quân. Ai nấy đều cho rằng muộn nhất cũng chỉ đến mùa đông năm ấy là giành lại được kinh kỳ, bình định toàn cảnh cũng trong tầm tay. Song, đúng vào mùa hè năm đó, đại thế chớm định một lần nữa nhiễu loạn. Kỵ binh Hộc Khố ở tây bắc vượt hơn ba ngàn dặm đường trong bảy ngày, từ Ba Lâm Đạc tại Hoàng Tuyền Quan xâm nhập lãnh thổ Đại Trưng, công thẳng vào Sương Hoàn, lại không dây dưa với vương sư chặn đánh nhiều mà ỷ vào kỵ binh tháo vát nhanh nhẹn, đánh một trận rồi rút, thay vào đó cướp quấy khắp nơi. Thanh Hải công Phương Chi Dực dẫn quân đội hai quận đông bắc Hợp An và Xích Sơn vây quét phản quân Đồ Lâm quận, lại gặp phản công bỏ mình. Chử Phụng Nghi đích thân dẫn bảy vạn năm ngàn nhân mã từ kinh kỳ xuống nam, trong hai tháng đã đoạt lại được ba quận tây nam Tha Nga, Quân Châu và Li Lan, nhất thời Uyển Nam, Việt Tây giương cờ phản loạn, phản quân kinh kỳ và Quảng Lộ, Đồ Lâm ồ ạt tây tiến, thế như lang hổ.

(*) Thời phong kiến ở Trung Quốc có chế độ lưỡng kinh: ngoài kinh đô ra thì còn có một kinh đô phụ, gọi là bồi đô (陪都), thiết lập dựa trên tình hình chính trị, quân sự của đất nước, bồi đắp những thiếu sót của kinh đô, hình thành sự phối hợp giữa hai kinh.

Năm ấy, Phương Giám Minh vừa tròn hai mươi, vóc người đã rất cao, sau khi cởi áo giáp, dáng dấp lại vẫn vương nét thiếu niên thanh tú. Trong Lục Dực Tướng, chàng là người trẻ nhất, sống kiếp chinh chiến cũng đã năm năm có thừa. Chử Trọng Húc lớn hơn chàng ba tuổi, trên mặt trận cẩn trọng quyết đoán, sáng suốt nhạy bén, đã có khí thế vương giả trang nghiêm. Trong chiến sự, cứ hễ yểm hộ, tiếp ứng, bọc đánh các kiểu, hai người đều có thể ăn ý phối hợp, tâm ý tương thông, chẳng khác nào một cặp tay chân ruột thịt. Trong vương sư có rất nhiều tướng lĩnh trẻ tuổi xuất chúng, mấy năm chinh chiến đã nên tình đồng bào sâu sắc, không thiếu chuyện liều mình tiếp viện, tắm máu tử thủ, song trong lòng ai nấy đều hay, người Húc vương có thể ủy thác tính mạng cùng sợ rằng chỉ có một mình đại thế tử Thanh Hải công Phương Giám Minh.

Tháng Bảy, tin Thanh Hải công Phương Chi Dực tử trận truyền đến Sương Hoàn, thám tử lục tục bẩm báo, hai quận Lưu Thương, Hợp An lần lượt mất vào tay giặc, toàn tộc Phương thị diệt môn. Lúc tin tức truyền tới, tám vạn đại quân đang đợi xuất phát, nhắm tới Thông Bình Thành thủ phủ quận Li Lan ở Uyển Châu. Phương Giám Minh nghe tin lặng thinh hồi lâu, Trọng Húc trên lưng ngựa gọi chàng, phó soái thiếu niên khẽ ngẩng đầu, nhìn người thanh niên vừa là anh vừa là vua của mình, há miệng, chung quy chẳng đặng nên lời, lẳng lặng rời khỏi hàng ngũ, lúc trở lại, bên trong giáp trụ đã đổi thành tang phục, thoăn thoắt lên ngựa như cũ, hốc mắt hoe đỏ, trên mặt lại chẳng nhìn ra chút nào dấu lệ từng rơi.

Đội quân đi gấp mười một ngày, hạ trại ngoài cổng tây Thông Bình Thành năm mươi dặm, đầu tiên cử một số binh lực nhỏ đi chửi bới gây rối mấy ngày, phản quân mở thành nghênh chiến thì vờ rút lui, lặp đi lặp lại mãi, rốt cuộc cũng nhử được Chử Phụng Nghi tự mình dẫn quân chủ lực ra khỏi thành, bày trận khai chiến trên bình nguyên hẹp dài dọc bờ sông Li Lan.

Sông Li Lan là một nhánh của sông Kiến Thủy, từ Bạch Thủy chảy đến Liễu Nam đổ ra biển. Khúc Thông Bình Thành, bình nguyên phía nam sông rộng không quá năm, sáu dặm, lại hướng nam nên chạy dài đồi núi. Bầu trời trước bình minh trắng nhờ, núi non trùng điệp sum sê, cỏ cây trải dày trên triền núi. Đao kiếm và giáp trụ ngẫu nhiên va chạm, gây ra những rung động nho nhỏ trong không khí yên ắng. Cờ xí quân Lưu Thương đỏ tươi dưới sắc trời tối tăm bợt thành màu đen đặc – Phương Giám Minh đã là Thanh Hải công, lãnh chúa quận Lưu Thương thứ năm mươi ba của bản triều. Chẳng đen thì trắng, cây cối hắt xuống dưới chân những cái bóng màu tro, không còn loại màu sắc thứ ba nào nữa.

Trọng Húc ngẩng đầu nhìn thiếu niên trên ngựa.

Dưới áo giáp, Phương Giám Minh vẫn mặc tang phục huyền thâm, lông mày đen rậm khuất dưới mũ giáp, Trọng Húc chỉ có thể nhìn thấy đôi môi mỏng trắng nhợt của chàng mím chặt thành một đường. Thiếu niên quay đầu, Trọng Húc đoán là chàng đang nhìn y. Trong bầu không khí rạng sáng tĩnh lặng trong lành, ánh mắt chẳng nhìn đến của thiếu niên tỏa ra hơi lạnh thấu xương, một ngọn lửa giận kìm nén, tích tụ, ngọn lửa màu đen trong suốt, không nhiệt độ nhưng thiêu đốt tất thảy thành tro. Ngọn lửa giận ấy không nhằm vào Trọng Húc, cái quay cuồng trong lồng ngực thiếu niên là ý chí chiến đấu khát máu.

“Giám Minh.” Trọng Húc hạ giọng dặn, “Nhớ, ngày mai tấn công bao vây lúc mặt trời mọc.”

Giám Minh khẽ gật đầu, quay đầu ngựa, im lìm đi về phía một gò đất phía nam, thoắt chốc đã biến mất trong sương sớm rừng rậm xanh rì. Đội ngũ khổng lồ kéo dài thành một trục dọc, trầm mặc đi theo sau lưng chàng. Vô số bước chân và vó ngựa đạp lên bụi cỏ mới mọc đầu hè.

Thanh Hải công trẻ tuổi dẫn hai ngàn kỵ binh tinh nhuệ và ba vạn lính bộ vòng qua gò đất đi về hướng đông sáu mươi dặm, chạng vạng cùng ngày đã kín đáo đi tới ngoài cổng đông phòng thủ yếu nhất Thông Bình Thành. Chính lúc này, mây đen bốn phía kéo rợp trời, tiếp đó, mưa to dữ dội, sấm nổ dậy đất, khiến người ta nghe mà run rẩy.

Trên bình nguyên phía nam sông Li Lan, mưa rèn giáp sắt, leng keng mười dặm. Trọng Húc đã dẫn quân khai chiến với quân chủ lực của tiếm vương Chử Phụng Nghi. Trời đất mịt mù, bùn máu hỗn tạp. Dưới tiến thoái giằng co, lối đi dần tắc nghẽn vì xác chết, trong mưa lớn, bình nguyên chật hẹp cơ hồ hóa đường xuống suối vàng. Giáp trụ vương sư dày nặng, sau khi áo quần ướt nước mưa, hành động trở nên bất tiện, trong khi đó quân chủ lực của Chử Phụng Nghi đã đánh chiến ở tây nam vài năm, sớm quen với thời tiết mưa như thác đổ, thân nhẹ linh hoạt. Gần một giờ sau, vương sư đã tháo chạy tới trước đại trướng trung quân ba dặm. Trống đánh vang dội, chấn động ầm ầm như từ lòng đất chui vào tim gan sống lưng người đứng trên. Trận hình phản quân dần thu lại, một trận xung kích dạt dào khí thế đang thành hình. Hàng ngũ tiên phong của vương sư cũng dần tụ thành hình mũi nhọn, chuẩn bị liều mạng đối kháng.

Chợt, tiếng trống dừng bặt. Ngoài tiếng gầm thét của sông Li Giang đục ngầu hòa với âm thanh mưa to đập vào sống đao, giáp trụ, trên bình nguyên lặng ngắt như tờ. Kẻ đã chết chẳng còn tiếng thở mà người còn sống cũng chẳng phát ra một động tĩnh nào. Những người đàn ông im lặng thở gấp, máu bùn chảy trên mặt, nước mưa bẩn thỉu quét từ đỉnh đầu xuống làm nhòa mắt. Sau trận giao phong này, rất nhiều người đã sắp ngã nhào xuống bùn như đồng bào mình, để lại thân xác lạnh lẽo vô tri vô giác, mặc mưa to rửa sạch những vết thương trí mạng trên người.

