Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối

Chương 36: Brady




Tôi đi bộ tới nhà Schultz, nhiễm sắc thể Y trong người tôi lập tức trỗi dậy. Thay vì tập trung vào công việc trước mắt, tôi bắt đầu so sánh nhà của ông với dinh thự mình sẽ có khi trở thành triệu phú. Chỗ này thật ấn tượng, đầy đủ hết. Nhưng tôi thì sẽ có tối thiểu năm chiếc xe trước nhà, giống như mọi ngôi sao nhạc rap biết tự trọng khác. Và tôi sẽ thuê người để đảm bảo những chiếc xe đó luôn được đánh bóng hoàn hảo. Mỗi ngày.
Tôi biết vì tôi đã xem quá nhiều tập phim Cribs trên MTV. Nhưng bạn biết mình không thấy được gì trong những tập Cribs trên MTV không, loạt chương trình phô trương sự giàu có của những người nổi tiếng ấy? Bờ hào. Khi tự kiếm được tiền, tôi sẽ xây một con hào ngay trước cửa nhà. Để phòng hờ thôi. Biết đâu sẽ có ngày Howard và tôi cùng đi chơi, săn bắn này nọ, làm những thứ đàn ông hay làm cùng nhau – đánh giá các cô siêu mẫu, nhiếc móc các tay huấn luyện viên thể thao chuyên nghiệp, tranh luận xem ai có nhiều tóc hơn – lúc đó tôi sẽ luôn có bờ hào. Quân bài chiến lược. Schultz à? Chà, ông đâu có cái bờ hào nào! Chịu thua đi!
Rồi khi đứng đó, gật gù với hào nước, tự hài lòng với chính mình, tôi bừng tỉnh vì một người làm vườn bước vào nhà, để cổng mở toang. Tôi đâu phải người tin vào các dấu hiệu, ám chỉ này nọ. Nhưng nếu Heaven đứng đây, cô nàng sẽ dứt khoát cho rằng đây là một dấu hiệu. Và rằng tôi nên bước vào sau người làm vườn. Thế là tôi đi vào.
Được rồi, ông ấy có thể không có hào nước, nhưng căn nhà này đẹp chết đi được. Tôi không biết chính xác nên làm gì ở đây, bèn bước lên thảm cỏ cùng bản kế hoạch kinh doanh. Ngay lúc đó, bất thình lình tôi nghe một giọng nữ Mexico chói tai cất lên.
“Cậu muốn gì?”
Tôi không biết nên nhìn vào đâu, nhưng vẫn trả lời như thể đang nói chuyện với một phù thủy xứ Oz.
“Tôi chỉ… có vài thứ cho ngài Schultz”, tôi đáp, giơ bản kế hoạch cùng chiếc chai nhỏ lên để chứng tỏ mình thực sự có vài thứ.
“Ngài Schultz không có ở nhà. Cậu không được mời. Cậu là kẻ đột nhập! Tôi gọi cảnh sát!”
“Không, không cần phải vậy!” Tôi vẫn còn tự hỏi liệu bà ấy có vô hình hay sao, hoặc có lẽ bà ấy nói chuyện thông qua máy phát thanh gắn đâu đó trong thảm cỏ.
“Tôi gọi cảnh sát NGAY!” Bà ấy nói, rồi tôi nghe tiếng “click”. Ban đầu, bộ não hoảng hốt của tôi nghĩ rằng đó là tiếng lên cò súng. Nhưng không, nghe giống như tiếng cửa đóng sập vào hơn. Mà thôi, tôi khá chắc bà ta không nói đùa. Rồi lại có vấn đề khi người làm vườn hùng hổ đi về phía tôi cùng cái nhìn rất đáng sợ với chiếc cào cỏ bằng kim loại khổng lồ trong tay. Tôi bèn chạy khỏi thảm cỏ, qua cổng, xuôi xuống đồi, trở lại chỗ Heaven đang nói chuyện với mấy đứa bé.
Chạy đến chỗ cô nàng, tôi đã mệt đứt hơi, cúi người về trước, chống tay lên gối mà thở hồng hộc mất mấy giây. Strummer đi đến, liếm mặt tôi.
