Cạm Bẫy Hôn Nhân (The Marriage Trap)

Chương 11:




Thinh lặng trong chuyến đi đến Chelsea, tâm trí nàng chú tâm vào hết vấn đề này đến vấn đề khác, cùng là những vấn đề cứ khiến nàng thao thức hơn cả nửa đêm. Jack đã đoán đúng về vụ xâm nhập, ít ra trên một phương diện. Không có gì bị lấy trộm.
Sáng hôm nay, họ đến nhà nàng để xem xét lại đồ đạc. Nàng đã rất tỉ mỉ xem lại tất cả các ngăn kéo và tủ kệ, và mặc dù Jack đã đặt một số thứ không đúng vào vị trí, nhưng tất cả vẫn còn đầy đủ, ngay cả những lá thư và công thức của mẹ nàng và các vật trong hộp thuốc của nàng.
Tuy nhiên có một thứ không còn nguyên vẹn như trước. Một ngọn nến đã bị đốt cháy xuống mẩu chân. Kẻ xâm nhập đã phải ở lại trong nhà một thời gian khá lâu, dùng ánh sáng của ngọn nến để tìm kiếm một cái gì đó, hoặc chờ đợi nàng quay trở lại.
Rồi sao? Nàng biết chuyện gì hay là có vật gì trong tay mà ai đó lại có thể muốn chứ?
Vụ sát hại Louise Daudet, vụ trộm cắp những viên kim cương Cardvale, vụ xâm nhập vào nhà của nàng - nàng không thể quên những lời của Jack, nhưng nàng thấy khó tin rằng những sự cố này có liên hệ đến Robbie hoặc là nàng. Những sự cố này chỉ là ngẩu nhiên hoặc có liên quan đến người khác.
Nàng nảy người khi một bàn tay nắm cánh tay nàng.
“Em đang run,” Jack nói. Chàng điều chỉnh chiếc khăn choàng quanh bờ vai của nàng. “Em không còn bị ảnh hưởng bởi thuốc nước của Mama nữa chứ?”
Chàng đã cố gắng đưa nàng khỏi trạng thái sầu não, để nàng ít nhất là có thể nở được nụ cười. “Thuốc nước của Mama không có vấn đề. Em đã nói với anh, là do rượu vang. Uống chung thì chúng hóa thành một công thức dẫn đến thảm họa.”
Nụ cười của nàng nhạt dần. Công thức dẫn đến thảm họa. Các từ đã trở thành một câu nói rập khuôn mà nàng đã nghĩ đến thường xuyên trong thời gian qua - chuyến du ngoạn đến Paris của Robbie, cuộc đi chơi tại Cung Điện Hoàng Gia của Aurora, thuốc nước của Mama, và bây giờ là cuộc hôn nhân không thiêng liêng với Jack. Khi nào vận xui của nàng mới chấm dứt?
Chàng nhanh chóng cảm nhận được tâm trạng của nàng. Với lấy bàn tay đang đeo găng của nàng, chàng bóp nhẹ. “Hãy nghe anh đi, Ellie,” chàng nói. “Hãy quên cái sự thật là cuộc hôn nhân này đã bị gán cho chúng ta. Nhưng khi nghĩ lại, nó cũng không phải là một ý tưởng tồi, phải không?”
Câu nói cuối cùng là một câu hỏi tu từ, vì vậy nàng đã không trả lời.
“Vậy, thì.” Chàng thở ra và mỉm cười. “Từ một quan điểm hoàn toàn thực tế, cuộc hôn nhân này sẽ phục vụ lợi ích của cả hai chúng ta. Em đang kiếm việc làm và anh có việc cho em làm - làm phu nhân của anh, nhiệm vụ của em sẽ không nặng nề. Em sẽ có một ngôi nhà của riêng em, rất nhiều tiền để tùy ý sử dụng, và một vị trí trong xã hội.”
Giọng điệu của nàng khô khan. “Và anh sẽ nhận được gì, Jack?”
“Sao, thì anh có được em, Ellie, và hiển nhiên, em rất phù hợp với anh.”
Nàng vẫn dành cho lời nhận xét của chàng một sự hoài nghi mà nó đáng được. “Em đang nghe,” nàng kéo dài lời nói.
