Thôi Diễn nhịn không được hỏi: “Đại ca, chúng ta làm sao bây giờ?”
Thường Ngọc Thanh đi đến bên cạnh bàn cầm lấy tấm bản đồ địa hình quan sát rồi nói: “Chúng ta không nên nóng
nảy, truyền lệnh xuống dưới, tìm chỗ hạ trại, trước mắt không cần xâm
nhập vào trong núi.”
Thôi Diễn đi ra ngoài phân phó bộ đội tìm nơi hạ trại, Khương Thành Dực giương mắt nhìn Thường Ngọc Thanh,
nói: “Bản đồ trên tay chúng ta gần như là đồ bỏ đi, cần phải phái thám
tử đi thăm dò địa hình rồi vẽ lại tấm bản đồ mới, bằng không chúng ta
chẳng khác gì người mù.”
Thường Ngọc Thanh gật gật đầu, nói:
“Ngươi đi an bài đi, phái một ít người đi thăm dò, rồi mau chóng đem bản đồ địa hình mới đến đây.”
Khương Thành Dực đồng ý một tiếng,
rồi đi ra ngoài an bài công việc, đi đến cửa đại trướng lại dừng lại, có chút lo lắng quay người nhìn Thường Ngọc Thanh, do dự một chút rồi hỏi: “Tướng quân, nguyên soái cho Chu tướng quân đánh hạ thành Thái Hưng còn chúng ta đi tiêu diệt quân Giang Bắc, xem tình thế trước mắt, thời gian trên liệu……”
Thường Ngọc Thanh ngẩng đầu cười
cười, hỏi ngược lại: “Thành Dực cảm thấy Chu tướng quân khi nào thì có
thể hạ được thành Thái Hưng?”
Khương Thành Dực khẽ run lên, bắt đầu cân nhắc xem Chu Chí Nhẫn tấn công thành Thái Hưng thì cụ thể cần bao
nhiêu thời gian, không đợi anh ta trả lời, lại nghe Thường Ngọc Thanh
cười nói: “Ta đoán trong vòng từ hai đến ba năm, Chu tướng quân vẫn chưa hạ được thành Thái Hưng.”
Thấy Khương Thành Dực lộ vẻ khó hiểu, Thường Ngọc Thanh khóe miệng khẽ nhếch lên, giải thích: “Thái Hưng là
thành lớn nhất ở vùng Giang Bắc của Nam Hạ, thành cao hào sâu, điều này
Thành Dực đã tận mắt thấy qua, chuyện đó sau hãy nói. Chỉ riêng việc
thành Thái Hưng phía Nam dựa vào sông Uyển, sợ là Chu tướng quân một
ngày khó lòng luyện được thủy quân để cắt đứt đường thủy của Thái Hưng,
cho nên thành Thái Hưng sẽ không thể bị đánh hạ trong một sớm một chiều
được.”
“Thủy quân?”
“Không sai, không có thủy quân, khi
Chu tướng quân công thành sẽ lo lắng sau lưng thụ địch, tuy nói binh lực Giang Nam của Nam Hạ đều bị giữ chân ở Vân Tây, nhưng ai có thể cam
đoan bọn họ sẽ không điều động đến sông Uyển mà cứu Thái Hưng?” Thường
Ngọc Thanh dừng một chút, rồi nói tiếp: “Hơn nữa, thủ thành Thái Hưng là Vạn Lương, nếu có thể điều động anh ta tới Thái Hưng, thì anh ta đâu
thể là loại người tầm thường. Công thành không giống như vây thành, chỉ
cần anh ta không tự nguyện xông ra đối đầu nơi trận tuyến, thì nhất thời thành Thái Hưng sao có thể bị đánh hạ được.”
Khương Thành Dực nghe anh ta nói thì
có chút sững sờ, mấy vấn đề này anh ta không phải chưa từng nghĩ tới,
chẳng qua là chưa bao giờ suy nghĩ sâu xa giống như Thường Ngọc Thanh,
huống chi bọn họ năm trước chỉ trong mấy tháng ngắn ngủn đã tấn công vây hãm biên quan Tĩnh Dương, không mất người nào mà thu được thành Dự
Châu, hành trình tiến đánh Nam Hạ thật sự là rất thuận lợi, thế cho nên
anh ta nghĩ đánh hạ thành Thái Hưng cũng là chuyện vô cùng đơn giản.