Thình lình, trong phản quân ập tới một cơn sóng hỗn loạn từ đông sang tây.

“Nhìn kìa, trên thành!” Một tiếng la lạc giọng vang lên, chọc rách màn mưa mênh mông.

Trên bầu trời phía đông, vài đường khói báo động đâm cao, nửa khắc sau, một góc trời mưa xối xả bừng lên ánh đỏ, rất rõ ràng, trên Thông Bình Thành đã đốt lửa hiệu báo nguy.

“Là đông quân, đông quân bắt đầu công thành rồi!” Trong vương sư bỗng òa lên tiếng kêu mừng rỡ mà tàn nhẫn.

Thông Bình Thành bị vương sư đánh gọng kìm, tình thế nguy ngập. Trong trận phản quân, soái kỳ tiếm vương bắt đầu chuyển hướng sang đông, hẳn là Chử Phụng Nghi vội vã muốn về thành giải vây, chỉ để lại phản tướng La Kế Hàn và hai vạn năm ngàn phản quân khổ sở chống đỡ trên bình nguyên hẹp dài.

Chử Trọng Húc chỉ huy tây quân vương sư, vững vàng sấn sang phía đông, bộ La Kế Hàn chậm chạp vừa đánh vừa rút về Thông Bình Thành, mỗi bước đều để lại trên mặt đất nhão bùn đỏ vàng xác chết và chân què tay cụt.

Đến tối, cổng đông Thông Bình Thành bốc cháy. Phản quân trước sau thụ địch, tiến thoái lưỡng nan, mở hai cổng nam bắc, định chạy ra khỏi thành song gặp trúng phục kích, thương vong thê thảm. Trận này phản quân thiệt hại nghiêm trọng, lại đâm ra dậy lên chí khí chó cùng rứt giậu, liều chết chống trả. Quân tiên phong bộ Chử Phụng Nghi vừa trở lại cổng tây Thông Bình Thành, một nửa đông quân của Phương Giám Minh đã chia ra vào thành từ hai cổng nam bắc, tập kết xong xuôi, bày trận chờ đợi. Cổng đông vẫn cháy hừng hực trong mưa đêm, ngọn lửa bập bùng, sừng sững chói lòa sau lưng đông quân vương sư, tưởng chừng như trong không trung u ám bắc ngang cánh cổng vòm cháy rực của địa ngục.

Cổng thành đã hoàn toàn cháy ra than ra tro, đốm lửa bắn phụt, cuối cùng ầm ầm nổ tung, gỗ cháy và đồng nóng đỏ rơi vỡ lạch xạch. Khoảng một trăm binh sĩ trên đầu che khiên ập vào, dưới bối cảnh lửa cháy dữ dội, bóng dáng đen kịt của đội ngũ khiến người ta kinh hãi. Vài thớt tuấn mã theo sau đi đến, hiên ngang nhảy qua thây xác phản quân. Cú nhảy này khiến lá tinh kỳ to lớn ướt rượt trong tay người cầm cờ phần phật mở rộng, trải một vạt đỏ quạch bất tường trong ánh lửa. Lông con ngựa ô sáng bóng như gấm dưới ánh đuốc, thiếu niên trên ngựa áo đen giáp bạc, cầm một cây thương bạc nặng trịch, mũ giáp che khuất mắt chàng, nước mưa hòa lẫn máu nhỏ từ đường quai hàm kiêu ngạo xuống. Thiếu niên ngẩng đầu nhìn cổng thành đã bị đánh hạ sau lưng, cởi bỏ dây buộc mũ giáp thả rơi xuống đất nghe leng keng, lộ ra gương mặt tuấn tú khôi ngô. Trên tường trổ đầu thành, cờ xí của phản quân đang cháy.

Vết thương nơi khóe miệng thiếu niên khẽ nhếch như hé một nụ cười khó lường. Chàng chĩa mũi thương ròng ròng máu đen vào soái kỳ của Chử Phụng Nghi, quanh thân bốc cao ngọn lửa hủy diệt, hệt một sát thần.

“Chiến đấu, giết, đầu hàng cũng giết!”

Đáp lại câu ra lệnh ngắn gọn của phó soái, binh sĩ đông quân gào rống như dã thú, xông vào phản quân tựa dòng sắt thép.

Giương cung vung đao, oai rung bốn bể. Ngày mười bốn tháng Bảy năm Lân Thái thứ ba mươi hai, đại phá Thông Bình, chém một vạn năm ngàn nghịch tặc.

“Quá nửa đêm, mưa ngừng, mây tản, bầu không xanh trong giăng kín sao trời. Đêm khuya giữa hè, hơi lạnh và hơi máu bốc lên căm căm từ mặt đất, leo lên theo chân bụng người như dây mây.” – 《 Đoan thư · Liệt vương kỷ · Bách tứ nhị · Tĩnh Dực vương 》

Tây quân vương sư dần không chịu nổi áp lực mạnh mẽ từ mặt đông. Chủ lực phản quân vừa trở về đã lại bị trục xuất khỏi Thông Bình Thành, hợp lại với bộ La Kế Hàn, tổng cộng vẫn có gần năm vạn binh mã. Thành trì đã phá, đằng sau có đông quân vương sư cuồng dại như sói truy đuổi, phản quân đã thành giặc cùng đường, quay sang hướng tây liều mạng đánh.

“Đông quân tấn công trước hạn! Bọn ranh con chết giẫm đó đang làm gì vậy?” Binh sĩ tây quân lớn tiếng chửi rủa, vung đao dốc hết sức ngăn trở thế suy. Hôm sau họ mới hay tin, đêm ấy, phó soái đông quân Phương Giám Minh truyền lệnh tự phát: Ai chém được đầu tiếm vương, thưởng vàng một vạn. Tuy nhiên, cũng không phải ai trong số họ cũng sống được tới hôm sau.

Chử Trọng Húc trấn an vật cưỡi nóng nảy, từ trên gò nhỏ phóng mắt xuống theo dõi chiến cuộc. Hai quân chạm trán đã hơn bảy giở, song phương tụ tập hai mươi vạn binh mã trên bình nguyên, đến nay chỉ còn dư lại không đến chín vạn. Phản quân đột phá mé tây, vương sư mé tây chùn bước.

A Ma Lam, một trong Lục Dực Tướng, thân đeo trường cung, đứng song song với y, lo âu khôn kể: “Điện hạ, cứ cái đà này, rất nhanh sẽ rút tới cửa ra hẹp nhất của bình nguyên. Cửa ra đó sẽ hạn chế rất lớn tốc độ và hành động của vương sư, ít nhất chúng ta sẽ phải trả cái giá quá đắt lên đến mấy ngàn binh lực, hợp vây với đông quân cũng khó lòng hoàn thành.”

Trọng Húc im lặng gật đầu, mày càng nhíu chặt hơn. Chuyến này xuôi nam xuống Li Lan quận chẳng lẽ không dưng phải hao tổn hơn vạn quân sĩ, trắng tay trở về? Không chịu nổi. Y nghe thấy trong thinh không có tiếng thầm thì, giọng nhẹ mà lớn, ngập khắp nơi nơi, tạt qua đám đông hỗn chiến như một cơn gió độc. Đó là tiếng lòng của mọi người, thoát khỏi thể xác và ý thức, hội tụ thành tiếng thì thầm vận mệnh. Bàn tay cầm đao của chúng nam nhân đã mất hết tri giác, cánh tay chết lặng, vết thương nứt lộ xương, họ chỉ không ngừng chém, chém, chém.

Chỉ trong nháy mắt, Trọng Húc trông thấy vô số ánh sáng và màu sắc lưu chuyển trong kí ức, lượn vòng quanh người như gió lốc.

Một bàn tay xanh xao chết chóc của phụ hoàng không ngừng quờ quạng trong không trưng, tay còn lại cào mạnh cổ họng mình. Bệnh lạ chẩn không ra, thế tới hung hãn, một đêm đã hoăng.

Đại quân áp sát thành.

Binh sĩ áp lương trên đường Hãn Châu liên tục náo loạn, lương thảo em trai Quý Sưởng nghĩ cách tìm mua đưa từ Chú Liễn sang bị cướp quá nửa.

Thích khách lẻn vào vương phủ trong thành Sương Hoàn, Tử Trâm chịu kinh động, mất đi cái thai hai tháng.

Hốc mắt đỏ hoe của Giám Minh.

Trọng Húc siết chặt loan đao trong tay, hít thở thật sâu.

Hỡi tạo hóa, mi trêu ngươi như vậy mà tại sao… – Người thanh niên lau vết máu dính trên má, ngẩng thẳng đầu nhìn thật sâu lên bầu trời sao mây tản trời quang. Ánh mắt rét lạnh oán trách không giống muốn tìm câu trả lời mà ngược lại, tựa như đang gây hấn – Tại sao ta cứ nhất định phải nghe lệnh mi? Cao xanh bát ngát, sao buông muôn trượng. Dưới màn trời, bóng hình y bé nhỏ tột cùng.

Trọng Húc đưa loan đao sang bên tai, keng một tiếng bật ra một mũi tên rất nhỏ, tiếp đó phóng ngựa thẳng ra phía trước, phi lên trước trận như một tia chớp chẻ đôi hàng ngũ phản quân.