Chàng cười giòn. “Anh nói thật lòng. Anh có thể nói chuyện với em như là một người có trí thức nói chuyện với một người có trí thức khác. Em sẽ không mong đợi anh thì thầm những lời ngọt ngào vào tai em. Em sẽ không yêu cầu anh tham gia vào các buổi lễ, hoặc nổi cơn nếu như anh nhìn người phụ nữ khác. Em biết rằng anh cần phải kết hôn, chỉ để nối giõi, và, như anh đã nói, anh chưa gặp một người phụ nữ phù hợp cho mình được một nửa như em. Cuộc hôn nhân này có thể nói là một việc đã rồi. Chúng ta có thể cố gắng làm tốt hiện trạng này, phải không?”
Nàng vẫn luôn có ý định làm tốt, nhưng lời nói của chàng hầu như không hòa hợp được nàng cùng với số phận của nàng. Trong thực tế, nó đã làm điều ngược lại. Nàng nói quả quyết: “Cung cấp cho anh một người thừa kế để cho dòng giõi của anh có người tiếp tục thật không có sức lôi thu hút với em.” Nàng có thể đã nói nhiều hơn, rằng vai trò của một người phu nhân bị bỏ rơi thậm chí còn ít hấp dẫn hơn, nhưng nàng quyết định rằng nói ra chỉ có thể mang đến thêm phiền nhiễu.
Chàng vỗ nhẹ vào tay nàng. “Anh biết. Nó cũng chẳng hấp dẫn anh. Nhưng anh không nghĩ rằng nó sẽ trở thành nhiệm vụ nặng nề đối với ai trong chúng ta, kinh nghiệm qua đã là một dấu hiệu.”
Nàng giật lấy tay đi. “Đừng quá chắc chắn về điều đó, Jack. Em sẽ không để việc uống thuốc nước của Mama trở thành một thói quen. Bên cạnh đó, giữa chúng ta có một sự cảm thông và em buộc anh phải giữ lời.”
Chàng trao cho nàng một nụ cười chậm rãi đầy bí ẩn. “Không uống thêm thuốc nước của Mama”, chàng tán thành. “Anh nghĩ chúng ta cứ để xui theo tự nhiên, đúng không?”
Sự cau có của nàng nói với chàng những gì nàng nghĩ về ý tưởng đó.
“Và không được để những khuôn mặt ủ rũ nữa. Vì lợi ích của Robbie,” chàng nói thêm.
Nàng gật đầu. “Em sẽ là linh hồn của hạnh phúc.”
Bởi Jack đã không muốn những con ngựa quý báu của chàng phải được chịu cái lạnh, vì vậy họ đến Chelsea bằng cỗ xe thuê thay vì dùng cỗ xe của chàng. Ngôi làng, mặc dù vẫn còn tính chất đồng quê, nhưng thực tế đã trở thành một vùng ngoại ô của Luân Đôn, cũng như với mỗi năm trôi qua ranh giới phía tây của thành phố đã mở rộng để ráp ranh giới với nó.
Họ đã đến Chelsea vào giữa buổi chiều, trước hết là đi qua Bệnh viện Cựu chiến binh Hoàng gia [Royal Hospital for Veterans], mà giờ đã bao gồm những vùng đất một thời đã được tán dương, Khu vườn Ranleigh. Sau đó, có một dãy dài các ngôi nhà kiểu Georgia thật đẹp với phong cảnh thơ mộng của một dòng sông, và sau chúng là Cổ Giáo đường Chelsea.
Cuối cùng họ dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng khiêm tốn khoảng một dặm đường ngoài làng. Diện tích của mảnh đất không lớn và vườn cây ăn trái, giống như ngôi nhà, đã được tu sửa thật tốt. Mặt trời nhạt màu, đất đá cứng cỏi, bãi cỏ màu vàng nâu, và màu xanh duy nhất là cụm bụi cây nhựa ruồi đứng gác nơi cửa trước.
“Cười lên nào,” Jack thì thầm trong khi cửa trước được mở ra.
Ellie mỉm cười.
