Cô Phương Bất Tự Thưởng

Chương 11:




Đông qua, xuân tới.
Hoa núi nở rực rỡ, một chú bướm bay đến, đậu lên ngón tay nàng.
Trong một sơn trang ở giữa biên giới Quy Lạc và Bắc Mạc, Sính Đình đang đứng bên cửa sổ.
“Dạo này, muội gầy đi nhiều đấy.” Hà Hiệp đứng sau lưng nàng, khẽ thở dài, “Sính Đình, muội thay đổi rồi.”
“Thay đổi?”, Sính Đình cố cười, ngón tay khẽ động, làm kinh động cánh bướm đang nghỉ ngơi. Nàng quay lại: “Ai thay đổi? Sính Đình vẫn họ Bạch, vẫn theo thiếu gia, vẫn ngày ngày đàn hát.”
Nhìn nàng chăm chăm, cho đến khi nàng phải đưa ánh mắt ngạc nhiên của mình sang hướng khác, Hà Hiệp mới rút từ sau lưng ra một thứ đưa cho Sính Đình: “Của muội này”.
“Gì thế?”, Sính Đình nhìn kỹ, là thanh bảo kiếm tín vật Sở Bắc Tiệp để lại, “Đây là tín vật của hai nước, sao lại giao cho Sính Đình?”
“Sở Bắc Tiệp có thói quen, mỗi khi ra sa trường thì hai bên trái phải đều mang kiếm. Tín vật lần này là thanh kiếm bên trái.” Hà Hiệp ngừng lại, hạ giọng giải thích, “Thanh kiếm này tên là Ly hồn.”
Sóng mắt Sính Đình nhìn sang thanh kiếm trăm năm cổ xưa này, khẽ mân mê, rồi đờ đẫn nhắc lại: “Ly hồn?”
“Hôm đó, ta không hiểu tại sao Sở Bắc Tiệp để lại thanh kiếm bên hông trái luôn được coi trọng nhất này mà không phải thanh bảo kiếm có sức mạnh thần kỳ bên hông phải. Giờ ta đã hiểu, hắn để lại thanh kiếm này cho muội, bây giờ, muội đã bị ly hồn rồi.” Hà Hiệp đặt thanh bảo kiếm vào tay Sính Đình, rồi thở dài, bước ra khỏi phòng.
Ly hồn?
Sính Đình ôm kiếm vào lòng, thanh kiếm lạnh giá áp sát vào da thịt.
Nàng thất thần.
Đúng thế, hồn phách của nàng đã đi theo bóng hình trên lưng ngựa.
Làm sao để quên được Sở Bắc Tiệp? Trời xuân tươi đẹp, chính là thời khắc để ngắt hoa cài lên tóc.
Khoảng thời gian sau khi ổn định lại dài như thế, khiến nàng từng ngày từng đêm hồi ức đến tất cả mọi điều về Sở Bắc Tiệp.
Tại sao ruột gan nàng lại mềm tựa bùn, hoá thành nước?
Quên hết những nghi ngờ lừa phỉnh, tương kế tựu kế, thành làm vua bại làm giặc, nàng chỉ nhớ ba đêm trong Hoa phủ, gương mặt chàng chân thành đến thế, trang nghiêm đến thế, từ đó buộc chặt trái tim nàng.
“Rốt cuộc chàng là người thế nào?”, Sính Đình ngẩng đầu hỏi mây trên trời, “Chàng hận thiếp, hay yêu thiếp? Một lời trước khi ly biệt, vì không nỡ, hay để đoạn tuyệt?”
Ngày đêm bên nhau, dịu dàng đến thấu xương, không phải là giả.
Lừa dối phỉnh phờ, mưu cao kế dày, cũng chẳng phải giả.
Nàng thông minh là thế, lúc này sao lại hồ đồ, giống như sa chân xuống vũng bùn, không sao rút ra nổi?
Bỗng có người đập mạnh vào vai, Sính Đình giật bắn mình, quay phắt lại.
“Ha ha, lại ngẩn người ra rồi?”, Đông Chước làm mặt quỷ, nhìn rõ thần sắc của Sính Đình thì vội vàng thu nụ cười: “Này, này? Sao lại khóc thế kia?”.
