Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chưa đầy một tháng kể từ ngày cưới, Nguyễn Phong đã phải chia tay Tiểu Yến để vào kinh nhậm chức. Dẫu rằng đôi vợ chồng son quyến luyến không rời, nhưng hai người cũng biết việc công không thể trốn tránh. Thế nên, sau một tuần nấn ná với lý do chuẩn bị hành lý, rút cục đến ngày rằm tháng hai, Nguyễn Phong cũng phải lên đường vào kinh.
Sáng hôm ấy, trời phủ đầy mây. Gió xuân miên man nhẹ thổi, cuốn theo những hạt mưa phùn lất phất như giọt sầu biệt ly.
Trời buồn, đất cũng buồn!
Cái cổng làng cũ xưa lại một lần nữa đảm nhiệm vai trò của người chứng kiến, chứng kiến những cảnh chia tay và đoàn tụ vẫn thế suốt nghìn năm qua. Có chăng, điểm khác biệt duy nhất chính là số người. Số người đến tiễn đưa năm nay kém hơn hẳn năm ngoái, bởi những người rời đi cũng chỉ là số ít sĩ tử đã đỗ đạt công danh.
Bịn rịn, quyến luyến, vốn là nhi nữ thường tình!
Trên mặt những người mẹ, người vợ đi đưa tiễn đa phần đều mang theo sự lo lắng cho người ra đi. Còn cánh đàn ông, tuy cũng có buồn, nhưng phần nhiều hơn lại là sự hy vọng, mong chờ con em mình có thể làm rạng danh cho dòng họ, quê hương.
Hôm nay, người đến tiễn Nguyễn Phong cũng ít, ngoại trừ gia đình hắn ra thì chỉ có thầy Vũ Ngôn. Chờ cho cha mẹ và ông ngoại Nguyễn Phong đã căn dặn con cháu mình cẩn thận, Vũ Ngôn mới nói:
“Phong này, kinh thành vốn không phải chỗ bình yên, quan trường lại càng là chốn khó lường. Con vừa bước vào con quan lộ mà đã được phong cho chức vị cao, hẳn sẽ khiến nhiều người sinh lòng ganh tị. Lòng người khó dò, thầy không hy vọng con vì công danh mà gặp phải bất trắc. Thế nên con nhớ phải cư xử khiêm tốn, làm việc cẩn thận, suy xét rõ ràng trước khi hành động, lại phải biết nhìn xa trộng rộng, chớ vì cái lợi trước mắt mà làm hại đến tương lai. Con hiểu chứ?”
“Dạ, thưa thầy.”
“Ừ, con hiểu là tốt. Có điều, nguy hiểm vốn là điều khó tránh, thế nên thầy cũng đã chuẩn bị cho con ba tấm bùa hộ mạng. Nhưng con cũng đừng quá ỷ lại vào chúng, nên nhớ rằng mọi việc đều do người!”
Nói rồi, Vũ Ngôn liền đưa cho Nguyễn Phong ba lá bùa mới tinh, trên mỗi lá bùa đều viết chi chít chữ nhỏ như kiến, hợp thành ba loại đồ án khác nhau. Nguyễn Phong cầm lấy từng tấm bùa xem một lượt, nhưng mãi mà vẫn không hiểu được năng lực của chúng, rút cục đành phải hỏi thầy:
“Thưa thầy, những tấm bùa này có tác dụng gì vậy? Tại sao con xem mãi mà vẫn không hiểu được nội dung của chúng?”
Nghe vậy, Vũ Ngôn chỉ cười mà bảo:
“Đây là cấm thư!”
Nguyễn Phong giờ mới vỡ lẽ, nhưng hắn còn chưa kịp hỏi cụ thể thì Vũ Ngôn đã nói:
“Con đừng hỏi nữa, đến lúc cần thì con sẽ biết cách sử dụng chúng. Mà lúc nào có thời gian thì con cũng thử nghiên cứu ba tấm bùa này xem. Cấm thư vốn không thể truyền dạy trực tiếp được, chỉ có thể tự ngộ ra mà thôi. Thầy hy vọng sau khi con nghiên cứu kỹ ba tấm bùa này thì có thể lĩnh ngộ được ý ở trong đó, hiểu được chữ cấm mà thầy dành cả đời để tìm ra.”
Nói rồi Vũ Ngôn liền xoay người rời đi, để lại chỗ trống cho đôi vợ chồng trẻ. Lặng nhìn Nguyễn Phong một hồi lâu, Tiểu Yến mới khẽ nói:
“Anh đi đường cẩn thận nhé. Ở nhà em sẽ chăm sóc cha mẹ thật tốt.”
Nguyễn Phong nghe vậy thì lòng chợt bồi hồi, lặng lẽ đến bên ôm lấy Tiểu Yến thật chặt. Đến khi buông nàng ra rồi, hắn vẫn không nói lời tạm biệt hay chia tay, chỉ vẫy tay chào nàng rồi rời đi. Tiểu Yến cũng hiểu ý, chỉ dõi mắt theo đưa tiễn hắn. Đôi mắt đẹp của nàng thoáng chốc đã mờ hơi sương.