Nhưng hiện tại nghe Thường Ngọc Thanh nói vậy, thì việc tấn công thành Thái Hưng không phải là dễ dàng, mà
hơn nữa lại vô cùng phiền toái. Đáng tiếc, tính Thường Ngọc Thanh không
thích nói tỉ mỉ, anh ta chỉ cười cười, trêu đùa: “Khó có dịp mà Thành
Dực và A Diễn lại có chung một ý tưởng nhỉ, cho rằng lĩnh hai vạn tinh
binh là có thể phá tan cửa thành Thái Hưng, dùng mười vạn thiết kỵ có
thể quét ngang Giang Bắc?”
Trên mặt Khương Thành Dực có chút thẹn thùng, khom mình hành lễ nói: “Đa tạ tướng quân chỉ điểm, Thành Dực thụ giáo.”
Thường Ngọc Thanh khẽ nhướn mày,
trong mắt hiện lên một tia giảo hoạt, khẽ cười nói: “Cho nên nói chúng
ta không cần sốt ruột, tiêu diệt thì nhất định phải tiêu diệt, nhưng cứ
chậm rãi mà tiêu diệt là được rồi.”
Khương Thành Dực ra khỏi trướng,
trong đầu vẫn còn những nghi vấn về thành Thái Hưng, nếu thành Thái Hưng kiên cố như thế, vì sao lúc trước khi hai lộ đại quân vây khốn Thái
Hưng, triều đình Nam Hạ lại thất kinh như thế, liền lập tức điều biên
quân Tĩnh Dương hồi cứu Thái Hưng, nếu không phải như vậy, biên quân
Tĩnh Dương đâu thể dễ dàng bị đánh hạ? Những người trong triều đình Nam
Hạ làm ăn cái kiểu gì không biết? Sao có thể hạ một quân lệnh điên cuồng như thế?
Đang lúc anh ta cảm thấy hồ đồ, thì
vừa lúc chạm mặt Thôi Diễn đi an bài quân lính hạ trại trở về, Thôi Diễn một phen giữ chặt anh ta, hưng phấn mà chỉ vào đỉnh núi xa xa nói: “Lão Khương, ngươi nhìn kìa!”
Khương Thành Dực nhìn theo hướng Thôi Diễn chỉ, anh ta nhận ra ngọn núi đó, ở trên bản đồ từng thể hiệu, tên
là Ủng Thúy Sơn. Không gian núi được bao phủ bởi một khu rừng rộng lớn,
không biết vì sao mà bốn mùa trong năm đều xanh biếc, chính vì vậy mà có tên là Ủng Thúy(1).
Thôi Diễn ở bên cạnh nói: “Ngươi nhìn kỹ xem, bên trong khu rừng kia nhất định có người.”
Khương Thành Dực nheo mắt nhìn, quả
nhiên thấy phía bên kia rừng hình như có chim chóc thỉnh thoảng bị hoảng sợ mà bay lên, lượn vòng vòng trên không quanh cánh rừng. “Là phục
binh?” Khương Thành Dực hỏi theo bản năng.
Thôi Diễn đắc ý cười cười, nói: “Bọn
mọi rợ Nam Hạ định mai phục ở bên kia, không lẽ là muốn đợi đến đêm thì
tập kích chúng ta sao, hắc hắc, cuối cùng cũng có cái để chơi đùa rồi.
Chờ trời tối ta liền dẫn người lẳng lặng đi qua đó, đùa giỡn với chúng
một phen.”
Khương Thành Dực lớn tuổi hơn, nên dù sao cũng chín chắn hơn một chút, nói: “Đường núi ngựa chạy kiệt sức,
nhìn thì gần, nhưng thực ra cũng cách nơi này ít nhất phải mấy canh giờ
đi đường, ngươi đừng hành động lung tung, hỏi qua tướng quân trước rồi
nói sau.”
Thôi Diễn mặc dù gật gật đầu, nhưng
biểu tình trên mặt thì lại cho là không đúng, ánh mắt vẫn không rời khỏi Ủng Thúy Sơn. Thôi Diễn nói không sai, trong núi Ủng Thúy quả nhiên là
có người.
A Mạch dùng sức đạp chân lên thân
cây, ngẩng đầu nhìn chim chóc trên cây hoảng sợ bay đi, sau đó tiếp tục
xoay người đạp vào thân cây khác. Ở bên kia, Vương Thất cũng dẫn người
tiến lại, cợt nhả hỏi: “A Mạch đại nhân, chúng ta làm loạn đến khi nào?”
A Mạch nhìn anh ta một cái, nhịn
không được cười mắng: “Cái rắm! Đừng gọi ta là A Mạch đại nhân, hoặc là A Mạch, hoặc là đại nhân, sao đến đây lại thành A Mạch đại nhân!”