Sính Đình vội vã lau hàng lệ, trợn mắt nói: “Lúc nào cũng không đàng hoàng! Trong lúc hiểm nguy còn có vài phần tiến bộ, vừa mới yên ổn vài ngày, đã lại chẳng ra sao rồi.”
Đông Chước cười hì hì lắc đầu, mắt vẫn nhìn nàng, rồi ngồi xuống bưng chén trà lên: “Ta đến thăm ngươi, định bụng đùa cho ngươi vui. Nhưng ngươi được lắm, vừa nhìn thấy ta đã nghiêm mặt giáo huấn”.
Nghe Đông Chước nói vậy, Sính Đình bỗng cảm thấy xấu hổ, cúi đầu, ngượng ngùng lên tiếng: “Mọi người không phải lo cho ta, ta vẫn khỏe, mấy hôm nữa là ổn thôi”.
“Mấy hôm? Ngày mai chúng ta đã rời khỏi đây rồi, còn mấy hôm gì chứ?”
“Ngày mai?”, Sính Đình ngẩn người, “Đi đâu?”.
Đông Chước ngạc nhiên, vô cùng ngỡ ngàng khi thấy Sính Đình không hề biết gì, khuôn mặt thoáng chút bối rối, nhưng nhanh chóng lấy lại vẻ bình thường, nói lấp lửng: “Ta cũng chỉ nghe loáng thoáng thiếu gia nói một hai lần, hình như… nơi này tuy là sản nghiệp bí mật bao năm nay của vương phủ, nhưng dù gì cũng vẫn nằm trong biên giới Quy Lạc. Nay Đại vương đang truy đuổi những người của vương phủ Kính An, nên cẩn thận vẫn hơn, đi sớm một chút… song không biết đi đâu”. Đông Chước cười gượng gạo, rồi vỗ mạnh tay vào trán, “Chết rồi, ta đang làm dở việc của thiếu gia, phải đi làm nốt đây”.
Sính Đình lặng lẽ nhìn theo Đông Chước vội vã đi ra.
Cảm giác lạ lẫm bỗng xâm chiếm nàng, nghĩ lại, nàng cũng không thể trách thiếu gia và Đông Chước.
Từ khi trở về bên thiếu gia, lúc nào nàng cũng như người mất hồn. Mọi người nói mười câu, nàng chỉ đáp được một.
Trước đây nàng là người quản lý những sự vụ trong phủ, nhưng thời gian lưu lạc sang Đông Lâm, thiếu gia cũng đã dạy dỗ được mấy thị nữ đắc lực khác, nên từ khi trở về, nàng cũng chẳng quan tâm đến việc này nữa.
Cứ như thế, dường như nàng đã tách khỏi vương phủ Kính An.
Nỗi lo lắng của thiếu gia hoàn toàn có lý. Nơi này tuy vắng vẻ, nhưng vẫn là vùng đất của Đại vương Quy Lạc, phòng bị vẫn hơn. Nếu là trước đây, đáng lẽ nàng còn phải nhắc nhở thiếu gia, nhưng giờ… Lẽ nào qua một lần tôi luyện, nàng đã đánh mất trí thông minh của mình?
Ngày hôm sau, quả nhiên có thị nữ đến báo thu xếp hành lý rời đi.
Sính Đình hỏi: “Chúng ta đi đâu?”.
“Muội không biết.”
“Tiểu vương gia đâu?”
“Tiểu vương gia đang bận.”
Lên đường cùng đám người của vương phủ, nhưng chẳng thấy Đông Chước đâu, nàng lại hỏi: “Đông Chước đâu rồi?”
“Muội sao biết được những việc này? Sính Đình tỷ tỷ, tỷ cứ yên tâm lên xe đi.”
“Tiểu vương gia đi xe nào? Ta vẫn hay ngồi cùng thiếu gia mà.”
“Sính Đình tỷ tỷ, là Tiểu vương gia dặn dò tỷ ngồi chung với bọn muội. Tiểu vương gia ở đâu, muội cũng không biết.”
Hỏi mười câu đến chín câu a hoàn kia không biết, cả chặng đường không gặp nguy hiểm gì, họ lại đến một biệt viện, chắc cũng vẫn là sản nghiệp bí mật của vương phủ Kính An từ trước.