“Chuyện gì vậy?”, cô nàng hỏi. “Cậu gặp ông ấy chứ?”
“Không, tôi thấy người làm vườn của ông ấy, và bị quát mắng bởi ai đó mà tôi đoán là quản gia, trừ phi ông ấy kết hôn với một quý bà giọng cao the thé và nói tiếng Anh không sõi.”
“Ai biết được chứ”, Heaven đáp. “Có thể bà ấy thực ra rất tốt, nhưng uống cà phê quá nhiều. Tôi bảo đảm trong nhà đó có nguồn cung cà phê vô tận.”
“Tôi sẽ phải đáp không về việc đó. Tôi nghĩ xác xuất cao là chẳng có ai dám kết hôn với mụ đó.” Cô nàng nhìn xuống tay tôi, tôi đang cầm bản kế hoạch cùng chiếc chai.
“Cái gì kia?”, cô nàng hỏi. “Tại sao bản kế hoạch vẫn ở trong tay cậu?”
“Cô không nghe hết à? Quý bà giọng the thé, người làm vườn… cái cào?”
“Này, đưa tôi xem”, cô nàng nói rồi tóm lấy bản kế hoạch cùng chiếc chai khỏi tay tôi, cô nàng oai vệ tiến về phía một đứa nhóc đang phê thuốc. Chỉ loáng sau, tôi thấy thằng bé cởi chiếc áo thun hipster kiểu để chơi bowling ra, đưa cho cô nàng. Cô nàng lộn nó lại, mặc vào người, cuộn tóc lên thành búi, rồi oai vệ đi về phía lối dẫn tới nhà Schultz, hướng cửa trước.
“Rất vui được quen cô”, tôi la lên.
Tôi thậm chí không dám nhìn. Nhưng vì mạng sống của Heaven đang rơi vào nguy hiểm, tôi nghĩ việc này có thể thú vị. Thế là từ đằng sau xe hơi, tôi nhìn qua thảm cỏ, cô nàng đã đi tới cửa trước ngôi nhà to sụ của Schultz. Tôi nhìn về phía cánh cửa mở, thấy một người mặc áo đen, và Heaven nói chuyện với ông ta trong khoảng thời gian dường như dài cả thiên niên kỷ. Rồi đóng cửa lại. Và như thể chẳng có gì xảy ra, cô nàng quay lại.
“Brady?”, cô nàng gọi.
“Đây này”, tôi nói từ chỗ trốn đằng sau xe hơi, hiện tại trông tôi hơi hèn. Cô nàng khom người. “Chuyện gì vậy?”, tôi thì thào.
“Một người ra mở cửa… tôi nói ông ấy là tôi có thứ rất quan trọng cần giao cho ngài Howard Schultz, và gán hết cho ông ta trách nhiệm phải đảm bảo đưa nó tới cho ngài Schultz trong tình trạng nguyên vẹn, bằng không…”, rồi cô nàng vẫy tay trong không khí.
“Bằng không thì sao?”
“Tôi quên mất mình đã dùng từ gì rồi”, cô nàng nói, “nhưng ông ấy rất ấn tượng với tính nghiêm trọng của vấn đề. Thế nên tôi nghĩ chúng ta có năm mươi phần trăm cơ hội.”
Ông ta không phải người duy nhất bị ấn tượng. Thành công hay không, đó cũng là điều thật thần thánh. Cô nàng lôi tôi khỏi phía sau chiếc xe. Chúng tôi quay trở lại mặt-đối-mặt với thằng bé mười hai tuổi đang mặc chiếc áo thun Nirvana cùng áo khoác chạy mô tô màu đen.
“Áo khoác đẹp đấy”, tôi nói. “Trông nhóc giống như Fonz[1] ấy.”
[1] Nhân vật giả tưởng trong loạt phim sitcom “Những ngày hạnh phúc” của Mỹ, do Henry Winkler đạo diễn, công chiếu vào năm 1974.
“Là ai vậy?”, thằng bé hỏi. Tôi thậm chí không màng đưa ngón cái lên nói “ai da” để trêu chọc trí nhớ của thằng bé, vì nó làm gì có ký ức về chuyện đó. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy mình là thằng đàn ông già cỗi nhất trái đất.
