Cạm Bẫy Độc Thân (The Bachelor Trap)

Chương 22:




Nghi thức uống trà được tiến hành trên một sân hiên, và Brand gần như đánh rơi cái tách của mình khi chàng lơ đễnh nhâm nhi ngụm đầu tiên. “Cà phê?” Chàng hỏi anh lính hầu. Đây là loại cà phê mà chàng yêu thích nhất, nhưng trong nhà bà nội của chàng cà phê được xem ngang hàng như là rượu thuốc mạnh.
“Tiểu thư Marion bảo rằng cậu sẽ thích nó hơn” là lời cứng nhắc được đáp lại. “Nếu cậu thích trà hơn, thưa cậu, tôi sẽ mang cho cậu một ly vừa pha.”
Phá vỡ truyền thống tại nhà dòng Priori đều không được hoan nghênh bởi thành viên của gia tộc FitzAlan lẫn những hạ nhân của họ. “Cảm ơn cậu, nhưng tôi thà dùng cà phê hơn,” Brand nói.
Marion theo dõi chàng. Chàng nâng chiếc tách bằng sứ của mình trong im lặng cảm ơn [nàng]. Nàng gật đầu mỉm cười đáp lại.
Nàng đang cố lấy lòng chàng, chàng cho là như thế, nhưng với mục đích gì thì chàng không mảy may được biết. Chàng cầu hôn với nàng, và nàng từ chối không cho chàng một câu trả lời thuyết phục. Chuyện liên quan đến David Kerr và những thiệt hại mà hắn có thể mang tới đang dần tan biến. Chàng không muốn nàng chỉ đến với chàng sau khi tất cả mọi trở ngại được chàng loại bỏ. Nàng thố lộ rằng đã yêu chàng. Nếu trường hợp là vậy, thì nàng nên đến với chàng vô điều kiện và không tính thiệt hơn.
Chàng không muốn cứ phải tiếp tục lặp đi lặp lại những điều này với nàng. Điều đó sẽ chỉ phản lại mục đích của mình. Nếu nàng không tự nguyện đến bên chàng, và cũng không có bất cứ điều kiện gì đi kèm, thì một điều rất quý giá sẽ bị đánh mất. Chàng có thể sống với chuyện ấy, nhưng đấy sẽ là một sự thỏa hiệp. Một người bất cần đạo lý như chàng sẽ không mong mỏi chuyện gì kém hơn. Chính bản thân Marion đã thể hiện cho chàng thấy được một đường lối khác, nhưng nàng lại không làm theo những gì nàng thuyết.
Trong khi đó, chàng cũng làm cao, cho đến một mức độ nào đó. Chàng không bước vào phòng nàng vào ban đêm. Nếu nàng muốn có chàng, nàng phải đến với chàng. Chàng đã ném xuống chiếc găng sắt, nhưng xem ra cho đến hiện giờ nàng cũng chưa thèm nhặt nó lên.[18]
[18] thách thức ai đó đến một cuộc đấu tay đôi, khi đối phương nhặt chiếc găng sắt lên thì xem như đã đồng ý thi đấu với nhau.
Thím Theodora cũng đã đến, nhưng không có chú Robert đi kèm, và chuyện ấy khiến chàng bắt đầu có dòng tư tưởng mới. Chàng đã thực hiện một chút thám thính, cố tìm xem ai là kẻ có thể ra vào ngôi nhà dòng Priori thật dễ dàng, và cũng đã vắng mặt khi Marion bị tấn công tại Luân Đôn.
Một sự trợ giúp thật nhỏ nhoi! Cả nguyên ngôi nhà dòng đều vắng tanh trong thời điểm quan trọng ấy. Ngài Robert vẫn là người duy nhất bị tình nghi là hung thủ. Chú ấy có cơ hội và cũng có động cơ, mặc dù động cơ ấy thật quá mong manh.
Có phải chú ấy đã phải lòng dì Hannah? Có phải chú ấy sát hại dì trong một cơn thịnh nộ dữ dội khi dì chơi trò lừa tình với chú như đã lừa chàng Robson? Có phải chú ấy cũng có viết thư tình cho dì Hannah rồi xâm nhập vào ngôi nhà làng để tìm chúng trong ngày lễ hội ấy?
Oswald đứng lên. Anh nhìn qua bờ tường của sân hiên. “Đó không phải là Andrew và tiểu thư Emily sao?” Anh nói.