Vương Thất hắc hắc cười gượng hai
tiếng, cẩn thận liếc mắt nhìn binh lính bên cạnh, ghé sát vào A Mạch
thấp giọng hỏi: “A Mạch, ngươi nói chúng ta ở đây đạp cây có tác dụng
sao? Thát tử có mắc mưu không?”
A Mạch đi có chút cà nhắc, rướn người lên định nhìn ra xa, nhưng khu rừng này rất rập rạp, che khuất tầm của
nàng, lại che khuất cả doanh trại của Bắc Mạc trên sườn núi xa xa.
“Ai mà biết được,” A Mạch thấp giọng
đáp,“Nếu đại nhân cho chúng ta làm như vậy, tất nhiên là có cái lý của
anh ta, việc này lại không mất sức, cũng nên thử làm để dẫn dắt thát tử
đến nơi mà huynh đệ ta đã bố trí sẵn” Nàng liếc mắt nhìn người vừa được
thăng làm Ngũ trưởng, Vương Thất, lại dùng sức đạp lên mấy thân cây bên
cạnh, thấp giọng cười nói: “Coi như là luyện quyền cước.”
Vương Thất đi theo “Ừ” một tiếng, xoay người cười hì hì đi luyện chân.
Sau khi Thường Ngọc Thanh tiến vào
dãy Ô Lan, Lục Cương liền đưa thất doanh từ trên núi Tây Trạch ẩn vào
bên trong khu vực núi rừng rập rạp này. Hôm nay, A Mạch dựa theo sự phân phó của anh ta, dẫn người lại đây giả có phục binh. Có phục binh, tất
nhiên phải có dấu hiệu, binh pháp Tôn Tử viết: Nơi nào có chim bay tán
loạn, là nơi có phục binh.
A Mạch thầm nghĩ Lục Cương đúng là
không hổ xuất thân binh nghiệp, binh pháp thuộc làu làu, chỉ có điều là
sử dụng binh pháp theo cách như vậy, e rằng quá cứng nhắc. Nếu làm xiếc
loại này có thể lừa được Thường Ngọc Thanh, thì quá bằng coi Thường Ngọc Thanh chẳng khác gì mớ rau cải.
Bất quá, nếu trưởng quan đã phân phó
phải làm như vậy, nàng tất nhiên không thể phản đối, nghĩ dù sao cũng
chẳng có hại gì, cùng lắm thì chỉ uổng phí chút khí lực mà thôi, cho
nên, A Mạch nhận được quân lệnh của Lục Cương, liền vui vẻ tới đây. Hơn
nữa, A Mạch vốn cũng muốn nhân thể luyện tập cho binh lính của mình, có
thể chạy bộ, luyện cước lực, luôn luôn là chuyện tốt.
Vì có A Mạch làm “Tấm gương cho binh
sĩ”, nên các binh sĩ đội bốn của thất doanh quân Giang Bắc đồng tâm hiệp lực làm công tác “Đạp cây” với khí thế ngất trời. Không chỉ binh lính
trong đội lý, mà ngay cả thân binh của A Mạch cũng đi. Bởi vì khi được
thăng lên làm Đội trưởng, A Mạch cũng danh chính ngôn thuận có thân
binh, ngoại trừ mấy thân binh do Lý Thiếu Hướng lưu lại, A Mạch chỉ dẫn
theo Trương Nhị Đản đến đây, chẳng qua nàng không thích sai sử thân
binh, cho dù có việc thì phần lớn sẽ phân phó Trương Nhị Đản đi làm. Cứ
như vậy, thân binh của nàng cơ bản là không có việc gì làm, thấy vậy, A
Mạch liền đem đội thân binh vốn chỉ có nhiệm vụ là phục vụ riêng mình
đổi thành ngũ cảnh vệ thông tin phục vụ cả đội, tuy rằng vẫn là biên chế thân binh, nhưng quá trình sử dụng lại có cải biến lớn.
Rất lâu về sau này, khi mọi người
nhắc tới ngũ cảnh vệ thông tin của Mạch soái, cũng không khỏi liên hệ
với doanh cảnh vệ thông tin của Tĩnh quốc công, mọi người đều cho rằng
Mạch soái khi vẫn còn là một đội trưởng nho nhỏ đã rất có phong thái của Tĩnh quốc công. Đương nhiên, đây đều là nói chuyện sau này, tạm thời
không đề cập tới.