Ngay lúc này, một chiếc xe cảnh sát đỗ lại ngay sau chiếc xe hơi thuê của tôi. Hai viên cảnh sát bước ra.
“Chết tiệt”, tôi nói. “Bà quản gia quỷ quái kia gọi cảnh sát thật luôn à?”
“Gì thế này?”, Heaven hỏi.
“Chúng ta chỉ cần vờ vịt chút”, tôi nói. “Vờ vịt. Cứ ra vẻ tự nhiên đi.” Nhưng hai viên cảnh sát đi về phía xe chúng tôi, bắt đầu chiếu đèn pin vào bên trong. “Khốn nạn thật… họ biết là tôi. Hẳn là tôi nên đi lại đó.”
Tôi đi lại phía chiếc xe, Heaven theo sau.
“Xin lỗi, sĩ quan, tôi nghĩ các vị đang tìm tôi”, tôi nói. “Tôi không định làm gì cả, tôi chỉ muốn nói chuyện với ngài…”
“Cô ta kìa! Đứng yên! Nằm xuống đất”, họ kêu lên, rút súng ra. “Nằm xuống.” Tôi làm theo. Chết tiệt! Schultz hẳn là rất có tiếng tăm ở cái thị trấn này. Nhưng tại sao lại là “cô ta”? Tại sao Heaven lại dính líu vào đây?
“Cả hai!” Họ nhìn Heaven. Cô nàng làm theo. Tôi cảm thấy thật tệ khi Heaven cũng bị lôi vào việc này.
“Này, sĩ quan, cô ấy chẳng liên quan gì tới vụ này cả”, tôi nói.
Chúng tôi bị họ còng tay khi vẫn còn nằm dưới đất. Rồi họ đưa chúng tôi tới xe cảnh sát, ấn vào xe, quay lưng về phía họ.
“Dang chân ra”, họ quát với chúng tôi. “Các người có vũ khí không?”
“Không”, cả hai chúng tôi đáp. Họ bắt đầu sờ soạng chúng tôi từ trên xuống dưới. Ngay lúc đó, khoảng bảy xe cảnh sát nữa lao về phía chúng tôi, đèn nhấp nháy. Một viên cảnh sát cho tay vào túi quần của Heaven, móc chìa khóa ra.
“Đó là chiếc Ford Focus của cậu à?, ông ấy hỏi.
“Vâng… ý tôi là, không… là xe thuê”, tôi nói.
Họ mở cốp xe, lôi ra một chiếc túi vải thô lớn.
“Cái gì đó?”, tôi hỏi Heaven.
“Tôi không biết”, cô nàng đáp.
Một viên cảnh sát mở túi, nhìn các cảnh sát khác bằng ánh mắt tôi không hiểu lắm. Rồi ông ta lôi ra một khẩu súng khổng lồ.
“Ôi lạy Chúa!”, Heaven lẫn tôi cùng thốt lên.
“Các người có quyền giữ im lặng…”, ông ta nói. Rồi tiếp tục đọc ra các quyền của chúng tôi, giọng bị những người tại buổi cầu nguyện át đi. Họ đột nhiên lại đang la ó, huýt gió về phía chúng tôi.
Thêm nhiều cảnh sát đến. Chúng tôi bị áp giải xuyên qua đám đông tại buổi cầu nguyện cho Kurt Cobain, tay bị còng, một cảnh sát cầm súng – khẩu súng vừa tìm thấy trong cốp xe của chúng tôi. Họ ghét chúng tôi. Ai đó thậm chí còn nhổ vào tôi, rồi vài người khác cũng làm theo.
“Kurt chết vì tội lỗi của các người đấy!”, một cô bé nào đó la lên. Rồi bỗng nhiên chúng tôi đã trở thành kẻ thù chung, mọi người đều kết bè chống lại chúng tôi.
“Cô ta cướp cái áo của tôi!”, thằng bé phê thuốc nói. Cái này đặc biệt chua chát, vì tuy chỉ tình cờ, nhưng cũng đúng. Strummer bắt đầu sủa như điên, không ngừng nghỉ.