Brand quay đầu nhìn. Tay trong tay, Andrew và Emily đang chạy ào qua sân cỏ từ hướng nhà kính. Những người trên sân hiên đều nhận ra ngay lập tức rằng có điều gì rất sai trái.
Brand không đợi Andrew và Emily phải chạy đến, chàng lập tức đặt chiếc tách của mình xuống và tiến đến gặp họ. Oswald theo ngay phía sau.
Mọi người đều đứng lên, công tước nương nương, Marion, Bà Cutter, Clarice, và thím Theodora, tất cả đều nhìn dõi theo hai nam nhân đang lao trên sân cỏ. Andrew chỉ vào nhà kính, nhưng Emily đã về tới. Khi cô nàng chạy lên cầu thang, thân người cúi gập lại, cố gắng lấy lại hơi.
Khi đứng thẳng lại được, cô nghẹn ngào thốt: “Có được một tai nạn rất khủng khiếp. Trong căn nhà kính. John Forrest. Tôi sợ rằng ông ta đã chết.”
Sự sững sốt khiến mọi người căm nín, rồi thím Theodora rít lên một hơi sắt bén và nhất định đã nối gót theo hai người đàn ông kia nếu bà công tước đã không ngăn cản.
“Hãy để Brand và Oswald lo liệu cho John. Nếu con đi đến đó, bọn họ sẽ phải chăm sóc con. Con muốn như vậy sao?”
Thím Theodora nhìn chằm chằm vào bà công tước như thể thím ghét bỏ bà ấy một cách mảnh liệt, sau đó thím hất đi bàn tay kiềm chế công tước nương nương và đi vào nhà.
Một người làm vườn hướng dẫn Brand và Oswald đến nơi cái xác. Ông Forrest không nằm trong nhà kính, nhưng trong một nhà kho chứa đồ làm vườn và các vật dụng vườn tược mà bị che khuất bởi một dãy cây bụi dầy đặt. Cánh cửa dang mở và họ có thể thấy ông Forrest nằm mặt áp xuốn nền đất.
Những người làm vườn đã tìm thấy cơ thể và đã chạy trở lại nhà kính tới Andrew và Emily, mà ông ta đã thấy đang thưởng thức hoa cỏ với đám bạn bè. Nhóm bạn bè đã ra về, nhưng Emily và Andrew vẫn còn ở đấy.
“Em rờ xem ông ấy có nhịp tim không,” Andrew cho biết: “nhưng em biết chắc em sẽ không tìm được. Phía sau đầu của ông ấy bị nghiền nát. Bên cạnh đó, ông ta lạnh ngắt. Em biết chắc ông ấy đã chết.”
Hiện không có nhiều ánh sáng trong cái kho nhỏ bé này. Brand cho người làm vườn đi lấy chiếc đèn lồng, rồi sau đó cúi xuống kiểm tra một bàn tay của ông Forrest. “Trong này thật ấm,” chàng nói: “vì thế thật là khó nói Forrest đã chết bao lâu rồi.” Tay của ông Forrest lạnh cứng. “Ít nhất là mười tiếng, tôi đoán là vậy.”
Andrew nói: “Anh học những điều này từ đâu chứ?”
“Làm một phóng viên, làm phóng sự cho các phiên tòa sát nhân và những cuộc điều tra những cái chết bất thường.”
Người làm vườn đã trở lại với chiếc đèn lồng. Brand nâng nó cao và kiểm tra cơ thể. Vết thương vào đầu rõ ràng là thực hiện với sức mạnh nhất định. Máu và phần não của ông Forrest bám quanh mái tóc xám của ông. Brand nhìn xung quanh tìm kiếm vũ khí.
“Xem đây, chúng ta có vật gì đây?” Brand với tay lấy thanh sắt đã bị che khuất phân nửa bởi cánh cửa. Có máu trên một đầu thanh sắt.
“Chúng tôi dùng nó bẩy lên các viên đá lát đường,” người làm vườn cho biết.
“Trời ạ!” Andrew thở ra. “Ai lại muốn sát hại ông Forrest chứ?”
“Điều ấy nên để các nhà chức trách điều tra.” Brand nói.