“Tấn công! Muốn sống thì theo ta!” Giọng nói lanh lảnh lơ lửng thật cao trên bầu không chiến trường. Mỗi một binh sĩ vương sư đều nghe thấy chủ soái của họ, quân vương của họ, cũng là lần đầu tiên họ nghe thấy hoàng đế của họ.

Tiếng đao gươm va chạm đột ngột dày đặc. Một âm thanh vĩ đại hào hùng chân thật vang lên trong bầy người. Đó là tiếng rít gào cuồng nhiệt phát ra từ phế phủ hơn bốn vạn người, thoạt đầu còn sai lệch lộn xộn, kế đến dần trở nên dõng dạc, dời núi lấp biển – Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! Âm thanh sau lưng ấy tựa thủy triều càng dâng càng cao, nhưng Trọng Húc chẳng nghe thấy gì hết. Xộc vào giữa loạn quân đông đúc, loan đao trong tay soàn soạt vung múa, những đường cung ánh sáng dũng mãnh khốc liệt như đâm vào yết hầu vận mệnh.

Máu tươi nóng hổi bắn lên mặt y. A Ma Lam hô hoán, y cũng chẳng lọt tai.

Lúc hai quân vương sư đông tây cuối cùng cũng thắng lợi hợp vây, thời gian còn cách cái hẹn phát động tấn công ban đầu gần nửa giờ. Đông quân phát động tấn công sớm cơ hồ đã đẩy toàn quân vào tình cảnh hủy diệt, dẫu vậy, mắt thấy soái kỳ đông quân hiện lên trong sương đêm cuối bình nguyên, chiến cuộc đến đây đã thay đổi, binh sĩ tây quân mới phun ra một hơi từ phế phủ. Đông quân quả thật giết đỏ ngầu mắt, lại kiên quyết không chịu cho hàng, phản quân sống sót không đến ba vạn, đều quay sang vứt giáp xin tây quân tha mạng. Tiếng chiêng thu binh vang lên ba hồi, đông quân mới bắt đầu bình tĩnh lại.

Dưới soái kỳ nền đen thêu rồng cuộn chỉ vàng của Trọng Húc, A Ma Lam nheo mắt nhìn phương đông xa xa. Soái kỳ Thanh Hải quân đỏ thẫm cao chót vót trên đầu người lổn ngổn, đang lao về phía này. Đám tù binh lê chân tàn, sợ hãi né sang hai bên, tuấn mã thuần ô dưới quân kỳ Thanh Hải hiện ra, cùng với đó là vị tướng quân thiếu niên trên lưng ngựa. Khoảng cách dần rút ngắn, A Ma Lam thấy rõ trường thương của chàng đã biến mất, bên tóc mai đông vết máu ngoằn ngoèo, thương lớn thương nhỏ ước chừng hơn hai mươi chỗ, trên dưới quanh thân đều là dấu vết ác chiến để lại, nhưng đôi mắt ấy, đôi mắt thiếu niên ấy, hệt như nước thép sùng sục vừa đúc thành, còn bắn ra hoa thép và đốm lửa. Ngọn lửa hung tàn nóng nảy như muốn thiêu rụi cơ thể thiếu niên.

“Chử Phụng Nghi đâu?” Môi chàng bong tróc, vừa nói đã rớm máu. Thiếu niên liếm môi, nuốt máu tươi tanh mùi sắt xuống, “Đã tìm thấy Chử Phụng Nghi chưa?”

A Ma Lam không đáp, chỉ lắc đầu.

Ánh mắt thiếu niên tức thì hừng hực thiêu đốt. Chàng trầm mặc quay phắt đầu ngựa, đang định một lần nữa giơ roi đánh ngựa chạy về hướng đông, A Ma Lam chợt nắm chặt vai chàng. Thiếu niên không vùng ra được, trái lại bị A Ma Lam kéo vòng trở về. Chân mày chàng nhíu chặt, tay phải đã rờ lên bội đao bên hông.

“Húc vương điện hạ,” A Ma Lam thoáng dừng, chừng như đang cân nhắc tìm từ đặt câu, tiếp đó chỉ tay về phía tây, “Húc vương điện hạ đang ở trong đại trướng trung quân.”

Thanh Hải công trẻ tuổi hồ nghi nhìn gã. Người đàn ông cùng trong Lục Dực Tướng với Phương Giám Minh này khoảng ngoài ba mươi tuổi, nước da bánh mật của dị tộc Nam Hải, đường nét mặt mày sâu đậm, làm nổi bật con ngươi màu trà xanh như mắt mèo. Kể cả Trọng Húc cũng chỉ biết gã đến từ nước Chân Lạp Nam Hải, giỏi đánh bạc, giỏi thuần ngựa, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, còn tên thật là gì, nguyên quán ở đâu, vì sao lưu vong đến Đông Lục thì xưa nay không rõ, cũng chẳng hỏi nhiều. A Ma Lam vào vương sư đi lính từ thời Đế Tu, lặng lẽ chẳng tiếng tăm gì suốt bảy, tám năm, đến mãi năm ngoái mới được Húc vương cất nhắc, trở thành cận vệ trưởng, đến nay tiếng quan thoại đã nói rất trơn tru.

A Ma Lam đưa mắt ngó chung quanh chốc lát, binh sĩ thân vệ đi theo Phương Giám Minh lùi ra sau mấy bước. A Ma Lam giục ngựa ghé lại gần thiếu niên, ngửa lòng bàn tay lên mở ra. Hơi thở của thiếu niên dừng sững, vết đao khóe miệng căng chặt, như một chiếc mặt nạ bị máu lửa vấy bẩn, khôi ngô, lạnh lẽo mà không hề có lấy chút ít sinh khí như chẳng thuộc về nhân gian.

Trong lòng bàn tay A Ma Lam là một con rối gỗ bách tinh xảo to chừng quân bài. Thân rối đã gãy thành hai nửa, trên ngực viết vài hàng chữ tiểu khải li ti, giữa vân gỗ vàng trắng tươi mới ở mặt gãy thẩm thấu sắc đỏ, trên chân tay nhỏ bé quét sơn dầu tràn ngập dấu vân tay đỏ mờ chưa khô hẳn, như vừa ngâm trong vũng máu mới đây. Giám Minh biết món đồ này – lúc xuất binh, trong ngực không ít quân sĩ đều cất một con rối như vậy, dân gian gọi là “bách hề”, dùng để ngăn cản tai họa nguyền rủa, nếu chủ nhân bất hạnh bị trọng thương mắc bệnh cấp tính thì bổ đôi con rối đốt đi, để bách hề chịu đựng tai họa thay chủ nhân, là một món đồ hộ thân. Tử Trâm tình cờ bắt gặp, bèn tự tay làm mười mấy con rối bách hề cho các tướng lĩnh không có gia thất, viết tên họ sinh nhật của từng người lên, Giám Minh và A Ma Lam cũng có một con, lúc xuất chinh cất sau miếng hộ tâm trên áo giáp.

Mà con rối trong tay A Ma Lam, họ đều nhận ra, đó là của Trọng Húc.

“Một giờ trước, điện hạ trúng tên lạc, vật này bị đầu mũi tên xuyên thủng. Để ngừa lòng quân tan rã, điện hạ nhịn đau chém thân tên xuống, chỉ để đầu mũi tên trước ngực, mãi đến khi đại cuộc đã định mới chịu để tôi đưa ngài về đại trướng. Y quan nói…” A Ma Lam chợt dừng bặt, như thể có một số lời nói ra rồi sẽ trở thành sự thật. Gã lặng lẽ đặt con rối vụn khuyết nửa vào tay Giám Minh, ngoảnh đầu khe khẽ huýt sáo, người cầm cờ lập tức giương soái kỳ nền đen thêu rồng cuộn chỉ vàng của Trọng Húc đi tới, theo A Ma Lam đi sâu vào bình nguyên đầy rẫy xác chết. Thu nhận tù binh, quét dọn chiến trường, chỉnh đốn đội hình, gã còn rất nhiều chuyện cần làm.

Áo giáp trên vai bỗng trĩu nặng không sao chịu thấu. Thiếu niên áo đen giáp bạc mở tay, cúi đầu nhìn những mảnh gỗ vụn nhầy nhụa máu trong lòng bàn tay rồi mới ngẩng lên, đá mạnh một cước vào bụng ngựa, ngựa ô hí dài, tung vó phóng về phía đại trướng phía tây trung quân.

Binh lính canh phòng chưa kịp ngăn cản, tuấn mã đã phi qua chướng ngại vật sừng hươu dựng ngoài doanh, người cưỡi ngựa rút đao khỏi vỏ, liên tiếp đánh bay mấy chuôi kim đao của cận vệ trước trướng, cả người cả ngựa cơ hồ vọt vào doanh trướng mới đột ngột thu cương ghìm ngựa. Ngựa ô giận dữ hí vang, lính cận vệ vừa định giương cung nhất tề bắn, người cưỡi ngựa đã lanh lẹ nhảy xuống, cuốn vù vào đại trướng như gió bão. Rốt cuộc cũng có người mắt sắc nhận ra, vội hô: “Gượm đã! Đó là phó soái!”

Bội đao trong tay phải đã ném ở ngoài lều, gỗ vụn nắm chặt trong tay trái hãy còn, lòng bàn tay đổ mồ hôi, đầy tay bùn đất và vết máu, chỗ bị dằm đâm đọng một chấm đỏ tươi đẹp kỳ dị.