“Sao thứ đó lại chui vào cốp xe của chúng ta?”, tôi hỏi Heaven.
“Tôi không biết! Họ đang nhổ vào tôi này!”, cô nàng rên rỉ.
“Heaven! Nghĩ đi! Một khẩu súng? Tại lễ cầu nguyện của Kurt Cobain? Cô cũng biết đó là cách cậu ta tự sát mà, đúng không?”
“Tất nhiên tôi biết.”
“Chà, tôi cũng muốn nhổ vào cô đây.”
“Không phải lỗi của tôi!”, cô nàng la lên.
“Lần gần nhất cô gây ra việc tội lỗi là bao giờ? Chưa bao giờ chứ gì? Thôi, hỏi vậy thôi”, tôi đáp. Rồi tôi nói thêm, “Cô là Thủ đô Xấu hổ của cả thế giới đấy, cô biết không?”
Chúng tôi tới chỗ xe cảnh sát. Ông ta mở cửa, che đầu chúng tôi để không bị đụng đầu vào trần trong lúc đưa chúng tôi vào xe. Họ mang Strummer theo, đưa nó vào một chiếc xe khác. Không bị còng.
Tôi nhìn trừng trừng vào Heaven, nhưng cô nàng không nhìn tôi. Cô nàng cảm thấy ánh mắt của tôi hướng về mình, nhưng không nhìn lại. Cô nàng hệt như Strummer mỗi khi làm sai điều gì đó – nghe được cảm xúc trong giọng nói của tôi nhưng giả vờ không biết và chẳng thèm nhìn tôi. “Chiếc xe cũng bị tịch thu”, cảnh sát cho hay.
“Tất nhiên rồi”, tôi quay lại, đối mặt với mối đe dọa bên phải. “Được rồi… Heaven?” Tôi gọi, cô nàng vẫn cứ ngồi đó, từ chối nhìn vào tôi. “Tôi chính thức nâng mức báo động quốc gia của cô từ cam sang đỏ.”
Tôi ngồi trong một buồng giam tại nhà tù quận King, ở trung tâm Seattle. Heaven và tôi vừa phá vỡ toàn bộ buổi cầu nguyện của Kurt Cobain, bị bắt giữ vì sở hữu trái phép vũ khí cùng dụng cụ cướp ngân hàng. Tại sao mọi thứ lại xảy ra như vậy, thì tôi không biết.
Chúng tôi bị lấy dấu vân tay, tôi bị giam trong buồng. Heaven ở trong buồng cạnh bên, đang bắt đầu hát liên khúc cũ kỹ về các băng đảng. Tôi đảo mắt với cô nàng.
“Tôi xin lỗi”, cô nàng nói qua các chấn song. Rồi gương mặt cô nàng biến đổi, như thể vừa thấy ma. “Này!” Cô nàng nói với một gã đội chiếc mũ bóng chày, bị cảnh sát còng tay dắt ngang qua chúng tôi. Đó là gã Nước đái mèo! Gã thì thào với tôi. Rõ ràng không phải một con ma. Gã Nước đái mèo. Chẳng hiểu ý gì nữa!
Rồi tôi nghe tiếng bước chân đi về phía chúng tôi. Tôi quay lại, rất sốc khi thấy gã lùn tại văn phòng Schultz cùng một quý bà gốc Tây Ban Nha thấp tịt, mập ú mặc trang phục của quản gia đang nhìn vào buồng giam của chúng tôi.
“Đúng rồi, thưa sĩ quan”, gã nói. “Chính là cậu ta.”
“Đúng”, bà Tây Ban Nha nói. “Người xấu!”
“Các người giỡn mặt với tôi chắc. Bây giờ dùng nhà vệ sinh cũng là tội sao?”
“Không, nhưng xâm nhập tư gia thì là tội”, viên cảnh sát nói. “Cậu rõ ràng đã quanh quẩn ở đó cả ngày, cậu Gilbert.”
“Ai đó nhéo tôi một cái đi”, tôi nói. “Tát một cái… làm gì cũng được. Đánh thức tôi khỏi cơn ác mộng này đi.” Rồi tôi nhìn gã đang ở cùng buồng, bỗng nhiên gã chồm lên. Tôi chắc chắn cần chỉnh lại lời vừa nói. “Tôi không thực sự cần tát đâu.”