Brand bảo Andrew đi gọi viên chức tư pháp địa phương và bác sĩ và để Oswald ở lại bảo vệ cơ thể, với chỉ thị không được chạm vào bất cứ thứ gì, trong khi chàng ra ngoài ngó quanh. Xung quanh căn nhà kho chẳng có gì cả, không có dấu chân hoặc dấu chà trên đất để cho thấy rằng cơ thể của Forrest đã bị kéo vào nhà kho, không có dấu hiệu của một tranh chấp hoặc ẩu đả. Forest đã bước vào nhà kho mà chẳng hề nghi ngờ gì cả.
Khi Brand bước ra khỏi cây bụi xung quanh nhà kho, chàng đã có một quan cảnh tuyệt vời của nhà dòng Priori và cơ sở của nó. Bên trái chàng là ngôi nhà kính, và ra xa hơn, qua khỏi sân cỏ, là chính ngôi nhà dòng. Trước mặt chàng, xuống dốc con đồi hướng ngôi nhà làng Yew Cottage [của Marion] là bục giảng lớn trong phòng ăn, và ngay bên phải đấy là khu vườn thảo mộc.
Khu chuồng ngựa, nơi mà người ta nghĩ sẽ tìm thấy ông Forest, lại nằm phía bên kia của ngôi nhà dòng. Để đến được căn nhà kho này, ông ấy đã phải đi ngang ngay phía trước ngôi nhà dòng ngay trước mặt ai đó mà có thể đang nhìn ra ngoài.
Trừ khi ông ấy đến vào ban đêm.
Nỗi sợ hãi pha lẫn với thất vọng khiến chàng tự nguyền rủa. Không có gì là đơn giản cả. Chàng không hề có chút manh mối với những chuyện đang xảy ra. Tại sao lại có người muốn giết John Forrest?
Dì Hannah, Edwina, Marion, và giờ là Forrest. Bản năng của chàng tự đề tỉnh rằng những người này đều có liên hệ với nhau. Chuyện thật sự khiến người cảm thấy báo động là có một kẻ sát nhân đang còn tại ngoại. Hắn sẽ hành hung người nào, ở nơi nào kế tiếp đây?
Chàng nhìn qua bãi cỏ vào khu chuồng ngựa và ngôi nhà nhỏ của John Forrest. Có lẽ chàng sẽ tìm thấy được một số đáp án tại đấy.
Khi chàng đến ngôi nhà, chàng không thấy ngạc nhiên khi thấy rằng cánh cửa bị khóa. Forrest không chỉ là người chăm sóc ngựa cho thím Theodora. Ông là người giúp việc công của thím ấy. Sẽ có các tài khoản và sổ sách và biên lai để bảo vệ. Thậm chí có thể còn có các dự thảo của ngân hàng. Một người đàn ông thận trọng sẽ muốn bảo vệ công việc của mình từ những ánh mắt tò mò và những ngón trộm cắp.
Giờ thì Forrest sẽ không phàn nàn về ánh mắt tò mò, hoặc thiếu đi chiếc chìa để nhập vào trong ngôi nhà ông ấy. Brand hạ bả vai mình xuống và lao vào cánh cửa.
Chỉ cần vài phút là chàng đã làm quen với bố trí trong căn nhà. Có một phòng khách, văn phòng lớn, và một phòng ngủ cỏn con không lớn hơn một tủ chứa y phục. Bất cứ nấu nướng gì đều được thực hiện trong tại cái lò sưởi thụt vào trong tường, nhưng cái lò sưởi nhìn sạch bách không chút tì vết khiến Brand nghi ngờ người chăm ngựa của thím Theodora đã làm gì nhiều hơn là đun sôi để pha trà. Một là đầu bếp Cook mang các bữa ăn đến cho ông hai là ông ấy ăn tại nhà dòng.
Khắp nơi đây đều tràn ngập mùi của ngựa, y như căn nhà của mình, Brand nghĩ. Mùi của ngựa và da luôn gợi chàng nhớ đến ông ngoại của chàng. Với cha chàng thì đó là mùi rượu và thuốc lá. Chàng lắc đầu, với suy nghĩ rằng hai người ấy khác nhau hoàn toàn trong lối sống của họ.
Chàng thắc mắc về John Forrest và ông ấy sống ra sao. Chàng biết rằng Theodora đã mang theo ông ấy hơn hai mươi năm trước đây khi thím kết hôn với chú. Ông ấy chắc cũng gần lục tuần, vì thế chàng loại ra những chuyện liên quan đến tình cảm. Nhưng hai người họ rất gần gủi với nhau, gần gủi hơn là nhân viên và bà chủ. Cha và con gái? Chàng đoán bừa.