Bên ngoài trướng không một bóng người, bên trong trướng lửa bốc hừng hực, tay chân tê cóng như ngâm vào nước ấm, ngưa ngứa sinh đau. Thiếu niên đứng lặng tại chỗ, mắt không chớp, trân trân nhìn một chuỗi vết máu nhỏ giọt to bằng đồng tiền vòng qua lều vải, đi vào trong trướng. Trong trướng thắp đèn, chiếu mấy bóng người lộn xộn lên lều bạt.

Chóp mũi y quan trưởng đậu hạt mồ hôi cỡ hạt đậu, lắc đầu quầy quậy, nhỏ giọng nói gì đó với bóng người đang nằm.

Giọng nói mát lạnh của Trọng Húc cất cao, tuy yếu ớt nhưng rất cố chấp: “Ta phải nói bao nhiêu lần nữa? Lấy ra cho ta.”

Y quan trưởng cuống đến độ cũng cất cao giọng: “Điện hạ, rút ra bây giờ không được đâu! Đầu mũi tên đang ở giữa phế phủ, nếu rút ra, máu sẽ không cầm ngay được, như vậy…”

“Bây giờ không rút chẳng lẽ để mai sau,” Trọng Húc khàn giọng phì phò, tiếng nói thều thào vụn nát, “Rút ra ngay đi.”

Y quan trưởng không đáp, chỉ xoa tay trăn trở.

Trong lều có người thò đầu ra ngó rồi bẩm vào trong: “Điện hạ, Thanh Hải công tới.”

Như định mở miệng nói gì mà lại bị sặc, Trọng Húc ho dữ dội, qua mỗi một cơn ho, tiếng hít hơi càng thêm dằng dặc khản đặc, là phổi thụ thương bị lọt khí. Người trong trướng phát hoảng, mấy giọng liền kêu to: “Điện hạ, điện hạ!” Giữa tiếng người ồn ào đến thế, Giám Minh vẫn nghe rõ được hai ba tiếng “phốc phốc” rất khẽ trên bạt lều, tựa như mấy giọt mưa rơi lên vải dầu. Mọi người bỗng nín thinh. Từ bên trong bạt lều dày nặng, dần dần có tia đào rất nhỏ thẩm thấu, men theo sợi vải ngang dọc lan rộng, thấm ra ngoài.

Trong lòng Giám Minh cả kinh, cao giọng gọi: “Húc ca!” Chưa kịp nghĩ ngợi nhiều đã vén màn che bước thẳng vào trướng.

Chư y quan đang dùng từng chồng vải bố to kềnh ấn chặt ngực Trọng Húc, người gần năm mươi tuổi rồi mà cuống run cả tay chân, đã sớm bất chấp lễ pháp, miệng không ngớt hô: “Điện hạ, ngài không muốn sống nữa đấy à!” Phương Giám Minh lùi ra sau một bước.

Toàn thân Chử Trọng Húc tái mét, thân hình tựa hồ gầy xọp đi so với thường ngày, từ cổ xuống rốn chỉ toàn máu là máu, khô rồi lại ướt, ướt rồi lại khô, trên vảy máu đã chuyển thâm đen phủ một lớp máu mới đỏ tươi, là máu vừa phun ra mới rồi. Y mấp máy môi, nhưng những người đứng hơi xa đã không còn nghe thấy lời y nữa.

Giám Minh sà vào trước giường, hoảng loạn nói không nên lời.

Trọng Húc cười nhẹ, mắt ra hiệu bảo chàng lại gần hơn. Giám Minh làm theo, thấy Trọng Húc như định cất lời, bèn ghé tai sát tới. Chỉ nghe Trọng Húc khó nhọc nói như thều thào: “Đệ xem… Dẫu chết đi cũng không thể mang theo thứ này chứ.” Giám Minh kinh hãi, cạy bàn tay phải của Trọng Húc ra, quả nhiên thấy một đầu mũi tên thép ròng đầm đìa máu, chỉ gắn với hơn một tấc thân tên.

Đúng lúc này, ngoài lều thông truyền có người từ quận Lưu Thương đưa tin đến cho Thanh Hải công. Nghe thấy ba chữ quận Lưu Thương, cổ họng Giám Minh thít lại. Trên danh nghĩa, chàng vẫn là lãnh chúa Lưu Thương quận, nhưng hôm nay cha và anh em trong tộc đã chết trận cả, Chử Phụng Nghi hạ lệnh diệt môn Phương thị, quận Lưu Thương thất thủ vào tay phản quân, là ai có thể đưa tin từ đó tới đây?

Ngoài cửa doanh, người đưa tin khẩn cưỡi khoái mã chờ chàng mà đứng cũng không vững, thương tích quanh thân đều đã chuyển xấu, tỏa ra mùi tanh hôi. Trông thấy Phương Giám Minh đi ra khỏi trướng thì run rẩy móc từ trong ngực ra một phong bì, mềm oặt nhớp nhúa, hẳn là đã kinh qua mưa dầm mồ hôi ngâm. Mở phong bì ra, bên trong chỉ có một mảnh giấy rất mỏng, từ Lưu Thương đến Li Lan, đông bắc tới tây nam, đi hơn một tháng.

Giám Minh con ta: Huyết mạch Phương thị chỉ còn lại mình con, tự lo liệu ổn thỏa.

Bút tích của lão Thanh Hải công Phương Chi Dực nay đã tạ thế, có lẽ do viết trong vội vã nên con chữ xiêu vẹo, vẫn là thể đài các gia truyền đoan chính lẫm liệt.

Vốn tưởng là phong bì giấy son bị phai màu do quá trình vận chuyển trắc trở, thấy giấy viết thư bên trong cũng nhuốm đỏ một nửa kèm theo hai dấu vân tay, mới hiểu ra là máu.

Chàng biết cha đã mất rồi. Chàng là con em quý tộc, từ nhỏ đã vào cung bầu bạn đi học cùng thái tử, gặp ngày khánh điển vào triều, cha thường đến thăm chàng, chàng lại cảm thấy xa lạ. Cha cũng không giận, chỉ thản nhiên cười xòa, dúi cho chàng một, hai món đồ chơi, nếu chàng không né thì còn xoa đầu chàng. Mùa thu năm sáu tuổi, chàng bắt đầu tập bắn, cha cho chàng một chiếc phàn chỉ bằng vàng nạm lưu ly xanh nhạt, dùng lúc bắn cung để tránh dây cung cắt vào ngón tay làm bị thương. Kích cỡ phàn chỉ là dành cho đàn ông trưởng thành, mẹ dùng tơ xanh quấn nó lại, chàng đeo vừa vặn.

Trận chiến hôm nay, chàng tuy có ý muốn giết Chử Phụng Nghi báo thù song đáy lòng vẫn ôm tia cầu may. Cha chàng nom ôn hòa ấm áp nhưng nghe nói thuở thanh niên cũng từng là một người võ nghệ siêu quần, tộc Phương thị cành lá sum sê, sao có thể dễ dàng tuyệt diệt như thế? Nhưng đợi đến khi lá thư này tới được tay, tận mắt trông thấy máu phụ thân thấm ướt giấy viết, chàng mới xem như thật sự tỏ tường.

Họ đều không còn nữa. Dẫu chàng có đích thân chém đầu Chử Phụng Nghi tế trước linh cữu cũng sẽ chẳng có ai đến hồi đáp. Lời này đã chẳng thể trần tình với ai, chỉ có thể lặng lẽ cất tiếng trong đầu nói với chính mình, trống trải và thê lương không bút nào tả xiết.

Binh sĩ bị thương đã được đưa một nửa tới cạnh trung quân tạo điều kiện cho chư y quan thuận lợi cứu chữa, tiếng kêu đau bi thiết thay nhau nổi lên, có tiếng như sói con đi lạc, có tiếng như ống bễ, có tiếng có thể giống bất kì tiếng gì, chỉ không giống tiếng người. Chàng bảo anh lính đưa tin kia đi chữa trị, binh sĩ đỡ người đưa tin lầm bầm: “Người của mình còn chẳng cứu nổi nữa là. Nếu không phải đông quân bà cố nội nhà hắn tấn công sớm thì sao chết nhiều người thế được.”

Mặt trời còn chưa mọc, phương đông đã tờ mờ, xem từ xa tưởng như ngọn lửa trên Thông Bình Thành vẫn đang cháy hừng hực. Trên bình nguyên trước mắt, chàng nhìn thấy nhân mã của chàng không một ai không chịu thương, lùa tù binh đi đào hố chôn đồng bào họ. Chàng nhìn thấy trên cánh tay trái một binh sĩ phản quân trói dây thừng nối liền với tù binh bên cạnh, lê cánh tay phải đã gãy, dùng tay trái bới đất. Chàng nhìn thấy mấy vạn người này, trải qua một đêm quyết chiến, ai nấy đói rét đan xen, vẫn đang chảy máu, ngã xuống rồi thì có thể ngủ say. Chàng nhìn thấy kẻ địch chém giết lúc còn sống, một lưỡi đao hãy còn đâm xuyên vào lồng ngực một người khác, lại được chôn chung một chỗ, vĩnh viễn làm hàng xóm dưới lòng đất. Ở quê nhà có lẽ họ còn có vợ con già trẻ, nhưng những người đó có tìm đến đây cũng chẳng tìm lại được thân nhân nữa. Nhiều xương khô như vậy, Trương Tam, Lý Tứ, Vương Nhị, Ma Tử, ai nhận ra ai.