Nụ cười rực rỡ ấy vẫn còn trên khuôn mặt nàng khi cô giúp việc mời họ vào căn phòng khách tồi tàn, nhưng ấm áp và thoải mái của Bác Freddie. Ấn tượng đầu tiên của Jack là ở đây có đủ sách để sánh với thư viện riêng của chàng.
Ellie đã nói với chàng rằng “bác” là một danh hiệu lịch sự Frederick Wallace đã thu được, khi còn là một thanh niên, lúc làm cha phó của cha nàng. Mặc dù con đường sự nghiệp của họ đã tách ra, nhưng mối quan hệ hữu nghị vẫn kéo dài. Wallace hiện nay đã nghỉ hưu, là một đàn ông ở góa lại không có con cái, và là người đã cống hiến đời mình cho nền giáo dục và giảng dạy.
Người đàn ông đang ôm Ellie trong vòng ôm thân tình không phù hợp làm một giáo sĩ trong ý tưởng của Jack. Mặc dù mái tóc dài rời rạc của ông trắng như tuyết, Ông Wallace sở hữu vóc người của một võ sĩ, và Jack cho là vì phải làm việc ngoài trời trong khu đất khô cứng và vườn cây ăn trái.
Khi màn giới thiệu đã được thực hiện và họ ngồi quanh lò sưởi, Ông Wallace gọi người hầu gái đun nước pha trà.
“Robbie sắp về,” ông trả lời sự truy vấn của Ellie. “Thường thì vào giờ này, cậu ấy sẽ ra ngoài đi dạo ven theo bờ sông để tinh thần được sảng khoái.”
Tinh thần của Ông Wallace dường như bị giảm sút, nhưng Jack đoán không ra là bởi ông đã suy nghĩ đến Robbie hoặc là vì một lý do nào khác. Sự gián đoạn chỉ là ngắn ngủi. Ông chuyển sự chú ý của mình đến Jack. Ánh mắt của ông đo lường, nhưng không phải là không thân thiện.
“Cậu quen với Robbie chứ, Lãnh chúa Raleigh?”
Đương nhiên, ông lão cũng tò mò về sự hiện diện của chàng nơi đây. Jack không cho rằng Ellie đã mang nhiều quý ông thời trang về để gặp gỡ vị giáo sư dạy kèm của Robbie này. Nàng nên làm sáng tỏ mối quan hệ của họ ngay từ đầu, và sự thiếu sót đó của nàng khiến chàng cảm thấy hơi khó chịu.
Chàng được cho là một giải thưởng hôn nhân. Không phải là chàng muốn trở thành như vậy, nhưng Ellie ứng xử như thể chàng chỉ là một người chú trên tác phong.
Điều đó phải thay đổi.
“Tôi biết Robbie chỉ là qua cái tên,” chàng nói. Từ khóe mắt của mình, chàng bắt gặp ánh sáng giận dữ của Ellie và chàng làm nhẹ đi cái quan sát của mình. “Đó là để nói, Ellie đã nói với tôi tất cả về cậu ta. Tuy nhiên, bây giờ chúng tôi sắp trở thành bà con, tôi hy vọng cậu ấy và tôi sẽ trở thành bạn bè.”
“Bà con?” Wallace nhìn từ Ellie sang tới Jack. Ông dường như không có khả năng để kết nối mối quan hệ.
“Ellie?” Jack nhắc.
Khả năng ứng phó của nàng thật khéo léo khiến Jack liên tưởng đến Aurora. Không đề cập đến các trường hợp mà buộc họ phải kết hôn. Nàng dùng câu chuyện mà họ thống nhất để kể, rằng họ đã biết nhau nhiều năm qua, và gặp lại nhau tại Paris, sau một cơn lốc tán tỉnh, họ đã quyết định kết hôn.
May mắn thay, không có hơi hám của tin đồn kia đã truyền đến tai Ông Wallace, và niềm vui của ông khó có thể kìm chế được khi nghe tin tốt của nàng.
Khi một hồi sôi nổi đã lắng đọng, họ trở lại với chủ đề của Robbie.