Ngôi nhà cũng lán cón không chút vết dơ y như lò sưởi. Brand nhanh chóng lục soát sơ qua cái bàn viết, và quyết định không cạy ổ khóa tủ bàn. Thím Theodora sẽ cảm thấy bực tức bởi chuyện ấy. Chàng có vẻ quan tâm nhiều hơn đến mớ quần áo của John Forrest.
Chàng xuýt tí nữa là đã bỏ lỡ nó, chiếc khuy dường như được đính lại chỉ gần đây trên chiếc áo khoác tồi tàn của Forrest. Nó đã để lại vết xé khi chiếc nút bị rứt ra trong lúc dằng co với Marion. Vết xé được khâu lại gọn gàng và chiếc khuy đã được đính lại. Chỉ có một điều là khác biệt. Mặc dù chiếc khuy nhìn giống y những chiếc khuy khác, nhưng nó nhỏ hơn tí xíu.
Brand lôi ra những đồng cắc trong túi mình và mòm mẫm trong đấy. Chiếc khuy chàng đưa lên chiếc áo khoác của ông chăm ngựa giống y như đút những chiếc khuy kia.
Bàn tay chàng nắm chặc lấy chiếc khuy như thể chàng đang bóp sức sống khỏi John Forrest. Hắn là người đàn ông đã tấn công Marion và nổ súng vào chàng. Hắn là người đàn ông đã tấn công nàng tại Luân Đôn. Hắn đã có cơ hội làm thế. Hắn có mặt cùng với thím Theodora để xem qua mớ ngựa mới cho chuồng ngựa của thím. Và Ngài Robert cũng có mặt ở đấy với họ.
Có khi nào Forrest mới là tình yêu vĩ đại của cuộc đời dì Hannah? Hai mươi năm trước, hắn cũng chỉa tầm bốn mươi. Tất cả mọi đều có vẻ có lýngoại trừ một điều: dì Hannah giữ lại những vật linh tinh của chú Robert, mà không phải của ông Forrest.
Sự phức tạp khiến tâm trí chàng mụ mẩn.
Chàng nghe tiếng bước chân trong căn phòng bên cạnh và nhanh chóng nhét chiếc khuy vào túi quần, rồi sau đó thả lỏng khi nghe giọng nói của thím Theodora.
“Brand, cháu có ở đó không?”
Chàng đặt chiếc áo khoác trở lại nơi mà chàng đã tìm thấy nó và đi đến bên thím.
Nước mắt trong mắt thím ấy khô khi thím nhìn thấy chàng. “Oswald bảo rằng cháu đang ở đây. Thím nhìn thấy cháu ấy trong nhà kính, nhưng cháu ấy đã không để cho thím nhìn thấy John hoặc cho thím biết bất cứ điều gì.” Giọng nói gì thay đổi hẳn. “Thật không nói nổi! Cháu ấy nghĩ rằng thím sẽ bất tỉnh hoặc trở nên cuồng loạn chăng? Thím có quyền được biết!”
Tức giận chỉ tăng thêm vẻ đẹp của thím, khung xương gò má đẹp tựa điêu khắc, đôi mắt to lay láy trên gương mặt nhợt nhạt của thím, nét kiên định trên miệng thím. Thím không phải là một người phụ nữ có thể chung sống một cách dễ dàng.
“Hãy ngồi xuống,” chàng nói: “và cháu sẽ cho thím biết những gì cháu biết.”
“Cảm ơn cháu.”
Chàng kể cho thím nghe những điều mà chàng muốn thím được biết, nhưng không đề cập đến chiếc khuy hoặc những nghi ngờ. Cuối cùng chàng cho biết: “Cháu đến đây bởi vì cháu nghĩ rằng bất cứ ai sát hại ông Forrest có thể đã nghĩ đến chuyện cướp của.”
Thím nheo mắt nhìn lên chàng. “Cháu có nghĩ rằng kẻ tấn công cháu và Marion đã làm ra điều này?”
Chàng nói thật với thím. “Tại thời điểm này, cháu không biết phải nghĩ gì nữa.”