Bỗng thấy nghi ngờ, Sính Đình không thể không lấy lại chút hồn phách từ chỗ Sở Bắc Tiệp mà đánh giá mọi việc đang diễn ra xung quanh.
Mấy ngày nay vẫn không thấy thiếu gia…
Vô duyên vô cớ, những người ở đây ngày càng xa lạ với nàng.
Lúc trước, nàng thất thần vì Sở Bắc Tiệp nên không phát hiện ra, giờ mọi thứ đã đập vào tầm mắt nàng.
“Sao không thấy Vương gia đâu?”
“Vương gia không đi chung đường với chúng ta.”
“Thế Vương gia ở đâu?”
“Không biết.”
Biết rằng họ cũng chẳng biết gì, nàng quyết định ra khỏi phòng tìm thiếu gia, nhưng đã bị ngăn lại: “Tỷ tỷ muốn tìm Tiểu vương gia, bọn muội đi báo đã”.
Một lát sau, thị nữ trở lại, nói: “Tiểu vương gia không có ở đây, khi nào về, Tiểu vương gia sẽ đến thăm tỷ tỷ”.
Bao ngày không gặp Hà Hiệp, mọi tin tức như đã bị cắt đứt, Sính Đình cơ hồ không nhìn thấy xung quanh, bất luận gần xa, tất cả đều trở thành một khối mờ mịt.
Nàng sao có thể không cảm thấy lạnh lòng? Lưu lạc một thời gian, mọi thứ xung quanh nàng đã hoàn toàn thay đổi.
Vương phủ Kính An thay đổi, hay nàng thay đổi?
Không lâu sau, bệnh cũ bị nhiễm từ năm ngoái lại tái phát.
Sính Đình tỉnh dậy giữa đêm, ho liên tục, thị tì mời đại phu, sắc thuốc bận rộn cả một đêm.
Ngày tiếp theo, cuối cùng Hà Hiệp cũng xuất hiện.
“Sao lại ốm thế này?” Hà Hiệp chau mày, trách hỏi, “Lúc nào muội cũng không chịu chăm sóc bản thân mình cho tốt, muội xem, đang yên đang lành lại ốm thành ra thế này, sao phải khổ vậy?” Hà Hiệp tự tay bê thuốc, giúp nàng uống.
Sính Đình ngẩn người nhìn Hà Hiệp, lát sau mới nở nụ cười, nói: “Thiếu gia gần đây bận thật đấy, không thấy đâu cả”.
“Ta sợ muội phiền lòng, lại sợ muội lao tâm khổ tứ, nên giấu hết những việc khiến muội buồn và lo lắng đi.”
“Vương phủ Kính An tương lai sẽ quy tụ chốn nào, thiếu gia và Vương gia đã bàn bạc gì chưa?”
“Đã bảo mà, muội đừng có lo lắng… Ta sẽ sắp xếp hết.”
Cố chống người uống hết bát thuốc, Sính Đình nhắm mắt lại. Hà Hiệp cũng không vội đi, ngồi bên cạnh, khẽ bóp vai cho nàng: “Ngủ đi, muội gầy trơ xương rồi. Ăn được ngủ được mới là cái phúc. Giờ lúc nào muội cũng cau mày không nói, khiến ta nhớ tới lúc nhỏ muội cứ thích nghịch trò ném đĩa xuống giếng”.
“Lúc nhỏ thật thích, chúng ta ở bên nhau hồn nhiên vô tư.”
“Giờ cũng tốt mà.”
Khuôn mặt gầy gò nở nụ cười mệt mỏi, Sính Đình bỗng nhớ đến một chuyện, khẽ khàng mở mắt: “Thiếu gia, Sở Bắc Tiệp đã nói với muội một câu”.
“Nói gì?”
“Sở Bắc Tiệp nói: Muội là thị nữ thân cận của thiếu gia, chẳng lẽ lại không biết thiếu gia là danh tướng đương thời? Thế nào là danh tướng, chính là có thể phân rõ cái nào trọng cái nào yếu, có thể gạt bỏ tình riêng, cắt đứt tư lợi. Cho dù Bạch Sính Đình muội thông minh lanh lợi, được yêu chiều đến thế nào đi chăng nữa, cũng… cũng chẳng là gì.”