Ông Wallace mỉm cười lạnh nhạt. “Tôi sợ,” ông nói: “Tôi đã không giúp gì nhiều với các môn học của cậu ta.” Ông nhẹ giọng. “Cô thấy đấy, Ellie, tôi không nghĩ rằng Robbie muốn trở lại đại học. Không phải ai cũng thích hợp làm một học giả.”
Ellie siết chặt hai tay và chân thành nhìn khuôn mặt Ông Wallace. “Hãy cho cậu ấy thời gian, Bác Freddie ạ. Cậu ấy đang ở độ tuổi khó khăn. Và cậu ta cần có nền giáo dục nếu không tất cả các ngành nghề đều không hoan nghênh cậu ấy.”
Ông Wallace thở dài. “Bây giờ cậu ấy trong lúc phục hồi, cậu ấy có thể dễ dàng bị phân tâm. Cô có thể nghĩ rằng Chelsea là một nơi tù túng không có gì nhiều, nhưng ngay cả ở đây, vẫn có những thứ cám dỗ đám thanh niên.”
Ellie tựa lưng vào ghế mình. “Không phải cờ bạc chứ!”
“Ah không”. Hai má Ông Wallace trở nên hồng hào. “Tôi đã nói quá nhiều rồi. Tôi không muốn mang những câu chuyện ra ngoài trường học. Cô thật sự nên nói chuyện với Robbie.”
Jack cũng có ý kiến kiến rằng họ thực sự nên nói chuyện với cậu ta. Bây giờ chàng và Ellie đã sắp kết hôn, chàng cũng có một vài tiếng nói trong sự việc của nàng, và chúng bao gồm chuyện của gã em trai không ra gì của nàng.
Chàng điều chỉnh thân thể dài ngoằng trên chiếc ghế. Giữ giọng mình vừa bình dị vừa tôn kính, chàng nói: “Không ai có thể bắt lỗi bác trong việc chăm sóc Robbie, thưa bác. Tôi chỉ hy vọng tôi có khả năng tương xứng trong công việc đó. Tôi thấy rằng phải tập rất nhiều kiên nhẫn một khi cậu ấy sống dưới mái nhà của tôi.”
Lời của chàng đã được đáp lại bằng một sự im lặng khó hiểu.
Ellie lắp bắp điều gì đó không thể hiểu. Chân mày của Ông Wallace biến mất sau mái tóc rũ trên trán. Như nhận thức ra được một điều trong đầu, nụ cười gấp nếp trên khuôn mặt của ông
“Tất nhiên,” ông nói. “Bây giờ cậu đã sắp kết hôn với Ellie, Robbie sẽ phải trả lời với cậu. Thật là tuyệt vời.” Như thể đột nhiên nhận thức được rằng phản ứng này kém lịch thiệp, ông đã nhanh chóng nói tiếp: “Vâng, tốt, một người đàn ông trẻ trung hơn có lẽ sẽ phù hợp để giáo dục Robbie hơn, và là một người dẫn dắt cậu ấy khá hơn. Và tôi chắc chắn rằng cậu sẽ sử dụng tầm ảnh hưởng của mình để cậu bé ổn định vào... ah... một nghề nghiệp thích hợp khi đến lúc cần.”
“Bác có thể trông cậy vào đó”, Jack trả lời với một nụ cười không tán thành.
Ellie đã đấu tranh để tìm tiếng nói của mình. “Tôi không quan tâm nếu Robbie sẽ trở thành một người chăn cừu hoặc... hoặc một phu xe,” nàng tuyên bố. “Một nền giáo dục sẽ không bao giờ bị lãng phí.”
“Ồ, anh nghĩ rằng anh có thể làm tốt hơn cho cậu ấy hơn là là một người chăn cừu hoặc một phu xe,” Jack đáp một cách thật dễ dàng. “Nhưng việc chính yếu là cho cậu ấy biết về tình hình từ khi chúng ta rời Paris.”
Ám chỉ về chuyện Robbie bị cáo buộc về tội sát nhân đã không có hiệu quả đáng kể gì. “Em nhận thức rõ điều đó,” nàng nói, vẫn cứng rắn. “Nhưng đấy là một sai lầm khi nghĩ rằng Robbie đang cần một người giám hộ, vì cậu đã có một người - chính là em.”