Chàng chẳng hề thương xót. Tuy chàng còn trẻ nhưng đã nhập ngũ nhiều năm, trong lòng biết rất rõ, nếu người bại là họ, kẻ địch chưa chắc đã có thể đối xử với họ nhân từ hơn. Chỉ là, mặt trời mới mọc chiếu sông Li Lan thành một dòng máu, mấy vạn người đón ánh ban mai chói chang nheo mắt, mười dặm bình nguyên đỏ kệch một màu, không khỏi khiến người ta cảm thấy lạnh lẽo thê lương.

Song, nếu không vì một ý nghĩ sai lầm của chàng, một số người đã chẳng phải chết. Nghĩ tới đây, chàng sực tỉnh ngộ, quay đầu rảo bước vào đại trướng, một tay nhét lá thư vào vạt áo. Lúc đi ngang qua chậu than sưởi ấm, chàng bỏ những mảnh vụn bách hề trong tay vào lửa, ngọn lửa tức khắc liếm lên rồi hạ thấp, nhấm nuốt những mảnh gỗ, không còn nhìn ra hình người.

Bên ngoài trời đã tảng sáng, trong trướng hãy còn như đêm khuya. Sắc mặt Trọng Húc tái nhợt đáng sợ, khăn vải trước ngực đã đổi mấy lượt, miễn cưỡng coi như cầm được máu, chỉ e là do trong người cũng chẳng còn bao nhiêu máu huyết để mà chảy nữa – Nếu không vì một ý nghĩ sai lầm của chàng, Trọng Húc đã không như vậy.

Thấy chàng đi vào, Trọng Húc hé mắt, khóe miệng khẽ nhếch gần như không nhìn ra.

Giám Minh nửa quỳ trước giường y, nắm ngón tay y, ngón tay thon dài lạnh như sắt đá, trong không gian tối om mơ hồ gợi lên những kí ức không lành khi còn bé.

Như vận hết sức lực khắp người, giọng Trọng Húc nhỏ nhẹ như thì thầm: “Giám Minh, đệ thống khoái hơn chưa?”

Phó soái thiếu niên chấn động, kinh ngạc ngước mắt, đụng phải ánh mắt Trọng Húc nhìn mình. Ánh mắt ấy suy nhược mơ màng, song lại ngậm cười.

Họ đều là những đứa trẻ mất cha, là người cuối cùng còn sót lại của gia tộc. Từ nhỏ đã kết bạn chơi chung, lớn lên thành đồng bào có thể giao phó tính mạng. Cõi đời này chỉ có y không cần mở miệng với chàng.

Hóa ra y hiểu cả.

Phương Giám Minh bỗng lã chã nước mắt, nức nở: “Húc ca…”

“… Sắp làm chủ soái rồi, khó coi quá đấy.” Nói đoạn, Trọng Húc nhắm mắt lại, chừng như buồn ngủ khôn cầm. Y còn sống, chẳng qua cơ thể tiêu hao cực độ này sợ rằng cũng chẳng cầm cự được mấy ngày.

Rốt cuộc, thiếu niên khóc thành tiếng.

Lúc trời sáng bảnh, Thanh Hải công xua toàn bộ đám người y quan trưởng ra khỏi đại trướng, chỉ điểm hai mươi thân vệ luân phiên canh giữ trước cửa trướng, ngoài ra bảo người mang một vạc nước lạnh, nửa cân nam châm và mấy vị thuốc độc hoạt, ngân chu vào.

Qua nửa ngày, y quan trường cần phải vào xem xét thương thế của Húc vương, thân vệ gác cửa lại cản ông ta ở ngoài, nói là Thanh Hải công có lệnh, miễn là người ở trong không ra thì người bên ngoài có là vương phi đích thân tới cũng không được phép cho vào, ai vi phạm lập tức chém, trà thuốc các loại cũng nhất loạt không cần.

Y quan trưởng nổi giận, đương khi ồn ào tranh chấp, màn cửa doanh trướng xoạt một tiếng vén lên, Thanh Hải công đi từ bên trong ra. Y quan trưởng xoay người vừa định phát cáu, nhất thời lại không nói nên lời.

Thiếu niên trước mắt đã trở thành một người khác.

Dung mạo, vóc dáng, ăn bận, nói không đặng không giống chỗ nào, nhưng chỉ trong nửa ngày ngắn ngủi, thần thái sáng láng của thiếu niên đã thu lại mất tăm, trong mắt có thêm khí phách và quyết tâm trầm chắc. Chàng đã trưởng thành thành một nam nhi trẻ tuổi.

Thanh Hải công Phương Giám Minh phái một đội ngũ nhỏ đưa y quan trưởng cùng tám vị y quan từng vào trướng chữa thương cho Húc vương về Sương Hoàn Thành, chọn một y quan trưởng khác tới thay thế chức vị, ba mươi lăm y quan cứu chữa thương binh thì có thể ở lại. Hành động này khiến tất thảy mọi người đều câm nín. Từ Hãn Châu đến Li Lan, tám vạn đại quân vương sư đi đường mất hơn một tháng, hiện giờ kể cả có áo nhẹ ngựa tốt, đi về một chuyến cũng phải chạy hăm lăm, hăm sáu ngày, đợi đến lúc y quan trưởng mới nhậm chức đến, Húc vương chỉ e đã sớm mất rồi. Có điều, nếu chủ soái đã không thể trông coi công việc thì vạn sự dĩ nhiên phải tuân theo lệnh của phó soái, mọi người chỉ đành âm thầm hồ nghi.

Phương Giám Minh bảo A Ma Lam chủ trì hành sự, A Ma Lam im lặng gật đầu, lúc xoay người chuẩn bị đi, không khỏi ngoái lại liếc thêm một lượt. Thanh Hải công trẻ tuổi đang vén màn cửa, bước vào đại trướng. Trên mặt bùn ráo nửa nơi chàng đứng có máu đọng thành một vũng con.

Đội ngũ đón y quan trưởng đi Hãn Châu gia roi ngựa chiến cả một đường, chạy chết hơn bốn mươi con tuấn mã, sau mười chín ngày đã đưa được y quan trưởng mới nhậm chức đến Thông Bình. Con rối bách hề mới vương phi Tử Trâm tự tay làm không thể đưa vào trướng, đành phải giao cho A Ma Lam tạm giữ.

Ngày thứ mười chín ấy, trong doanh trướng Húc vương chong đuốc suốt đêm, hồi đầu còn có tiếng nước chảy và dụng cụ va vào nhau, đến hai ba ngày cuối thì bên trong lại như không có một người sống nào, nếu không phải thỉnh thoảng binh lính thủ vệ nghe thấy một hai tiếng nói mớ sốt cao thì có lẽ đã thật sự cho rằng Húc vương điện hạ và Thanh Hải công đều đã qua đời. Mấy tay ngũ thiên kị nóng ruột muốn xông vào doanh trướng xem xét, A Ma Lam rút đao ngăn lại.

Y quan trưởng mới tới trong quân, hỏi thăm tình huống, có hơi đứng ngồi không yên, bèn quyết định đi chữa trị cho thương binh trước. Vừa định kê đơn thuốc bôi ngoài da khác cho quân sĩ bị lở loét vết thương thì chợt nghe bên ngoài rộ tiếng ồn ào. Vài lính bộ trẻ tuổi xông vào lều, chẳng nói chẳng rằng lôi phắt ông ta đi, kéo thẳng đến trước đại trướng.

Thì ra trong trướng có động tĩnh. Bọn binh sĩ ném đá mài đao và bát cơm xuống, ào đến tụ tập trước cửa đại trướng, mấy ngàn người chen chúc, tất cả cùng nín thở, dỏng tai lắng nghe. Tiếng nước sông Li Lan chảy từ ba bốn dặm cách đó loáng thoáng vọng tới.

Trong trướng, tiếng giáp trụ cài lại với nhau vang lách cách rõ rệt, bội đao keng một tiếng ra khỏi vỏ, phỏng chừng chủ nhân chỉ xem xét một lượt, rồi lại tra về vỏ. Tiếp đó, bước chân người nọ từ trong trướng đi ra, hướng đến màn cửa ngoài trướng. Là bước chân của một người đàn ông trẻ, mặc dù hơi yếu ớt nhưng vẫn nhẹ nhàng vững vàng – chỉ có một. Thanh Hải công không ăn không ngủ trong trướng mười chín ngày, thể lực không được tiếp hồi nên không sung túc cũng chẳng có gì lạ. Còn Húc vương, ai cũng biết, quá nửa là mất rồi.

Trong nháy mắt, nỗi khiếp sợ vốn gắng gượng đè nén trong lồng ngực y quan trưởng cuộn trào hết lên. Trước đó nghe Thanh Hải công sai đưa y quan trưởng tiền nhiệm về Hãn Châu, không cho người khác vào trông nom, trong lòng ông ta đã có suy đoán – Chuyến này đi Uyển Châu ắt lành ít dữ nhiều. Nhưng vợ con đều ở Sương Hoàn Thành, ông ta không thể không theo những quân sĩ này lên đường. Nếu Húc vương chết thật, Thanh Hải công sẽ là nhân vật đứng đầu vương sư, ngày sau bình định thiên hạ rồi, sang Chú Liễn đón Sưởng vương về, bản thân thì làm một tướng quân giám quốc, làm ông vua ngầm, đó là chuyện nước chảy thành sông. Húc vương dòng dõi quý tộc thiên hoàng, thi thể tất nhiên không thể không qua mắt y quan trưởng khám nghiệm. Ông ta muốn giữ cái đầu trên cổ thì buộc phải lá mặt lá trái, có điều, xem trận thế thế này, nếu ông ta nói một câu che lương tâm thì sợ là cũng chẳng thể sống sót ra khỏi quân doanh này. Ông ta lắng nghe tiếng bước chân kia dần lại gần, lòng phát run từng chặp.