Khi thím ấy nhìn chằm vào đôi tay siết chặt của mình, thất lạc trong dòng suy nghĩ, chàng từ tốn nói: “Thím Theo, chú Robert đâu?”
Đầu thím giật nảy lên. “Robert? Cháu không nghĩ rằng ông ấy đã làm chuyện này chứ?” Thím lắc đầu. “Robert sẽ ở nơi ông ấy thường lân la, với một phụ nữ nào đó mà đã được lòng của ông ấy cho một vài đêm. Nơi ông ta thích nhất là quán Ba Chú Quạ trên phố Broad, nhưng ông ấy cũng được biết đến tại tất cả các quán rượu tại và quanh vùng Longbury.”
Một điều cái gì có vẻ sáng tỏ trong mắt thím và thím đột nhiên đứng dậy. “Cháu nghĩ rằng Robert đã ghen tuông với John?” Thím cười một cách không tin. “Thím có thể có những hai mươi người tình nhân và Robert sẽ không cảm thấy một cái nhói nào của ghen tuông. Bên cạnh đó, John lại như một người cha với thím. Robert biết điều đó.”
Khi thím bắt đầu run lẫy bẫy, chàng nói: “Thím không nên ở một mình. Hãy để cháu đưa thím trở lại nhà với những người khác.”
Nụ cười của thím trông thật ủ dột. “Đấy là khi thím cảm thấy cô đơn nhất,” thím nói. “Khi thím ở cùng với những người khác.”
Mặc dù không ai được phép ra khỏi nhà, viên chức tư pháp và viên cảnh sát không hề vội vã truy vấn bọn họ. Tất cả các hạ nhân, người làm vườn, và những người làm trong chuồng ngựa đều được tụ tập tại Đại Sảnh Đường. Lời khai của họ được lấy trước nhất. Trong khi đó, bà Ludlow được gọi tới, và bà giúp trông hai cô bé Phoebe và Flora.
Bữa ăn tối bị trì hoãn vì không có đầu bếp Cook nấu nướng. Bà ấy vẫn còn đang bị truy vấn. Oswald trông có vẻ thích thú.
“Tôi thì cho rẵng”, anh nói: “rằng Ngài Basil không thể cảm nhận được rằng một thành viên gia tộc FitzAlan lại gây án, không, hay là bất cứ ai khác trong tầng lớp của mình. Nhất định là một trong những hạ nhân. Đấy là lý do tại sao chuyện này lại lâu lắc như thế.”
Không ai chia sẻ niềm vui trong câu đùa của anh ta. Không một ai đáp lời. Họ ngồi đó trong im lặng như một pho tượng, làm cảnh cho một bức tranh u ám đen tối. Nhất là bà bá tước công nương, theo nhận sét của Marion, xem có vẻ như bị choáng váng bởi tất cả mọi chuyện này. Brand mang tới cho bà một ly rượu vang, và chàng khẽ dìu cánh tay bà, khuyến khích bà tùy thời uống một vài ngụm.
Một tiếng thở dài tập thể vang lên khi một anh lính hầu bước vào báo với họ rằng ông thị trưởng đã có thể diện kiến họ. Sự nhẹ nhõm trong lòng ấy thật ngắn ngủi, tuy nhiên, khi chàng lính hầu báo rằng họ sẽ được gọi vào theo thư ‘tự, bắt đầu từ những nam nhân mà đã tìm thấy tử thi.
Mười lăm phút sau, chỉ còn lại Emily, Clarice, và Marion, vì vậy nó thật hiển nhiên rằng các cuộc phỏng vấn của họ với ông thị trưởng sẽ không còn lâu.
Emily nói: “Tại sao không một ai quay lại để báo cho chúng ta biết những gì đang xảy ra?”
“Tôi cho rằng,” Clarice đáp: “Ngài Basil muốn bảo đảm rằng chứng cứ tại ngoại của chúng ta được thiết lập mà không cần có sự giúp đỡ từ bạn bè và những người quan hệ với chúng ta.”
“À, chứng cớ tại ngoại của em sẽ được thiết lập.” Có một điệu khó chịu trong giọng nói của Emily. “Và cũng như chứng cứ tại ngoại của Andrew. Chúng tôi đã qua buổi sáng tại bờ biển với Ginny Matthews và... oh... lúc ấy phải có cả chục đứa bạn bè củ chúng em - đang ăn uống dã ngoại. Chúng em chỉ vừa mới trở lại và được ngắm thưởng những bông hoa trong nhà kính khi người làm vườn xông vào báo với Andrew về ông Forrest.”