Ông Wallace đã nhanh chân đứng dậy. Nét lo lắng hiện lên trong mắt ông. “Để tôi đi xem chuyện gì đã giữ chân Mabel,” ông nói. “Tôi không nghĩ rằng tôi yêu cầu cô mang bánh nướng và dâu ướp [ý là sao cô ta lâu quá vì những thứ này cần thời gian để chuẩn bị]. Tôi chỉ vắng mặt trong giây lát.”
Khi cánh cửa đóng lại, Jack nói: “Anh nghĩ rằng chúng ta đã thất bại trong cuộc thử nghiệm đầu tiên, Ellie.”
“‘Thử nghiệm’ gì?” Lông mày của nàng hạ xuống.
“Anh không nghĩ rằng chúng ta đã thuyết phục được Ông Wallace rằng chúng ta là một đôi uyên ương.”
Nàng nhĩnh mũi. “Cho dù có chết, em cũng không thể làm dáng vẻ của uyên ương được.”
Chàng nhịn cười. “Giống nhau thôi, chúng ta đã làm cho Ông Wallace đáng thương bỏ chạy. Chúng ta sẽ phải làm tốt hơn nếu chúng ta muốn thuyết phục thế giới, và em trai em nói riêng, rằng chúng ta là một cặp uyên ương hạnh phúc đúng nghĩa. Ít nhất, chúng ta nên lịch sự với nhau.”
Nàng trao cho chàng một cái nhìn tóe lửa, nhưng giọng nàng vẫn lịch sự một cách đáng ngạc nhiên. “Em sẽ lịch sự nếu anh không chọc tức em.”
Chàng lắc đầu. “Anh đâu phải cố tình chọc tức em. Dù muốn hay không, em trai của em sẽ phải trả lời với anh. Làm sao anh có thể khiến em hiểu được rằng cậu ấy đang mắc phải những vấn đề rắc rối ngập đến tận cổ? Anh đã hứa với Ngài Charles - người mà luôn đặt lợi ích tốt nhất của em trong tâm- rằng anh sẽ bảo bọc cậu bé trong vòng tay của mình, và anh có ý giữ lời hứa ấy.”
Điều nhắc nhở sắt bén này khiến nỗi bực tức của nàng như cái bong bóng xì hơi. “Em hiểu,” nàng nói. “Và đừng nghĩ là em vô ơn. Nhưng em cảnh cáo anh ngay bây giờ, Robbie có đầu óc của mình. Cậu ấy sẽ không dễ dàng bị sai bảo. Cậu ấy đã tự chủ, không ít thì nhiều, kể từ khi cậu ta đi đại học. Điều duy nhất em muốn nói là mật ngọt chết ruồi.”
Thoáng nén lại ánh long lanh trong mắt, chàng nói: “Lạ lùng thay, bà nội anh cũng đã sử dụng cùng những từ ngữ như vậy để nói với sĩ quan chỉ huy của anh khi anh nhận nhiệm vụ đầu tiên của mình. Ông ta đã nghe hết những thứ này từ tất cả các bà mẹ và bà quan tâm đến con cháu mình. May mắn cho hàng ngũ Anh Quốc, ông ấy đã bỏ qua lời khuyên của họ.”
Nàng lại bắt đầu xì khói. “Cuộc chiến đã kết thúc, và Robbie không phải là một binh lính. Cậu ấy-”
Chàng giơ tay lên ra dấu cho nàng im lặng. “Anh nghĩ anh nghe được tiếng bước chân của Ông Wallace. Hãy cười lên, Ellie, và làm cho ông già được vui vẻ nào.”
Nhâm nhi trà và bánh nướng, họ bàn thảo về tất cả mọi việc ngoại trừ Robbie. Thời gian trôi qua hết phút, rồi giờ. Ellie đã bắt đầu mất đi sự linh lợi. Bác Freddie cứ nhìn cái đồng hồ. Cuối cùng, Jack không thể chịu đựng được nữa. Chàng đứng dậy.
“Tôi có thể tìm thấy cậu ta ở đâu?” Chàng hỏi đột ngột.