Xoạt một tiếng, màn cửa đại trướng bị vén lên. Y quan trưởng rùng mình, lông tơ toàn thân như bị kéo dậy, da cũng căng lên.

Bốn phía bùng nổ tiếng gầm rú, vang rền như muốn ném thốc người ta lên trời. Thân đứng ở trung tâm vạn người, y quan trưởng đã chẳng thể phân biệt được sóng âm ấy là tức giận, thất vọng hay vui mừng, ông ta chỉ đờ đẫn nhìn người thanh niên đi ra khỏi đại trướng.

Sắc mặt người thanh niên trắng bệch như không phải người mà là một cái bóng ánh nắng hắt xuống trong thời tiết âm u, gió thổi là tan. Dẫu bàn tay vén màn cửa đang run, lông mày vẫn nhướng lên kiêu ngạo, sắc bén bức người.

Y cất tiếng.

“Ông là y quan?” Giọng nói từng sáng sủa như lưỡi đao, nay khản đặc do nhiều ngày chưa nói.

Y quan trưởng nghe thấy tiếng răng trên răng dưới của mình va vào nhau cầm cập. Ông ta vốn nên thở phào, nhưng chuyện này thật không thể tin nổi, ông ta làm nghề y suốt ba mươi năm qua chưa từng chứng kiến trường hợp nào như thế,. Trọng thương như vậy, sau mười chín ngày, sao còn có thể xuống giường đi lại? Một tay Húc vương vẫn nắm màn cửa, nheo mắt, nhìn chòng chọc ông ta, nhấn từng chữ: “Ông vào xem thử đi.” Vừa nói vừa nghiêng đầu vào trong, ánh mắt lạnh lùng trước sau vẫn không rời khỏi gương mặt y quan trưởng.

Y quan trưởng lật đật đáp “Tuân lệnh” rồi lách mình qua bên cạnh Húc vương, đi vào trong trướng, một bên nghe A Ma Lam bước lên bẩm báo, ngày đó kiểm tra, sau khi trên Thông Bình Thành đốt lửa hiệu, thì ra tiếm vương Chử Phụng Nghi không hề đích thân quay lại cứu viện mà chỉ đi sang hướng đông mấy dặm rồi bảo người nắm giữ soái kỳ, giả làm chủ soái đi vào thành, mình thì lĩnh mấy chục tùy tùng đi thẳng lên hướng bắc. Đi gấp mấy dặm đến bờ nước, tìm được thuyền ngược dòng đi xuống, trốn tới thành Bạch Thủy thì lên bờ, hiện đã lẩn về Thiên Khải.

Y quan trưởng ngoái đầu ngó lại, A Ma Lam đang trình một con rối nho nhỏ lên Húc vương. Húc vương nhận lấy món đồ, ngắm nghía hồi lâu rồi lẳng lặng cởi mảnh giáp ngực xuống, cất vào trong.

Thanh Hải công Phương Giám Minh một mình trông nom Húc vương, không ngủ không nghỉ trọn mười chín ngày, cuối cùng tinh lực đứt đoạn, thân mắc ác tật, không thể cử động, nằm liệt giường ở Thông Bình Thành ba tháng rồi về Hãn Châu nghỉ ngơi, mãi đến tháng Giêng năm sau mới quay lại mặt trận.

Số mệnh cầm cân tiểu ly, một đầu đặt linh hồn nhân loại, đầu còn lại trên bàn cân trong tay nó đặt quả cân gì hay quả cân trí mạng nhất nhất đó sẽ rơi vào đĩa cân, theo đó là lời tuyên án tử vong hạ xuống vào lúc nào, những thứ này đều là cái loài người đui mù không thể biết. Cái gọi là tai họa ngập đầu, trong lòng bàn tay đấng thần linh Khư và Hoang, có lẽ chỉ là một trong ngàn vạn hạt cát vô tình chảy giữa ngón tay.

Một năm sau, buổi tối trước trận hỗn chiến Hồng Dược Nguyên tháng Hai năm Lân Thái thứ ba mươi tư, từ Sương Hoàn truyền tới tin tức, tử sĩ bí đảng của Chử Phụng Nghi lẻn vào thành, hạ độc mạn tính vào nguồn nước, gần một vạn người tử nạn, Tử Trâm và cái thai trong bụng cũng không thể may mắn thoát khỏi. Lúc tin chết truyền đến, chàng đang ở cạnh Chử Trọng Húc, nhìn Trọng Húc há miệng song chẳng cất thành lời, chỉ siết nắm tay lẳng lặng đặt lên giáp ngực, tựa như còn có thể chạm vào một đôi bàn tay thuần khiết khác đã từng vuốt ve tấm kim loại lạnh băng này. Dưới giáp ngực cất con rối gỗ bách nhỏ bé. Trọng Húc ngẩng đầu nhìn bầu trời đùn mây nặng trịch, đó là ánh mắt mãnh thú phản công.

“Mi cho rằng như vậy là thắng được ta ư?” Trong màn tuyết nhẹ tựa lông ngỗng trên Hồng Dược Nguyên, Giám Minh như nghe thấy tiếng của Trọng Húc, nhưng chàng ngờ rằng đó chỉ là phỏng đoán nhất thời của chính chàng.

Phản nghịch toàn diệt trong trận hỗn chiến Hồng Dược Nguyên, Trọng Húc dẫn hai mươi vạn quân vương sư trở về Thiên Khải. Từ năm y mười bảy tuổi trốn khỏi đế đô tới nay, thời gian đã trôi qua tám năm ròng.

Đá văng cửa Tử Thần Điện khóa chặt mấy năm trời, bụi bặm sặc người. Hương tàn dính bụi còn sót lại khi xưa như một u hồn không chịu tiêu tan, bị gió dài đêm hè xé nát ném tản. Sâu trong đại điện u ám, châu ngọc hoàng kim tiêu điều trên ngai vàng mơ hồ loe lóe ánh sáng nhạt. Trọng Húc đi lên trước, nhịp bước rất chậm, như thể ngai vàng ấy cách y một con sông hư không, muốn lội nước đi qua, lại sợ bước chân đạp hẫng. Trên con đường này, bao nhiêu người đã chết vì ngăn cản y, bao nhiêu người đã chết vì bảo vệ y, lại có bao nhiêu người tay không tấc sắt, dìu già dắt trẻ, bị loạn quân như trận gió – phản quân, hoặc quân dẹp phản – quét mất tính mạng. Tiếng chân trống rỗng vọng về. Nhân sinh hai mươi lăm năm, mười bảy năm trước là cái bóng ngược phù phiếm lấp loáng ly hợp trên sóng nước, tám năm sau là vết đao nanh ác chồng chéo, từng đao từng đao, chém nát toàn bộ trái tim y. Ngày trở lại Tử Thần Điện, khóe mắt đã khắc hằn nếp nhăn, tóc mai hai mươi lăm tuổi cũng loang lổ sương giá.

Trọng Húc vươn tay, quệt bụi bặm trên ngai vàng lên nhìn ngắm hồi lâu, tiếp đó xoay người, tay áo phất rộng, ngồi xuống. Trên ngai vàng bốc lên bụi mù.

Đoàn người phủ phục bái lạy như thủy triều, từ trên đại điện xuống thềm son trùng trùng, lại kéo dài đến mỗi một ngóc ngách trong cấm thành, tiếng hô vạn tuế vang rền như sấm dậy, chấn động bầu trời đêm đế đô. Kể từ hôm nay, Húc vương Chử Trọng Húc chính thức đăng cơ, xưng Đế Húc, niên hiệu đổi thành Thiên Hưởng.

Tử Trâm thăng làm hoàng hậu. Hôm ấy, trên vị trí thuộc về hoàng hậu bên cạnh ngai vàng, bọc trong huy y thêu phượng chỉ là một bài vị, kim ngọc cẩm tú quây muôn cụm.

Phương Giám Minh đứng ở hàng đầu quần thần, ngẩng lên nhìn vị hoàng đế trẻ.

Dưới làn sóng huyên náo gột rửa, vị hoàng đế trẻ bỗng nảy sinh một nỗi mỏi mệt sâu nặng từ tứ chi bách hài. Y nhìn những người thân cận nhất từng kề vai sát cánh với mình, chẳng ừ chằng hử. Lúc này, cung nhân chăm nom đèn đuốc rốt cuộc cũng chen được qua đám người, từng ngọn từng ngọn châm sáng toàn bộ đèn đóm. Cung thất cao rộng hoa lệ như một viên minh châu toàn thân sáng rỡ, khảm nạm chính giữa cấm thành, trên đỉnh đế đô, mà chẳng một ai hay, tại đây khi trước, vị hoàng đế mới trên ngai vàng từng im lặng thút thít trong bóng tối.