“Ai đó?”, Heaven nói.
“Gã tiếp tân”, tôi nói.
“Biến khỏi đây đi, đồ sâu bọ tí hon!”, Heaven hét về phía gã. “Cậu sẽ phải hối tiếc khi biết mình vừa gây sự với ai!”
“Cô đang làm mọi thứ tệ thêm”, tôi nói với cô nàng.
“Xin lỗi”, cô nàng đáp, ấn khuôn mặt vào giữa các chấn song để thấy rõ hơn gã Nước đái mèo.
“Cậu đang làm gì ở đây thế?”, cô nàng hỏi. “Ôi lạy Chúa… là cậu!” Cô nàng nói như thể vừa đột nhiên nhận ra điều gì. Cô nàng vươn cả cánh tay khỏi song chắn để trỏ ngón tay kết tội về phía hắn. “Cậu bỏ khẩu súng vào cốp xe của tôi. Và cậu là lý do tại sao cảnh sát đến.”
“Gì cơ?”, tôi hỏi.
“Là súng của hắn.”
“Hắn là ai?”
“Hắn là gã tốt bụng đã giúp tôi cho đồ vào cốp. Hóa ra… chẳng tốt bụng lắm.”
Gã đó thậm chí chẳng nhìn vào Heaven. Chỉ nhìn chằm chằm xuống đôi giày.
Cảnh sát mất mười hai giờ để xác nhận câu chuyện của chúng tôi và hoàn thành các giấy tờ, nhưng cuối cùng cũng để chúng tôi đi. Hóa ra gã mà Heaven bị quyến rũ và giúp đỡ cô nàng với mớ đồ tạp hóa lại là kẻ đã cướp nhà băng Mỹ ngay bên cạnh cửa hàng tiện lợi mười phút trước. Gã quyết định phi tang khẩu súng vào cốp xe của chúng tôi. Tất cả đều bị camera giám sát quay được. Họ tha cho tôi tội xâm nhập tư gia bất hợp pháp, vì một sĩ quan từng học cùng trung học với gã hề Át bích kia (thực ra tên gã là David – thật không còn gì để nói), và gã hứa sẽ “thuyết phục con đỉa đó buông ra”.
Viên cảnh sát này gọi David là “gánh nặng của nhóm”, kể với tôi rằng có lần David từng ngất xỉu trên sân khấu trong lúc đang chơi kèn bassoon tại một buổi biểu diễn. Khi mà tôi đang hưởng lạc, thì David lại đang cầu nguyện cho một đền thờ của thuyền trưởng Kirk. Mọi thứ gần như giải thích trơn tru cho nỗi thù oán của gã. Gần như thôi. Tôi sẵn sàng bỏ qua vẻ đạo mạo để đập nát gã đó. Hoặc tối thiểu nhất là nghiến cho gã một phát.
Họ dẫn chúng tôi tới chỗ Strummmer, nó đang quanh quẩn bên ngoài một văn phòng thám tử cùng một con Lab đen. Rõ ràng là nó đang sống lại những ngày xưa cũ, được chơi trò hẹn hò với chó của cảnh sát, và nó chưa sẵn sàng rời khỏi đây.
Chúng tôi lôi nó ra ngoài, đứng trên đại lộ số 5. Và rồi khi mọi thứ đã chính thức đâu ra đấy, chúng tôi nhìn nhau, như thể để nói, “Cái quỷ quái gì thế nhỉ?”.
Khi lấy xe ra khỏi bãi giữ xe, cả hai chúng tôi đều đói ngấu. Heaven bèn khui chỗ Pringles cô nàng đã mua đủ dùng cho cả mấy tháng. Nhưng cô nàng không cho tôi chút gì, tới khi tôi đồng ý đua với cô nàng ăn hết một lọ. Đây là thứ tôi phải chịu đựng. Sau khi phải chịu đựng trong tù vì cô ta, tôi thậm chí còn không có được một lọ Pringles.
“Hôm nay cô còn gây chuyện chưa đủ sao?”, tôi hỏi. “Có phải tôi đang bị buộc phải chấp nhận việc bụng dưới sẽ tích một nắm khoai tây trong suốt một tuần không?”