Ông Wallace thở dài. Nhìn Ellie với dáng vẻ xin lỗi, ông nói: “Tôi sợ rằng cậu ấy đã nhập bọn với một đám ăn chơi. Họ tụ tập tại quán Ba Con Quạ [Three Crows] tại bờ sông bên cạnh khu vườn Ranleigh cũ.”
Jack gật đầu. “Chúng tôi đã đi ngang qua nơi ấy khi trên đường đến đây.”
Ellie đứng bật dậy. “Em sẽ đi với anh.”
Chàng mang bao tay vào. “Không được. Quán Ba Con Quạ không phải là một nơi mà một phụ nữ đàng hoàng muốn vào.”
Nàng ngẩng đầu. “Em đã đến những nơi còn tồi tệ hơn.”
“Phải,” chàng đáp gọn: “nhưng không phải là khi em đã đính hôn với anh. Hãy ở lại đây. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Trong khi đó, em có thể trở nên hữu ích hơn. Em có thể giúp Ông Wallace thu dọn hành lý của em trai em. Cậu ta sẽ về nhà chung với chung ta.”
Chàng đã cảm giác được ánh mắt rực lửa của nàng nhìn dõi theo khi chàng bước khỏi phòng.
Ánh sáng ban ngày đã bắt đầu tàn lụi khi Jack đến quán Ba Con Quạ. Đây không phải là một quán trọ nhộn nhịp như có thể tìm thấy trên các đường phố chính vào trấn, nhưng là một nhà khách trọ thôn dã yên tĩnh cho những người khách có vẻ như là những nghệ nhân, người làm công nhật, hoặc chủ tiệm địa phương, dừng lại để trò chuyện và uống một cốc bia sau một ngày làm việc mệt nhọc.
Các thành viên của câu lạc bộ của chàng tại Luân Đôn cũng không khác gì mấy, ngoại trừ việc họ ăn vận y phục từ các cửa tiệm may mặc tốt nhất và chuyền nhau những hộp đựng thuốc bằng ngọc đá quý thay vì hút từ những ống bằng đất sét. Màn khói trong tửu quán đã làm mắt chàng cay.
Một điều chắc chắn. Đây không phải là sào huyệt đám ô hợp mà Ông Wallace đã đề cập, đám ăn chơi mà Robbie thường lui tới. Không một tên lông nhông tự hào nào sẽ cảm thấy được thoải mái trong một môi trường đàng hoàng này.
Từng một thời là một gã lông nhông, chàng biết rằng họ sẽ phá làng phá xóm, đi tìm kích thích, nguy hiểm bằng cách so nắm đấm với các võ sĩ, hoặc kẻ cướp, và bất cứ điều gì để thuyết phục bản thân rằng họ là một đám bất cần đời và khác hẳn với những song thân đàng hoàng của họ [như cà ri khác với sữa trứng].
Các cuộc nói chuyện bắt đầu thuyên giảm đi khi những người khách nhìn thấy chàng. Chàng là một kẻ xa lạ và do đó có chút hứng thú. Chàng tiến đến quầy rượu và nói chuyện với người đàn ông rót rượu.
“Tôi đang tìm một anh bạn trẻ,” chàng nói. “Robbie Hill hoặc Brans-Hill. Anh có biết tôi có thể tìm thấy cậu ta ở nơi nào không?”
Người phục vụ nhìn vào đám đông. “Cậu ấy vừa có mặt tại đây một phút trước, cậu ta và bạn của cậu, Ông Milton, nhưng tôi không còn thấy họ nữa.” Ngay sau đó ông liền tuông một tràng, “Có ai nhìn thấy cậu Hill và người bạn của cậu ta không?”
Một vị người khách chỉ vào cánh cửa ở tận cuối tửu quán. “Họ rời khỏi rất vội vàng”, ông kêu lên. “Chắc là họ ăn phải cái gì trong bánh nướng chim bồ câu của ông đó Bernie.”
Mọi người đều bật cười.
Jack không nắm bắt được câu nói đùa này cho đến khi Bernie, ông chủ, giải thích rằng cánh cửa mà hai quý ông trẻ tuổi đã vội vàng thoát đi là cánh cửa dẫn đến nhà xí bên ngoài.
Jack tung cho người phục vụ một đồng si-linh và đuổi theo “con mồi” của mình.