Rất nhanh sau đó, người Chú Liễn đã đưa một công chúa tới, bưng kín mặt mũi dáng người suốt một đường, đến ngự tiền mới vén mười tám lớp sa đen lên, khắp điện rộ tiếng kêu kinh hãi. Vị công chúa kia mặc váy lam thêu khổng tước đỏ vàng, trên cổ rủ xuống mặt dây chuyền hoa văn thần đuôi rồng giao nhân của vương thất Chú Liễn, mắt mày thần thái rõ ràng là Tử Trâm tái sinh. Đó chính là Đề Lan, cháu gái của Tử Trâm. Đế Húc gặp Đề Lan lần đầu, nhất thời không nói nên lời, nhưng cũng chẳng quá sủng ái, đối xử với ả còn lạnh nhạt hơn phi tần bên cạnh, hậu vị cũng một mực giữ nguyên cho Tử Trâm. Chung đường trở về từ Chú Liễn cùng Đề Lan là Sưởng vương năm nay đã hai mươi mốt tuổi, Chử Quý Sưởng.

Mà vết đao trên khóe miệng Phương Giám Minh, kể từ năm Lân Thái thứ hai mươi bảy đến giờ vẫn chưa từng biến mất, khiến gương mặt trước sau đều như cười như không. Chàng thiếu niên hào hứng hớn hở như mặt trời chói lọi tháng Ba năm xưa nay tuy đã đổi về hoa phục vương công, nhưng trên mặt vẫn là thần sắc tỉnh ngộ tĩnh lặng không thể biến mất – “Vừa nhìn đã biết từng giết người.” Đó là nhận xét của Đề Lan. Đế Húc nghe xong chỉ cười cười, bản thân y thì lại chẳng từng.

Sau đó, chuỗi sự kiện mà sử sách gọi là “Tự đoạn Lục Dực” khai màn.

Thanh niên quý tộc nhà Trưng không còn lại bao nhiêu. Trong loạn thế lênh đênh ròng rã tám năm, ai chết đã chết, ai lạc đã lạc, đến mùa xuân năm Thiên Hưởng thứ hai, Đế Húc hạ chỉ lệnh thiên hạ dò la tìm hoàng thân quốc thích, người tới nhận phần lớn chỉ toàn là giả mạo.

Không lâu sau khi ý chỉ dò la tìm hoàng thân được hạ xuống, một cặp thanh niên nam nữ xuất hiện ở nha môn quận Bách Nhạn cách đó ngàn dặm, tự xưng là Yên Lăng đế cơ Chử Lâm Lang và phò mã đô úy Trương Anh Niên. Năm xưa khi bị loạn quân cuốn đi ở cung điện mùa hạ tại đất phong, Yên Lăng đế cơ gần mười ba tuổi, phò mã đô úy hai mươi tuổi. Tám năm sau, trong cung đã chẳng tìm được cung nhân thiếp thân nào từng hầu hạ họ. Hẳn trong tám năm này, đế cơ trưởng thành, lại chịu đủ phong sương khốn khó, tất nhiên không còn dung nhan năm xưa; mà người nhà phò mã đô úy Trương Anh Niên thì gặp phải giặc cướp trên đường xuống nam tị nạn, bị hại toàn bộ. Giữa giống và không giống, không ai dám kết luận, đành phải để Đế Húc đích thân định đoạt.

Đế Húc và Sưởng vương triệu kiến họ ở Kim Thành Cung. Đôi bóng người ấy chậm rãi đi lên chính điện từ con đường lát gạch, bởi chưa xác định thân phận, để tránh vượt quyền, chỉ ăn mặc bình dân, song dáng đi và phong thái thì rất cao nhã. Lúc này đang là cuối xuân đầu hè, thời tiết ấm áp, gió lướt qua dưới mái hiên, thổi chuông gió kêu lanh canh, phảng phất như trông thấy đế cơ còn thơ mới hạ giáng Trương gia, hồi cung lại mặt, bận chín lớp gấm sa của con gái hoàng gia đã xuất giá, xách theo một giỏ mẫu đơn ngọc bản cắt cành, ngọc bội đinh đang bước về phía họ. Khi đó, bao nhiêu người vật đổi thay, khốn cùng gian nguy cũng chưa từng chia tách họ nơi chân trời, trên khuôn trăng trắng nõn của đứa bé ấy cũng hãy còn chưa mang dấu vết phong sương của ngày hôm nay.

Sưởng vương đứng bật dậy, gọi nhũ danh của cô “Mẫu Đơn tỷ tỷ”, chỉ một tiếng, lệ đã rơi đẫm mặt, nhào tới như một đứa trẻ.

Chử Lâm Lang vừa khóc vừa cười, nói: “Tiểu Thất Nhi, đệ đã là người lớn rồi.”

Đế Húc đứng xa xa trên điện cười bảo: “Mẫu Đơn, năm xưa đánh cược chơi cờ còn nợ muội một cây trâm, nhiều năm như vậy, lời chồng thêm lãi, trả sạch một lượt cho muội đây.”

Tin tức đón Yên Lăng đế cơ Chử Lâm Lang trở về được bố cáo thiên hạ vào hôm sau. Tiên đế có năm cô công chúa, đến nay chỉ còn lại mình Lâm Lang sống sót, thế nên Đế Húc cưng chiều cô hết mực, ban Phượng Ngô Cung trong cấm thành làm chỗ ở, bổng lộc một trăm tám mươi vạn thạch, nô bộc năm trăm, ngoài ra còn thường bảo vật quý hiếm khác, đếm không xuể.

Khi đó, Đế Húc đã dần phớt lờ quốc sự. Ban đầu còn ngày ngày lâm triều lấy lệ, về sau dứt khoát đến triều cũng không lên, nhưng cũng chẳng đặc biệt sủng ái một phi tử hay yêu thích một món đồ chơi nào, chúng quan văn muôn khuyên can cũng không có gì để phê phán. Chỉ có các võ quan nắm trọng binh lần lượt chết đi, Thiên Hưởng năm thứ hai, trong Lục Dực Tướng đã có ba người liên tiếp chết vì ngựa lồng, khó sinh, hoạch tội.

Mồng bảy tháng Giêng năm Thiên Hưởng thứ ba, mới tinh mơ Thanh Hải công Phương Giám Minh đã yết kiến Đế Húc, lúc hoạn quan thay mặt vào thông báo, Đế Húc đang ở Dũ An Cung của Thục Dung phi Đề Lan.

“Có chuyện gì cũng chờ trẫm dậy rồi lại nói, mặc kệ hắn muốn… Ngươi vừa nói gì, ai ở bên ngoài?”

“Bẩm bệ hạ, Thanh Hải công thỉnh tấu bệ hạ, đúng là tấu chương của ngài ấy.” Hoạn quan trực đêm hạ giọng điệu the thé xuống, quỳ mọp thấp hơn.

Ngoài Dũ An Cung lặng bặt một chốc.

“Tuyên đệ ấy vào đi.”

Lúc đi vào nội điện Dũ An Cung, Phương Giám Minh có một ảo giác: Trên chiếc giường kiểu Chú Liễn to lớn lộng lẫy kia thực ra không có ai, chỉ có tầng tầng gối đệm và chăn mỏng gấm vóc, nhiều đến trượt xuống khỏi giường.

“Giám Minh, đệ cũng cảm thấy ta sai rồi?” Trong gấm vóc chồng chất, Đế Húc chậm rãi ngồi dậy, thân khoác áo bào trắng trơn.

Phương Giám Minh nhất thời dùng cách xưng hô cũ, đáp: “Húc ca, thời cuộc không yên, một mình huynh ở trong cung, đệ không an tâm.”

Đế Húc nhìn chàng một lúc lâu, khẽ nói: “Thằng bé ngốc, người ta tin nhất chính là đệ. Binh quyền thiên hạ, ngoài bản thân ta ra thì là của đệ, đệ chỉ việc yên lòng làm Thanh Hải công của đệ là được. Đừng quên, nếu đệ chết, ta cũng chẳng sống được lâu.”

Võ tướng thanh niên dưới điện tiến lên đón ánh mắt y, vết đao khóe miệng như cười như không, thần sắc quang đãng khoáng đạt. “Thần chỉ muốn khiến hoàng thượng yên lòng.”

Đế Húc nhắm mắt, tựa như hốt nhiên không tài nào nhìn thẳng được khuôn mặt thân quen tột độ ấy. Một lúc lâu sau, y lẩm bẩm: “Đề Lan, nàng dậy đi.”

Tà áo gấm sau lưng Đế Húc nhúc nhích, tấm lưng trần và mái tóc dài đen nhánh của cô gái thanh nhã mỹ lệ dần lộ ra khỏi chăn. Ả xây lưng ra ngoài màn trướng, bối rối nghi hoặc quay đầu nhìn quân vương của mình.

“Đứng dậy, sang bên kia, đứng dậy.” Đế Húc chỉ vào Phương Giám Minh. Đề Lan do dự, trở mình đứng dậy, áo gấm lướt qua cẳng chân mịn màng nõn nà của nàng, rơi xuống đất.

Tầm mắt Phương Giám Minh không mảy may tránh né.

Đế Húc nói: “Đệ nhìn nàng ta cho kĩ đi. Ta thưởng nàng ta cho đệ, hoặc thưởng nữ tử xinh đẹp hơn nàng ta cũng được – Chỉ cần đệ muốn, chỉ cần thiên hạ có, ta đều cho đệ. Đệ thật sự không lưu luyến ư? Huống hồ đệ mới chỉ hăm tư, còn chưa có con nối dõi.”