“Trong ruột già của cậu thì có thể, bụng dưới thì không”, cô nàng nói. “Thôi nào. Sẽ vui mà.”
“Ăn thì chẳng có gì vui cả. Tôi thích nhai đồ ăn một cách đàng hoàng.”
“Một khi đã từng… bạn không thể ngừng”, cô nàng ngâm nga. Đây là giai điệu quảng cáo của Pringles.
“Ừ, nhưng tôi không định… làm vỡ động mạch.”
“Vớ vẩn.”
“Pringles đâu phải để tọng cả nắm vào miệng một lúc”, tôi nói, cố gắng làm cô nàng lung lạc ý chí. “Chúng rất đặc biệt. Chúng là để thưởng thức, từng viên một. Lớp đường siêu mỏng… giòn nữa. Rồi cảm giác tan-ngay-trong-miệng… không quá nhiều dầu… không quá mặn…” Cuối cùng tôi tự khiến mình sa vào cơn thèm Pringles tới mức hết chịu nổi. “Đưa cho tôi”, tôi nói trong lúc giật lấy một ống, mở nắp và ngấu nghiến. Chết tiệt thật! “Tôi sẽ không hiền lành gì với cô đâu”, miệng tôi đầy kẹo. “Tôi vừa phải chịu đựng tù giam chỉ vì cô. Tôi tin mình xứng đáng được ăn kẹo.”
“Này, ngài cũng có phần trong đó đấy, thưa ngài.”
“Thật sao?”
“Xâm nhập tư gia bất hợp pháp và bị chuông báo trộm phát hiện đấy thôi?”, cô nàng nói.
“Nhưng họ sẽ chẳng gửi nguyên cả binh đoàn cảnh sát Seattle lùng sục tôi. Tôi bị lôi vào cái đống hỗn độn của cô đấy.”
“Khoai tây… khoai tây”, cô nàng nói. “Nhân tiện, cậu nên cảm ơn tôi. Ít nhất vào lúc này, nhờ tôi, Schultz sẽ biết cậu là ai.” Rồi cô nàng thò vào ống, lấy ra chừng mười bảy viên Pringles, tống hết chỗ đó vào miệng.
“Tôi dám cá cô sẽ khát nước khủng khiếp trong vòng khoảng ba mươi giây nữa.”
“Thì sao?” Cô nàng đáp, miệng đầy kẹo.
“Và… cô không nên nói trong lúc miệng đầy thức ăn.” Điều đó tất nhiên khiến cô nàng phải mở miệng to hơn, tôi thấy hết cả chỗ kẹo đang bị nhai. Từ khi nào tôi trở thành anh trai của cô nàng thế này? “Và… trước khi cô bắt đầu cư xử như một con bé tám tuổi, thì tôi sẽ cho cô đồ uống.”
“Tôi thực sự khát rồi”, cô nàng nói.
“Chà, rất tình cờ là tôi lại có một loại cola có thể cô sẽ thích.” Tôi lôi ra lon Tab để trong túi từ lúc còn ở L.A., đưa cho cô nàng.
“Ôi lạy Chúa! Cậu lấy được thứ này ở đâu vậy?”, cô nàng thét lên.
“Tôi đổi với bạn tù trong trại đấy. Nói cho cô nghe, tốn hết ba gói thuốc lá và một cuộc tự sướng bằng tay cho hắn đấy.”
“Câm miệng, cậu lấy thứ này ở đâu?”
“Tôi lấy được ở L.A… Tôi vốn định đưa cho cô từ trước, nhưng quên béng mất. Bị kẹt vào vụ nhân viên an ninh của Schultz, rồi lại vụ khổ sở kia.”
“Cám ơn”, cô nàng nói rồi khui lon soda. Uống một ngụm lớn, sau đó “aaah” một tiếng. Cô nàng lại còn lấy chiếc khoen đeo vào ngón áp út như thể nó là chiếc nhẫn cưới ấy. Cô nàng đưa bàn tay ra, nhìn ngắm. “Một ngày nào đó”, giọng cô nàng rầu rĩ.