Dù có ánh sáng hay không, thì cũng không thể nào bỏ lỡ căn nhà xí bởi mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Chàng không đi tới bằng lối đi mà lại đánh một vòng to quanh vùng hoang dã với những bụi cây mọc loạn để che giấu hành tung chàng một chút. Hai cái tên khó dạy đang cố gắng tránh chàng và chàng nhất định tìm hiểu lý do tại sao.
Khi đến nhà xí, chàng nghe ngóng một lúc, khi không nghe thấy gì thì chàng dùng chân để phá cửa. Không có ai cả.
Chàng ngừng một chút để suy ngẫm lại mọi việc. Chỉ có một nơi Robbie có thể đi, và đó là trở lại nhà của Ông Wallace. Nhưng còn người bạn của cậu là Milton thì sao?”
Chàng được biết từ Ellie rằng Milton là người bạn cùng trường đã cùng đi với Robbie đến Paris và giúp nàng đưa Robbie về. Chàng có định sẽ phỏng vấn anh chàng Milton sau khi chàng nói chuyện với Robbie, nhưng chàng tưởng rằng phải tới Oxford để gặp Milton, chứ không phải nơi đây. Có chuyện gì xảy ra đây?
Mấy cái trò chơi trốn tìm vô nghĩa này đã bắt đầu khiến chàng bực bội.
Milton đã không ở nhà của Ông Wallace, vậy thì cậu ta đang ở đâu? Địa điểm hợp lý để tìm là căn nhà trọ địa phương.
Để tránh trường hợp chàng đã đoán đúng và họ quan sát chàng từ một cửa sổ trên lầu, chàng mon men dọc theo bờ sông, sau đó đánh vòng lại trong khi cố gắng không bị họ phát hiện. Một trong những cô hầu phòng chỉ cho chàng phương hướng tới phòng của Milton, và sau khi thưởng hậu cho cô, chàng lên lầu bằng cầu thang phía sau.
Mặc dù đèn trong quán trọ đã được thắp sáng, nhưng không có ánh sáng phát ra từ dưới ngạch cửa phòng của Milton. Tất cả chìm trong thinh lặng. Điều đó đã không ngăn cản Jack. Chàng gõ cửa và dùng tiếng địa phương thô lỗ mà chàng đã nghe được lúc ở tửu quán. “Xin lỗi Ông Milton, thưa ông, ở dưới nhà có ừng cô gái muốn nói chiện dới ông. Cổ nói cổ là cô Hill.”
Có vài tiếng thì thầm thương nghị ở phía bên kia cánh cửa, âm thanh của cái mồi lửa đập vào sắt, sau đó là tiếng cọt kẹt của chìa khóa vặn trong ổ.
Trước khi cánh cửa được mở nửa chừng, Jack lao vào bên trong, sử dụng vai của mình như là một phiến gỗ phá thành. Người đàn ông nơi cửa kêu hự một tiếng rồi ngã xuống như con ky. Người đứng bên cửa sổ xông đến phía Jack trong tay cầm một cái chân nến bằng đồng. Hắn chắc sẽ dùng tới nó, nhưng Jack ngã nghiêng bên trái và đá kẻ tấn công thật mạnh vào bụng. Người thanh niên rít lên, đánh rơi chân nến, rồi quỵ xuống.
Người đàn ông phía sau cánh cửa đã hồi tỉnh. Cậu ta phóng Jack bằng những nắm đấm liên tục. “Chạy đi, Robbie, chạy đi,” cậu rống lên.
Jack đánh ngã cậu ta với một cú vào cằm. “Tôi khuyên câu là không nên, Robbie,” chàng nói, và bước qua thân thể trì trệ của Milton, chàng lôi mạnh Robbie đứng lên.
“À đúng rồi, tôi là Raleigh,” chàng nói, “và chị của cậu đã nhờ tôi đến tìm cậu. Không cần phải nói cho tôi biết hai người là ai. Bây giờ, chúng ta sẽ ngồi xuống và nói chuyện như những người văn minh, được chứ?”
Không ai tranh luận với chàng khi chàng túm lấy họ và quẳng lên mấy cái ghế gần đấy nhất.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.