Phương Giám Minh mỉm cười: “Nhà họ Phương đời đời làm trọng thần, chưa từng nghe có nam nhi nào được chết yên lành, không phải chết trên sa trường thì cũng chết tại quan trường. Tội gì phải để trẻ con đời sau nối tiếp chịu khổ sở đấu đá giết hại như thế?”

Đế Húc giận quá hóa cười: “Được, được. Trẫm ân chuẩn, khanh muốn đi thì đi đi.”

Hoạn quan đứng trực ngoài cửa thấy Thanh Hải công ra khỏi Dũ An Cung, khom lưng thi lễ. Mãi mà không thấy Thanh Hải công rời đi, trộm ngó, Thanh Hải công trẻ tuổi đang ngửa đầu nhìn lên bầu trời đông mây giăng khi mù khi hửng.

“Tiểu Lạc Tử.”

“Dạ?” Tiểu hoạn quan nhướng hàng mày thưa nhạt đặc thù của thiến hoạn lên.

“Ngươi một lòng trung thành với hoàng thượng, như vậy tốt thật.”

Tiểu Lạc Tử cúi người, cười hì hì đáp: “Đương nhiên rồi ạ, thiến hoạn chúng tôi vào cung làm tôi tớ, không thể mang binh đánh giặc, cũng chẳng thể chia sẻ vì hoàng thượng như trạng nguyên lang, chỉ có thể hết lòng hầu hạ mà thôi.”

“Phải… Không cầm binh quyền, không làm triều chính, coi như không mưu đồ quyền vị nhất rồi.” Thanh Hải công khe khẽ hé cười, sắc mặt chừng rất vui vẻ.

Sau đó Phương Giám Minh về Lưu Thương một chuyến, xử lí điền sản nhà cửa, quay trở lại Thiên Khải rồi không hề tới yết kiến Đế Húc nữa.

Mồng bốn tháng Hai nhuận năm Thiên Hưởng thứ ba, Thanh Hải công Phương Giám Minh đau tim cấp tính từ trần, ban quốc tính, nhu đức an huề viết Tĩnh, cương khắc vi phạt viết Dực, truy phong thụy hiệu Tĩnh Dực vương.

Lại qua nửa tháng, vào ngày âm u lạnh lẽo nhất mùa đông, nội vụ giám tới báo, Phương Chư đã tịnh thân vào cung. Đế Húc lên bộ liễn đi gặp chàng, trong cung viện rộng lớn chỉ có gió bấc từng trận cuốn bay vụn tuyết.

Trong tàm phòng (*) mờ tối, chẳng biết đốt bao nhiêu chậu than mà cửa phòng đẩy ra, chỉ cảm thấy hơi nóng hầm hập phả vào mặt. Đế Húc lập tức vừa cởi lớp áo lông giao cho nội thị tùy thân ôm, vừa đưa mắt nhìn quanh. Trong phòng chỉ có một chiếc sập lùn, không có vật gì khác. Ánh đỏ mông lung của lửa than rọi lên một bàn tay buông thõng trên giường, ánh ra màu xanh chết chóc. Đế Húc rảo chân lên trước, vén phắt màn giường ra, nhất thời lùi xuống một bước. Thái giám quản sự vội dấn nửa bước tới sát bên cạnh, trông sắc mặt y lại không dám mở miệng bừa.

(*) Vốn là danh từ chỉ phòng ấm nuôi tằm, ở đây chỉ nơi thực hiện thiến hoạn, người sau khi bị thiến rất dễ trúng gió, cần vào buồng kín ấm áp, không ra gió không gặp nắng một trăm ngày vết thương mới khép lại được, bởi vậy nên gọi là tàm phòng.

Nhất thời, trong phòng lặng ngắt, chỉ nghe tiếng lửa cháy lách tách.

Thái giám quản sự suýt nữa cho rằng Đế Húc sẽ không nói thêm câu gì.

Người máu me bừa bộn trên sập lùn nhíu chặt mày, khẽ cựa mình, nhưng vì tác dụng của thuốc nên chưa thể tỉnh lại, chỉ có vết đao nơi khóe miệng vẫn bướng bỉnh như cười như không. Tấm đệm vải bông thuần trắng dưới thân bị trùng trùng máu huyết thấm ướt đông lại, cơ hồ biến thành màu đỏ tối. Máu tươi chảy xuống đệm không loang thấm cũng chẳng đông lại, đỏ thẫm chói mắt đọng thành vũng ở đó.

“Giám Minh… Đệ, tội gì?” Giọng nhỏ đến gần như hư vô, luẩn quẩn thở than.

Thái giám quản sự len lén ngó qua, trong con ngươi Đế Húc như có ánh sáng nứt tách hiển lộ, lưu chuyển muốn ra. Ánh mắt ấy khiến người ta rùng mình nhớ đến Húc vương thiếu niên giương cung ngược gió trên Thừa Tắc Môn mười một năm trước, nhưng sắc mặt lại yên ắng tao nhã như một bức tượng.

Một khắc nữa trôi qua, Đế Húc quay đầu trở ra, nói với đám người hầu hạ sau lưng: “Bãi giá, hồi cung thôi.” Y của thời khắc này như mang trên mặt thần sắc lên triều mấy năm gần đây, hờ hững dõi xuống, không nhìn cái gì, cũng chẳng để mắt cái gì. Ánh sáng trong con ngươi một chớp mắt mới rồi đã hóa thành tro – thậm chí là trước nay chưa từng cháy.

Sau đó nổi lên một truyền thuyết, trong cung có một nhánh Vũ Lâm áo đen, chuyên làm chuyện bí mật thay hoàng thượng, chấp chưởng nhánh Vũ Lâm áo đen này là một hoạn quan. Trong Cận Kỳ Doanh và các đại doanh khác cũng có thế lực của Vũ Lâm áo đen. Cố Đại Thành trong Lục Dực Tướng dung túng cho bộ hạ cướp bóc, bị hiệp khách đánh chết, nhưng trong dân gian thì lại có lời đồn rằng người giết Cố Đại Thành là nhánh Vũ Lâm áo đen kia.

Ngày ba mươi tháng Mười năm Thiên Hưởng thứ ba, Yên Lăng đế cơ mưu toan hạ độc hại Đế Húc không thành, bỏ trốn. Vũ Lâm quân đuổi theo đến chòi canh ngoài thành, đế cơ trúng hai mũi tên, la to: “Ta vốn là thứ nữ Phần Dương quận vương, tiếm đế giết cha mẹ anh em ta, sống không thể tự tay đâm tiếm đế, tình nguyện không được siêu sinh, vĩnh viễn làm ác quỷ, dây dưa đời đời!” Đoạn tự rút mũi tên xuyên ngực ra, ngửa mặt gieo mình từ chòi canh năm trượng xuống, ngã chết trên đường Vĩnh Lạc phồn hoa. Phần Dương quận vương Nhiếp Kính Vấn theo Chử Phụng Nghi nổi loạn năm xưa là em trai của Nhiếp phi thời tiên đế, cậu của Yên Lăng đế cơ và Sưởng vương, con gái lão và Yên Lăng đế cơ là chị em họ ngoại, tướng mạo giống nhau cũng chẳng quá lạ kỳ. Mà phò mã đô úy Trương Anh Niên thì tham phú quý, giúp cô ả này giả mạo đế cơ, ngày kế thẩm vấn kết thúc, lập tức bị ngũ mã phân thây trước công chúng. Dân gian lại đồn rằng Yên Lăng đế cơ kia là thật, vì muốn trợ giúp Sưởng vương soán vị nên đích thân hạ độc giết Đế Húc, nhưng để xảy ra sơ suất, vì mong bảo toàn Sưởng vương mà không tiếc bịa xằng mình là thứ nữ Phần Dương quận vương, nhảy lầu tự sát. Người đời nhiều lúc chỉ coi lời đồn ấy là chuyện tiếu lâm, Sưởng vương phóng túng chí đoản, dẫu ở dân gian cũng nổi danh, ai có bản lĩnh trát thứ bùn loãng ấy lên tường chứ.

Ngày mười một tháng Tư năm Thiên Hưởng thứ tư, người cuối cùng sống sót trong Lục Dực Tướng Tô Minh đi sứ Thương Châu, còn chưa ra khỏi biên cương đã gặp phải bão cát, mất tích trong sa mạc giữa Cư Từ và Mục Lan. Ngày tin tức truyền tới, mười lăm tháng Sáu, chính là ngày các nơi cống ngọc trai mới.

Đế Húc đặt chậu gừa trên tay xuống, cau mày nhìn hồi lâu. Cành lá cây gừa đã bị ngắt cho không còn ra hình thù gì, bèn tiện tay nhấc ấm trà mới pha trên bàn lên, nhắm chuẩn vào rễ cây trong chậu giội xuống, vừa giội vừa hỏi: “Hôm nay là tháng năm nào?”

Nội thị kính cẩn thưa: “Bẩm bệ hạ, hôm nay là mười lăm tháng Sáu, buổi sáng bệ hạ vừa xem ngọc cống năm nay đấy ạ.”

“Ta hỏi ngươi, hôm nay là năm nào.”

“… Thiên Hưởng… à… năm thứ mười bốn ạ.” Nội thị nghĩ thầm trong bụng, hình như hoàng thượng hồ đồ thật rồi.