“Ồ, một chiếc nhẫn từ khoen lon soda. Cô dễ tính thật. Hầu hết các cô gái khác thì thích nhẫn của Tiffany.”
“Này, tôi đâu có như hầu hết các cô gái khác.” Cô nàng khoe mẽ với tôi đấy à?
Chuyến bay khứ hồi khởi hành vào lúc 7 giờ tối nay. Tới lúc này, tôi đã làm hết những điều có thể vì Sữa quế. Chúng tôi còn một ngày cuối cùng để tận hưởng mọi thứ tại Seattle. Nếu chúng tôi thực sự “nguyên vẹn” thoát khỏi chốn này, tôi sẽ rất ngạc nhiên.
Chúng tôi chợp mắt một chút để không mất sức. Sau đó Heaven muốn tới xem dự án Trải nghiệm m nhạc, điểm du lịch mới nhất tại Seattle. Đó là một bảo tàng về âm nhạc được Frank Gehry thiết kế. Thực ra tôi cũng muốn đến xem, thế là chúng tôi lên đường. Tôi khá kinh ngạc.
Frank Gehry là người tôi vô cùng ngưỡng mộ. Thường thì các kiến trúc của ông độc đáo, mềm mại và duyên dáng, nhưng thứ này lại hoàn toàn ngứa mắt. Trông cứ như thể ông đã lấy một mớ thép, tấm kim loại bó lại với nhau ấy.
Chúng tôi vào trong, xem các quầy kệ điện tử trông cực kỳ giống chương trình Behind the Music của VH1 – trừ phần quảng cáo.
Bộ sưu tập về Jimi Hendrix chính là thứ mở màn phần nào cho nơi này. Người ta cho rằng nó bắt đầu với chiếc guitar Hendrix từng chơi tại Woodstock cùng chiếc mũ bolero đen trứ danh của ông. Giờ thì họ còn có cả guitar của Bo Diddley, Bob Dylan, tất nhiên cả Nirvana nữa.
Công nghệ của họ cho phép những người chẳng biết cách chơi nhạc cũng có thể bỗng dưng được hòa mình cùng các anh hùng. Heaven xông vào Onstage, một căn phòng sáng sủa, đầy khói, cho phép mọi người trải nghiệm cảm giác chơi nhạc sống trước hàng nghìn người hâm mộ gào thét.
Cô nàng hát một phiên bản rất lạ của bài Wild Thing trước đám đông đang phấn khích – rõ ràng đó là những người hâm mộ của buổi biểu diễn tại Log Angeles lúc trước. Khi hát xong, cô nàng đứng đó cúi chào hết lần này đến lần khác. Khi tôi nghĩ đã xong xuôi, cô nàng lại cúi chào lần nữa. Tôi phải tự tay lôi cô nàng khỏi sân khấu.
“Cậu có phiền không vậy?”, cô nàng hỏi.
“Cô thì sao?”, tôi đáp trả.
“Tôi đang có khoảnh khắc khó quên”, cô nàng nói.
“Đúng vậy. Nhưng mà, có lúc nào cô không như thế chưa?” Cô nàng làm mặt quỷ, rồi chúng tôi lại đi bộ xem nốt bảo tàng. Họ có một quán cà phê gọi là The Turnable, một cửa hàng lưu niệm bán CD cùng các vật phẩm liên quan đến âm nhạc. Họ tuyên bố có một trăm đĩa CD nổi bật nhất về nhạc rock ’n’ roll, lại có một số thứ trong này mà tôi thậm chí còn chẳng biết là người ta lại ghi vào CD. Đây thực sự là chỗ tôi thấy thú vị nhất trong toàn bộ bảo tàng.
Chúng tôi rời khỏi đó, cảm thấy thỏa mãn vì – ít nhất – đã làm được điều gì đó nên làm khi đến Seattle. Heaven muốn tôi xem siêu thị Pike, nơi cô nàng đã thấy một ít vào hôm qua.
Chúng tôi lên đường đến đó, thấy một quán bar tên Powell’s ở tầng trên của siêu thị. Một quán bar tuyệt vời, đầy khói, theo phong cách cổ và có góc nhìn đẹp mê hồn. Chính là kiểu địa điểm mọi người đến nhậu nhẹt vào ban ngày, và gọi nhau bằng tên riêng.