A Mạch lại đạp một một thân cây khác, cảm thấy đã cố hết sức, liền ngồi xuống đất. Trương Nhị Đản thấy A Mạch ngồi xuống, vội vàng đem bầu nước đến cho A Mạch, rồi ngồi xổm một bên
quan sát. A Mạch nhận lấy bầu nước uống mấy ngụm, thấy Trương Nhị Đản
còn ngồi bên cạnh nhìn mình chăm chú, cố ý đanh mặt lại, đem bầu nước
trả lại cho anh ta, hỏi: “Nhị Đản, ngươi nói chúng ta tham gia vào quân
ngũ thì cái gì là quan trọng nhất?”
Trương Nhị Đản bị hỏi liền sửng sốt,
cân nhắc một lát, rồi vỗ vỗ đại đao bên hông, trả lời: “Đại đao! Tham
gia quân ngũ nếu không có đao, thì không gọi quân nhân nữa!”
A Mạch mím miệng, gật gật đầu: “Nói cũng không sai, nhưng cũng chưa phải là cái quan trọng nhất.”
Trương Nhị Đản mê hoặc, nhịn không được hỏi: “Vậy cái gì là quan trọng nhất?”
A Mạch nở nụ cười, đưa tay vỗ vỗ lên hai chân của mình, cười nói: “Tất nhiên là hai cái chân.”
Ngũ quan Trương Nhị Đản trông không khác gì một khối thuốc tễ(2), trên khuôn mặt ngăm đen tràn đầy vẻ hoang mang: “Vì sao?”
A Mạch trừng mắt nhìn, nghiêm trang
nói: “Thắng, chúng ta dùng nó để truy đuổi thát tử, đuổi kịp thì mới có
khả năng giết địch; thua, thát tử đuổi chúng ta chạy, chúng ta chỉ có
chạy thật nhanh thì mới có khả năng bảo toàn tính mạng. Ngươi nói xem có phải hai chân của chúng ta là cái quan trọng nhất hay không?”
Trương Nhị Đản nghe nàng giảng giải
thì ngẩn ra, chỉ cảm thấy tất cả mọi chuyện dù đơn giản đến đâu theo
miệng nàng nói đều thành đạo lý, vì thế ánh mắt nhìn A Mạch không khỏi
lại tăng thêm hai phần kính nể, nhịn không được cũng hỏi nàng câu mà
Vương Thất đã từng hỏi: “Ngũ trưởng, ngươi nói thát tử sẽ bị chúng ta
dẫn dụ đến đây sao?”
Lúc này, A Mạch không nói gì, chỉ khẽ cười, nhẹ nhàng mà lắc đầu.
“Không đi!” trong quân trướng Bắc
Mạc, Thường Ngọc Thanh nhìn lướt đỉnh núi Ủng Thúy Sơn xa xa, quay lại
đầu phân phó Thôi Diễn nói: “Ngươi thành thành thật thật tăng mạnh phòng ngừa trong doanh, tăng cường ngoại tham3 cùng ngoại phụ4, bọn mọi rợ
Nam Hạ thích nhào lộn thì cứ để cho chúng nhào lộn, ngoại trừ bộ phận
phụ trách cảnh giới, còn lại mọi người cứ việc ngủ cho ngon giấc.”
“Bọn mọi rợ Nam Hạ đêm nay mà tập kích thì phải làm thế nào?” Thôi Diễn hỏi.
“Đội quân cảnh giới để làm gì?”
Thường Ngọc Thanh hỏi, anh ta cười khẽ liếc nhìn Thôi Diễn: “Bất quá ta
đoán bọn mọi rợ Nam Hạ tối nay sẽ không đến đánh lén đâu, bọn họ còn
không biết đang ẩn nấp ở nơi nào chờ chúng ta đi tập kích trong đêm nay
mà!”–
—————————-
Chú thích:
1- Ủng Thúy: tươi tốt, xanh tươi
2- Thuốc tễ: là thuốc Bắc cô thành hoàn, có màu đen.
3- Ngoại tham: Bố trí người canh gác
bốn phía quanh doanh trong phạm vi 10 dặm, đề phòng cảnh giác, phòng
ngừa có biến thì phải lập tức báo tin (chú thích của tác giả);
4- Ngoại phụ: Bố trí 3 đến 5 người 1
tổ, ban đêm “cho quân đi trước hoặc ẩn nấp hai bên sườn, cứ 3 đến 5 dặm
lại bố trí một tổ ở những nơi hiểm yếu” mang theo trống trận, không chỉ
phụ trách việc quan sát tình hình địch quân, mà còn nhận biết khi có
địch “xâm phạm đại doanh”, thì có nhiệm vụ “khua trống thật lớn”, dùng
để kích động tâm lý chiến đấu. (chú thích của tác giả)