************************************
Sau năm ngày lặn lội đường rừng, năm vị tiến sĩ làng Vĩnh Thái rút cục cũng đến được thành Kinh Bắc. Tại đây, bọn họ lại kết nhóm cùng Nguyên Kiệt và ba người khác, cùng nhau cưỡi ngựa tiến về kinh đô.
Quãng đường đi từ thành Kinh Bắc đến thành Đông Long cũng không xa, nếu cưỡi ngựa thì chỉ cần ba ngày là đến. Đấy là trong trường hợp vừa đi vừa nghỉ, còn như đi gấp thì chỉ cần hơn một ngày. Lúc Nguyễn Phong rời thành Kinh Bắc thì còn cách ngày nhậm chức chừng hơn một tuần, thế nên bọn họ cũng chẳng gấp, vừa đi vừa nhẩn nha nhìn ngắm phong cảnh, hay có đôi khi lại đàm luận chuyện văn chương cho tận thi hứng. Bọn họ cứ tìm theo cảnh đẹp mà đi, chẳng quản đường xá xa xôi hay khó nhọc. Cứ thế, đến chiều hôm thứ hai thì bọn họ đã lệch hẳn khỏi đường cái quan, lạc vào một vùng non xanh nước biếc nhưng cũng thưa vắng người.
“Này các anh, cảnh chỗ này đẹp quá mà sao tôi chưa nghe danh bao giờ? Các anh có ai biết đây là chốn nào không?”
Sau một hồi say đắm trong cảnh sắc thiên nhiên, Nguyên Kiệt chợt lên tiếng hỏi những người còn lại. Thế nhưng, hơn chục người trong đoàn giờ cũng đều mải mê với cái đẹp tự nhiên, nào còn ai để ý đến câu hỏi của hắn? Đợi đến khi Nguyên Kiệt hỏi lại lần nữa, mọi người mới bừng tỉnh rồi lắc đầu thở dài. Hóa ra, chẳng ai trong bọn họ biết đây là đâu!
“Ô, thế ra chúng ta lạc đường à!” – Đây là lời tổng kết tình hình của Trần Duy, tuy có phần hài hước pha trò nhưng cũng khiến mọi người phải giật mình vội vã. Còn có năm ngày nữa là đến kỳ hạn rồi!
“Ôi dào, mọi người việc gì phải lo lắng chứ? Chúng ta cứ đi ngược lại hướng vừa nãy là tìm được đường thôi chứ…”
Đúng lúc này, một anh tiến sĩ trong đoàn chợt đưa ra ý kiến, nhưng lời còn chưa hết thì anh ta chợt ngớ người ra. Chẳng biết từ lúc nào, trong không khí đã giăng một tầng sương mù nhạt, vừa hay làm lạc lối về của những vị khách qua đường.
“Lui đã chẳng được thì chỉ có tiến. Giờ chúng ta cứ đi về phía trước xem sao, biết đâu lại tìm được nhà dân để hỏi đường?”
Lần này đến lượt Nguyễn Phong lên tiếng, thế nhưng ý tưởng của hắn vừa được nêu ra đã gặp phải sự phản đối từ đồng bạn:
“Thôi xin anh! Chỗ này rộng lớn như thế, chúng ta dễ gì mà gặp được người khác? Chưa kể, vùng này vắng vẻ hoang sơ, làm gì có ai dám dựng nhà ở lại? Khéo chỉ có đám yêu tinh yêu quái mới hay dựng nhà ở chỗ này để lừa khách lạc đường thôi anh ạ.”
Nguyễn Phong nghe thế cũng sửng sốt một phen, hắn đã quên rằng cái đám yêu tinh yêu quái ấy có thể hóa thành hình người. Thế nhưng, người tài cao thì gan cũng lớn. Sau một hồi ngẫm nghĩ, hắn lại chợt bật cười, bảo:
“Anh lo lắng quá rồi. Anh em mình ai cũng võ nghệ cao cường, không thèm đi săn đám yêu quái ấy thì thôi, lại có con nào dám động vào anh em mình chứ? Mà nếu có thì cũng tốt, mình bắt lấy vài con tra hỏi đường ra, tiết kiệm được khối thời gian rồi còn gì!”
Lời Nguyễn Phong vừa nói ra lập tức khiến cho mọi người thấy phấn chấn. Ngẫm cũng phải, ngay đến đám ma tộc bọn họ còn chẳng sợ thì sợ gì mấy con yêu quái chứ? Có suy nghĩ ấy rồi, ai cũng thấy yên lòng hẳn. Cả đoàn lại tiếp tục tiến sâu hơn vào trong núi, rút cuộc đến khi trời xẩm tối thì cũng bắt gặp được một tòa trang viên dựng bên một hồ nước trong xanh. Lúc này, trong trang viên đã lên đèn, trước cửa chính tòa nhà cũng treo hai chiếc đèn lồng lớn, soi rõ tấm bảng hiệu đề ba chữ “Hồ gia trang”.