Hà Hiệp lắc đầu bảo: “Nha đầu hồ đồ, muội chỉ ghi nhớ mỗi lời của hắn sao?”
“Sở Bắc Tiệp tuy là tướng địch, nhưng muội tin câu nói ấy.” Ánh mắt yếu ớt của Sính Đình dừng lại trên khuôn mặt Hà Hiệp, khẽ nói, “Thiếu gia là danh tướng đương thời”.
Hà Hiệp cúi đầu không nói.
“Sính Đình, từ lúc trở về, muội chưa từng kể với ta về việc trong vương phủ Trấn Bắc.”
“Sở Bắc Tiệp đã sớm nghi ngờ muội, nên khi phê duyệt công văn, dù muội ở trong phòng, nhưng cũng chẳng đọc được gì.”
Những phỉ thuý trân châu, xưa nay ở nơi nào.
Vương phủ Kính An một thời lẫy lừng chốn thành đô Quy Lạc, giờ bỗng thành phòng dột nhà không, hiên đổ ngói vỡ. Thế sự khó lường, sao trách được lòng người thay đổi?
“Quy Lạc đã có năm năm yên bình, trong năm năm ấy, Đại vương có thể chỉnh đốn quân ngũ, đối kháng với Đông Lâm. Chúng ta làm được việc này cũng coi như xứng đáng với bao đời quốc ân. Hà Túc là đại vương Quy Lạc, hắn bất nhân, nhưng chúng ta không thể bất trung. Từ nay trở đi, vương phủ Kính An không còn tồn tại. Chúng ta muốn quy ẩn sơn lâm, không bao giờ xuất hiện nữa.” Hà Hiệp im lặng một lát, rồi lại nói, “Nhưng Hà Túc quyết truy đuổi đến cùng, thù riêng của vương phủ Kính An cũng không ít. Cả tứ quốc đều có đám quyền quý muốn truy sát chúng ta, thế nên, việc giữ bí mật hành tung liên quan trực tiếp đến sinh tử tồn vong”.
Cơn lạnh thấu xương bất chợt bao trùm lên suy nghĩ của Sính Đình, như sợi dây thừng cột chặt tim nàng.
“Thiếu gia…”, Sính Đình cắn chặt răng, run rẩy một hồi mới nói ra thành tiếng, “Thiếu gia nghi ngờ muội?”
“Muội dụ Sở Bắc Tiệp, lập công lớn cho Quy Lạc, Muội là bậc kỳ nữ hiểu rõ đại nghĩa. Ta tin muội.” Hà Hiệp ngẩng lên trời, nhắm mắt lại, im lặng một hồi, rồi bỗng mở mắt, lạnh lùng hỏi, “Nhưng, Sính Đình, muội có tin muội không?”
Tám từ vừa hỏi, từng từ đâm thẳng vào tim nàng.
Sính Đình thực sự sững sờ. Cảm giác đau đớn và không thể nào tin hổi in hằn lên mặt nàng.
“Thiếu gia nói gì?”, cố tìm lại giọng nói, nàng tức giận hỏi.
Hà Hiệp không trả lời mà hỏi lại: “Muội đang cầm cái gì?”
“Ly hồn”, Sính Đính nói, “Thiếu gia đưa cho muội”.
“Không, Sở Bắc Tiệp đưa cho muội.” Hà Hiệp thở dài, “Nếu hôm đó đưa Ly hồn cho muội, muội cự tuyệt không nhận, ta còn có một tia hy vọng. Hy vọng muội chưa từng bị Sở Bắc Tiệp đầu độc, chưa từng đánh mất hồn phách và lý trí. Nhưng muội đã nhận. Nhận Ly hồn, muội chỉ nhớ đến Sở Bắc Tiệp mà quên mất Quy Lạc. Muội đã bao giờ nghĩ rằng, đây là tín vật của hai quốc gia, là vật chứng giữ cho trăm họ Quy Lạc được năm năm thái bình?”
“Nếu muội quên Quy Lạc, sao vẫn dụ Sở Bắc Tiệp vào bẫy?”
Hà Hiệp chăm chăm nhìn nàng: “Thì ra là thân ở chốn hiểm nguy, tình còn mịt mờ chưa rõ. Đến lúc biệt ly, tương tư đã ngấm tận xương”.