Marion nói: “Vâng, em yêu, nhưng chúng ta đều không biết chắc khi nào ông Forrest bị... tấn công. Brand cho rằng đó là vào ban đêm.”
Nàng đang suy nghĩ tới một điều khác mà Brand nói với nàng. Chàng đã đến ngôi nhà nhỏ của John Forrest và tìm thấy cái áo khoác mà chiếc nút đã bị xé toạt khỏi. Không chút nghi ngờ nào trong tâm trí của Brand Forrest chính là kẻ đứng sau cuộc tấn công vào nàng, không chỉ ở trấn Longbury mà ngay cả tại Luân Đôn.
Nàng không thể hoàn toàn tóm nắm được ý tưởng đó. Ông Forest trông có vẻ rất lịch lãm và thủ cựu. Và có người nào lại muốn sát hại ông ấy, và vì sao chứ?
Có một kẻ giết người máu lạnh đang tại ngoại, Brand cho biết, và cho đến khi họ lột mặt nạ được kẻ ấy, nàng không nên tin tưởng bất kỳ ai.
Ngay lúc này Emily được gọi vào, và Marion trao chiếc khăn tay của mình cho Clarice để lau đi những giọt nước mắt.
Giữa những tiếng sụt sịt, Clarice thốt: “Tôi thật ghét nơi này. Nó có một mùi hôi nồng nặc. Tôi chưa bao giờ được hạnh phúc ở nơi đây, ngay cả khi còn thơ ấu.” Cô vỗ nhẹ lên đầu gối Marion.. “Cô là người bạn duy nhất tôi từng có, và đó chỉ được kéo dài trong một vài tuần của một mùa hè.”
Marion hầu như không biết phải nói gì. Nàng chưa từng được thấy Clarice như thế này. Nàng nhất định phải nói cái gì đó. “Nhưng cô và Oswald được hạnh phúc bên nhau. Bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy rằng hai người rất yêu nhau.”
Clarice cười qua làn nước mắt của mình. “Anh ấy thấy được một điều gì đó trong tôi mà không ai khác nhìn ra. Tôi là một cô gái cục mịch...uhm... hầu như không phải là một cô gái. Tôi đã hai mươi lăm tuổi đầu khi anh ấy tới nơi này để truy tìm những di tích Saxon [Đức]. Anh ấy lại tìm thấy một di tích khác mà anh ta quyết định thu thập: tôi. Và hai năm vừa qua là thời gian hạnh phúc nhất trong đời tôi.”
Sau một vài giây lát trong im lặng, Marion lên tiếng: “Nếu cô ghét nơi này nhiều như thế, tại sao cô không bỏ đi? Cô và Oswald có thể sống ở một nơi khác.”
Clarice nhún vai. “Ai sẽ chăm sóc cho bà nội? Không phải là Bà Cutter. Và cả hai đều quá cao tuổi để mọc rễ ở một nơi khác. Cô đã thấy bà tôi tối nay, bà đã trở nên yếu đuối ra sao.” Clarice dừng lại để hỉ mũi. “Tôi không cho bà biết rằng bà là điều duy nhất cầm chân tôi tại nơi đây. Bà sẽ là người đầu tiên bảo tôi hãy rời đi.”
Sự im lặng kéo dài trôi trong khi Marion cố tiêu hóa những lời tâm sự ấy. Cuối cùng, nàng hỏi: “Vậy còn Ngài Robert và thím Theodora? Họ vẫn ở đây. Họ có thể chăm sóc công tước nương nương.”
Vành môi của Clarice mím thành một đường thẳng. “Thím Theodora quá bận bịu với chuyện của bản thân để dành một chút tâm tư nào cho bất kỳ ai khác. Một người có thể nhìn thấy sự chăm sóc của thím đối với bé Flora để nhận ra thím ấy quý trọng những gì. Chỉ có bản thân thím ấy. Cô sẽ không bao giờ biết rằng con bé là đứa cháu đáng tội nghiệp của người dì ấy. Chú Robert còn biểu lộ nhiều tình cảm cho con bé còn hơn là thím Theo. Chú ấy có nhiều thời gian cho con bé-”
Nàng cắn chặt răng xuống làn môi dưới, và trao cho Marion một ánh nhìn hổ thẹn. “Tôi không nên nói như thế. Thím Theodora có những nỗi đau thương phải gánh chịu mà có thể đánh gục hầu hết các phụ nữ. Đó là những gì Oswald nói.” Cô ta có vẻ vui vẻ hơn nhiều. “Anh ấy là một người đáng yêu, phải không nào?”