Vừa nhìn thấy chữ “Hồ”, ai nấy trong đoàn đều liên tưởng đến loài hồ ly tinh, và theo như những tích truyện xưa mà họ đã từng đọc, thì cái giống hồ ly tinh ấy rất hay dựng nhà giữa chốn hoang vu để lừa người qua đường. Thấy nét mặt thận trọng của mọi người, Nguyễn Phong chợt cười rồi bảo:
“Để tôi gọi cửa xem sao, biết đâu lại gặp được một cô hồ ly xinh xắn ấy chứ!”
Mọi người nghe thế thì cười vang, cũng bớt lo lắng hẳn. Nguyễn Phong đến gõ cửa một lượt, chờ hồi lâu mà vẫn không thấy có người đáp lại thì sốt ruột gõ thêm đợt thứ hai, rồi đợt thứ ba. Đến tận lúc này, từ phía sau cửa mới vọng lại tiếng hỏi:
“Ai đấy?”
Giọng nói nghe nhẹ như giọng con gái, lại thoáng run run như còn đang sợ hãi điều chi. Nguyễn Phong nghe vậy thì khẽ hắng giọng, đáp:
“Chúng tôi là khách qua đường, đi đến đây thì gặp lúc trời tối nên muốn xin vào trang viên nghỉ tạm một đêm.”
“Thế thì các vị mau đi đi, trang viên chúng tôi không nhận khách lạ đâu!”
Cô gái nấp sau cửa vội đáp rồi lại lặng im. Trong đoàn có mấy người nóng tính, nghe bị đuổi như thế thì bực tức mà nói:
“Kìa cô nương, trời thì đã tối rồi, mà quanh đây lại toàn núi non hoang vu, giờ cô bảo chúng tôi biết đi đâu mà tìm chỗ trú chân đây?”
“Đúng đấy, làm người ai lại làm thế?”
“Hay là cô muốn tiền? Nếu vậy thì cứ bảo một tiếng, chúng tôi sẽ trả tiền thuê phòng ngay. Không cần phải làm bộ làm tịch thế đâu?”
Nghe đến đây thì cô gái hẳn đã tức lắm, lập tức lên tiếng quát lại:
“Này, tôi nói cho mấy người biết nhé, tôi có đuổi các người đi cũng là vì muốn tốt cho các người thôi. Nhà tôi dạo này đang bị yêu tinh quấy phá đấy, các người có muốn sống tốt thì mau đi đi. Còn nếu thích nạp mạng cho lũ yêu quái thì cứ việc nghỉ ở bên hồ, đừng có quấy rầy chúng tôi thêm nữa.”
Nói xong, cô gái còn bực tức thở phì phì mấy tiếng. Mà đoàn người đứng ngoài thì ngớ người ra, một lúc sau chợt bật cười rồi nói vọng vào trong nhà:
“Này cô ơi, cô gặp chúng tôi là may rồi đấy. Cô cứ cho chúng tôi vào ở nhờ một đêm đi, nếu có yêu quái thật thì chúng tôi bắt giúp nhà cô luôn.”
“Đúng đấy cô ạ, không phải nói khoác chứ đoàn chúng tôi đây ai cũng võ nghệ cao cường cả, trong đoàn còn có bảy tám người là võ tiến sĩ nữa. Yêu quái mà gặp chúng tôi thì chỉ có nước trốn xa thôi.”
“Các vị nói thật chứ?” – Cô gái hỏi lại với giọng nghi hoặc.
“Thật mà, chúng tôi lừa cô làm gì?”
“Nếu vậy thì xin các vị chờ một chút, để tôi đi hỏi ý kiến ông chủ xem sao?”
Rồi đoàn người nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp xa dần, khoảng chừng chục phút sau thì người đã trở lại, lần này là cả một đoàn người!
Cánh cửa dày được mở ra một cách chậm rãi. Phía sau cửa, hơn hai chục gã đàn ông to khỏe đã xếp thành hàng, ai lấy đều cầm theo gậy gộc, lăm lăm nhìn ra bên ngoài. Mà dẫn đầu đoàn người là một người đàn ông trung niên tóc đã hoa râm, ánh mắt mang theo vài phần lo lắng và chờ mong mà nhìn vào đoàn khách lạ:
“Xin hỏi, có phải các vị là võ tiến sĩ hay không?”
“Đúng thế, chúng tôi đều là tiến sĩ đang trên đường vào kinh nhậm chức.”
“Thế, các vị có gì để chứng mình hay không?”
“Ồ, có chứ. Mời ông xem.”
Nói rồi, Nguyễn Phong lấy ra một tấm thẻ làm bằng gỗ sơn son, trên có ghi tên họ quê quán của hắn, cùng với danh vị đạt được trong cuộc thi. Người đàn ông nhìn ngắm tấm thẻ một hồi rồi trả lại cho Nguyễn Phong, thái độ cũng trở nên niềm nở hẳn, mời:
“Xin mời các vị vào nhà. Nhà chúng tôi lần này gặp hạn, vừa may gặp được các vị thật quý hóa quá!”