Heaven cùng tôi quyết định uống một trận trước khi lên chuyến bay về nhà, nhưng bất kể say đến cỡ nào, tôi sẽ không quên rằng chúng tôi đã có hiệp ước khi hạ cánh xuống đây. Cô nàng sẽ ngồi ghế gần cửa sổ trên chuyến bay khứ hồi.
“Cô sẽ làm gì khi chúng ta quay về?”, tôi hỏi. Tôi cũng tự hỏi mình câu này. Tôi sẽ làm cái quái gì để kiếm mười nghìn đô đã hứa hẹn với ban nhạc? Tôi cảm thấy đủ tệ về việc nói dối lũ nhỏ rồi… giờ thì tôi thậm chí còn cảm thấy tệ hơn khi quay về nhà và thực sự phải xoay xở cho ra tiền.
“Ý cậu là sao?”, cô nàng hỏi.
“Thì… không phải tôi muốn gợi ra chủ đề khó chịu, nhưng gần đây cô đã mất việc mà.”
“Đúng, tôi biết”, cô nàng rõ ràng là cực kỳ sung sướng vì được tôi gợi nhớ. “Tôi có thể nói với cậu những điều tôi sẽ không làm.”
“Là gì?”
“Kiếm một công việc phụ bàn khác.”
“Tốt. Cô không nên làm vậy”, tôi nói. “Ai đó sẽ cần đến một bộ óc làm PR giỏi.” Cô nàng nhìn tôi chằm chằm. Tôi cố tránh ánh mắt đó, tự hỏi liệu trên mặt mình có dính gì không.
“Ừ… tôi biết một ban nhạc sắp cần được lăng xê hết cỡ trong vòng ít tháng tới”, cô nàng nói. “Và họ sẽ cần một công ty quản lý, không phải dạng công ty dùng những thủ đoạn xưa cũ. Mà là ai đó suy nghĩ khác lạ. Ai đó mới mẻ hơn. Làm việc cật lực hơn.”
“Hmm…”, tôi ngẫm nghĩ. Có lẽ lần đầu tiên kể từ lúc biết cô nàng, tôi mới thấy cô nàng không hề giễu cợt. Nghiêm túc nào.
“Tôi nghiêm túc”, cô nàng nói. “Chúng ta có gì để mất đâu?”
“Cô chắc chắn là to mồm thật.”
“Nếu tôi làm PR cho Superhero, vậy cậu sẽ làm việc với tôi. Cậu có thể chịu được việc gặp tôi thường xuyên không?”
“Cứ làm như thể cô sắp đi đâu ấy.” Tôi mỉm cười. “Dường như tôi chẳng có lựa chọn nào cả. Tối thiểu thì tôi cũng đặt được cô vào vị trí hữu ích.”
“Tôi sẽ gọi công ty của mình là gì nhỉ?”
“Câu hỏi hay đấy”, tôi suy nghĩ.
“PR Chết ở tuổi hai mươi bảy?”
“Không có tinh thần lắm…”
“Những công ty ‘cool’ thì tên cũng phải ‘cool’…”, cô nàng nói. “Gã Lùn Hư Hỏng… Nữ Quyền… Rắc Rối Lớn…”
“Ô kê… cái đó nghe cũng được.”
“Tôi thích nó”, cô nàng tự tin đáp.
“Được rồi”, tôi biết quá rõ rằng đó sẽ là tên công ty của cô nàng. Tôi nâng ly. “Mừng cô, và Chết ở tuổi hai mươi bảy… Chúc cô có nhiều thành công hơn cả trong mơ… và chúc cô biến Superhero thành ngôi sao nổi tiếng, khiến chúng ta thật giàu, giàu sụ luôn!”
“Nghe rồi! Nghe rồi!”, cô nàng đáp. Chúng tôi cụng ly.
Chúng tôi đến sân bay để ký gửi Strummer. Tạm biệt anh chàng bé nhỏ này lúc nào cũng khó khăn, nhưng tôi biết rằng chúng tôi sẽ gặp lại nó ở cuối chuyến bay.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.