Marion mỉm cười. “Tôi tin anh ta là như thế.”
Clarice nói: “Tôi không nên phàn nàn. Tôi không quá cô đơn khi có gia đình của cô cận kề. Và khi cô kết hôn với Brand và là một thành viên của gia đình, hoàn cảnh sẽ được tốt hơn. Các con của cô và các con của tôi sẽ là anh chị em cô bác.”
Đây là một con đường Marion đã không muốn viếng. Nàng có thể nói gì? Rằng nàng rất sợ kết hôn với Brand nếu chàng giành được một ghế trong Quốc hội? Rằng nàng đang trì hoãn cho đến khi nàng được khá chắc chắn rằng mình không phải là một cái gông quanh cổ của chàng? Và lúc đó là khi nào?
Mọi thứ đang ở trong tình trạng lộn xộn như vậy. Nàng không biết liệu nàng ấy đang tiến đến hoặc thoát đi. Và Brand cũng không giúp đỡ chút nào. Chàng sẽ không ép nàng, chàng nói; chàng sẽ không thúc đẩy nàng. Quyết định phải là của nàng và là của riêng một mình nàng.
Clarice nhận xét: “Flora và Phoebe hầu như là thân cận như chị em ruột, giống y hệt chúng ta khi ở tuổi ấy.”
“Chỉ là không có quá mạo hiểm [như mình]. Ít nhất là tôi không hy vọng như thế.”
Clarice mỉm cười. “Tôi không thể tin những chuyện chúng ta đã làm, và khi còn bé thơ đến thế nữa cơ. Chúng ta thật là may mắn bởi không bị phát hiện ra bao giờ.”
Một ý nghĩ loé lên trong đầu của Marion, và trước khi bản thân có thể tranh luận về sự khôn ngoan về những gì nàng đã làm, nàng vội vã phát biểu. “Chúng ta đã phát hiện. Không lâu trước khi có tai nạn khủng khiếp đã xảy ra và tướt đi cuộc sống của dì tôi, ai đó đã báo với dì rằng tôi đã ra ngoài vào đêm đó. Điều ấy đã khiến dì buồn bã rất nhiều.”
“Chậm một chút “, Clarice nói. Đôi chân mày của cô nhướng lên. “Ai nói với dì cô rằng cô đã ra ngoài? Và ý cô là cái đêm nào?”
Marion chậm rãi hít một hơi dài. “Tôi không biết ai đã nói với dì ấy, nhưng nó là đêm chúng ta nằm đợi con ma Nhà dòng. Có người nhìn thấy tôi và báo với dì, trong thời gian khá gần đây. Đó là cùng một đêm với cái đêm mà người dì kia của tôi, Hannah, trốn nhà theo trai. Dì Edwina nghĩ rằng tôi có thể có được người cuối cùng được nói chuyện với dì Hannah. Cô thấy đấy, dì ấy chưa bao giờ được nghe một chút tin tức từ dì Hannah nữa, và dì ấy luôn lấy làm tiếc nuối bởi họ đã chia tay sau một cuộc tranh cãi. Đó là tất cả trong một lá thư dì đã viết.”
“Chuyện thật là đáng buồn,” Clarice nói: “nhưng không có gì bất thường. Oswald có một người gì mà đã trốn nhà theo trai, và gia đình dì ấy đã đoạn tuyệt quan hệ. Không một ai được phép đề cập đến tên của dì. Dì ấy xem ra cũng như đã chết, Oswald nói.”
“Phải, nhưng dì Edwina không phải như thế. Dì ấy muốn tìm ra nơi cư trú của dì Hannah. Hãy suy nghĩ cẩn thận lại, Clarice ạ. Cô có nhìn thấy dì Hannah không? Hoặc bất cứ điều gì có vẻ khác thường? Cô có nhìn thấy bất cứ ai khác không? Có một người khác đã có mặt tại đấy. Tôi thật hy vọng rằng tôi được biết người đó là ai.”
Clarice lắc đầu. “Nhất định là người mà mình đã lầm tưởng là con ma. Tôi không thấy ai khác, và điều khác thường duy nhất là con chó rên rĩ và sủa inh ỏi.”
“Con chó nào?”
“Tôi đã nói với cô từ trước. Khi tôi nghe con thú đó rên rĩ, tôi cho rằng đó là con ma chó. Đó không phải là điều khiến chúng ta hốt hoảng sao?”
“Cô đâu có nói đó là một con chó.”
“Vậy thì nó có thể là cái gì nào? Con chó của thím Theodora luôn chạy hoang. Thím ấy không có khả năng điều khiển nó. Tôi nghĩ, nào, đấy nhất định là con chó Snowball.”
Cánh cửa mở ra và một anh lính hầu tiến ào. “Phu nhân Clarice,” anh ta ngâm: “Ngài Basil sẽ tiếp kiến phu nhân ngay bây giờ.”
Khi Clarice đứng lên, Marion nắm lại cổ tay của cô ấy. “Sau này chúng ta sẽ nói lại chuyện này, Clarice, nhưng đừng đề cập chuyện này với bất cứ ai khác, được không?”
Lời cảnh báo của nàng dường như khiến Clarice giật mình, nhưng cô ấy gật đầu trước khi cô ta theo chân anh lính hầu ra ngoài.
Marion đứng lên và bước đến một trong các ô cửa sổ. Ánh sáng đã bắt đầu mờ dần, khiến cho dòng tư tưởng ảm đạm của nàng càng thêm u ám. Đây là lần đầu tiên, trong khi nàng và Clarice nói chuyện, ý tưởng đã hiện ra trong đầu nàng rằng người nhân chứng ấy đã không đề cập đến chuyện bản thân Clarice cũng ở bên ngoài trong cái đêm ấy, bằng không thì dì của nàng đã đề cập đến chuyện ấy trong bức thư dì gửi cho Brand.
Ai đã nhìn thấy nàng chứ, và họ đã ẩn thân tại nơi nào khi nàng lướt ngang qua người ấy? Nàng biết những gì nàng cần phải làm. Nàng cần phải đến cái bục giảng đá và diễn lại những gì đã xảy ra đêm đó, cũng giống như người dân địa phương đã diễn lại trận chiến giữa quân phản loạn Roundheads và kỵ binh hoàng gia Cavalier hàng năm.
Chỉ cần suy nghĩ về nó khiến cho tình thần của nàng suy sụp. Clarice đã nói gì nào? Nơi này có một mùi hôi thối. Bản thân nàng cũng cảm thấy như thế. Kể từ khi đến Longbury, nàng chỉ đi bằng lối tắt ngang qua bục giảng để đến ngôi nhà làng Yew Cottage một lần duy nhất, và đó là bào cái đêm của ngày lễ hội, là cái đêm nàng bị bấn công bởi John Forrest. Và đêm đó, khi nàng chạy xuống đồi khi màn đêm đang rũ xuống, nàng cảm thấy da mình như mọc gai.
Một điều gì đó cứ lượn lờ bên bờ tâm trí nàng, nhưng nàng không thể nhận rõ đấy là điều gì, cái đó mà nàng nhìn thấy hoặc không nhìn thấy khi nàng chạy xuống đồi. Đấy là cái gì chứ?
Nàng quay người khi cánh cửa mở ra, dự kiến sẽ thấy một anh lính hầu, nhưng lại là Clarice người tiến vào. “Phải,” Clarice nói: “thị trưởng đã sẵn sàng gặp cô ngay bây giờ. Và cô không cần phải lo lắng. Ông ta không đặt câu hỏi nhiều hơn là chỉ lấy một chút khẩu cung. Tôi chỉ muốn cho cô biết rằng tôi sẽ đi thay cho bà Ludlow chăm sóc hai cô bé để bà còn được nghỉ ngơi, và đầu bếp Cook và các cô gái giúp việc của bà đang dọn bánh mì và các loại thịt lạnh trong phòng ăn sáng.”
“Những người khác đâu cả rồi?” Marion hỏi.
“Brand và Andrew đã ra ngoài tìm chú Robert.” Gương mặt của nàng nhăn nhó. “Là chú Robert mà chúng ta đang đều lo lắng. Chú ấy đã không có mặt ở nhà qua hai đêm nay, và Ngài Basil có hành động như thể chú Robert là nghi phạm chính trong vụ này.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.