“Không phải thế…”
“Sính Đình, sau khi trở về, muội không còn cưỡi chung ngựa với ta. Trước đây, mỗi lần xuất chinh trở về, huynh muội ta sao mà thân mật quá đỗi. Hôm đó, ta thấy hắn thả muội xuống ngựa, một nam nhân rơi vào cạm bẫy lại đành lòng thả nữ nhân đã hãm hại mình xuống ngựa…”
“Đừng nói nữa, đừng nói nữa!” Sính Đình liên tục lắc đầu, khuôn mặt tiều tuỵ trắng bệch. Nàng khẽ nhắm mắt, hai hàng lệ lăn dài trên má, rầu rĩ nói: “Muội hiểu rồi”.
Kẻ phản gián.
Nàng lừa tấm chân tình của Sở Bắc Tiệp, Sở Bắc Tiệp dùng chính chân tình để hại nàng.
Tình là thật, kế cũng là thật.
Sự tín nhiệm trong mười lăm năm bên cạnh thiếu gia, lại không chống được một kế sách của Sở Bắc Tiệp.
Lần đầu tiên trong đời, Sính Đình mở trừng mắt nhìn mình trúng kế mà không thể làm gì. Nàng không thể làm gì để Hà Hiệp hết nghi ngờ mình, bởi thực ra, nàng cũng đã động lòng.
Nam nữ trên thế gian, một khi đã động lòng thì không thể phán đoán đúng sai, hay dở.
Ngộ nhỡ sau này gặp lại Sở Bắc Tiệp, thật khó đảm bảo rằng ngôn ngữ cử chỉ của nàng lại không tiết lộ gì về vương phủ Kính An.
Hà Hiệp đề phòng nàng, hoàn toàn có lý.
Phản gián.
Đó chính là chiêu cuối cùng của Sở Bắc Tiệp trước khi rời đi, khiến nàng đau xuyên tim.
Nàng cứ mở trừng mắt như thế đến tận khi trời sáng. Nghe tiếng gà gáy, Sính Đình bỗng giật mình, ngồi nhổm dậy. Chăn gối bỗng chốc trở nên nặng nề. Nàng như người thất thần, chậm rãi đưa tay ra, mân mê những hoa văn quen thuộc trên đồ vật ấy.
Hai chữ cổ “Ly hồn” tựa như rồng bay phượng múa trên cán kiếm.
Khoảnh khắc toé lửa khi Sở Bắc Tiệp ném cây kiếm hôm đó vẫn như đang ở ngay trước mắt nàng. Trái tim Sính Đình chẳng khác nào bị ai đó bóp chặt, nàng nghĩ đến những lời Hà Hiệp nói.
Nếu nàng không nhận thanh kiếm này, thì vẫn còn một tia hy vọng.
Nếu nhận rồi…
Ơn nghĩa dưỡng dục mười lăm năm nay đã bị cây kiếm này lặng lẽ chém tan tành.
Nàng vốn không hay khóc, nhưng mấy ngày nay nước mắt nàng cứ lặng lẽ rơi. Giờ trái tim nàng đã lạnh như kết thành băng, muốn khóc, cũng chẳng nhỏ được giọt lệ nào.
Sính Đình cứ ngồi như thế trên giường, cảm thấy đầu óc mình thật mơ hồ, bèn giơ tay ôm trán.
Nàng lại sốt, ngón tay lạnh giá chạm vào da thịt nóng rẫy, khiến nàng rùng mình.
Thị nữ Linh Đương do Hà Hiệp cử đến hầu hạ nàng chợt đẩy cửa bước vào, nhẹ nhàng hỏi: “Tỷ tỷ dậy rồi ư?”, Linh Đương hỏi đến ba lần, Sính Đình mới hoảng hốt quay lại: “Ừ?”
Linh Đương nhanh nhẹn bê nước nóng vào, vắt khô khăn rồi đưa cho Sính Đình. Trong cơn chạy nạn, đến rồi lại đi, những đồ đạc thường dùng cũng lộn xộn hết lên, Linh Đương tìm lược chải đầu của Sính Đình khắp mọi nơi.
Sính Đình nói: “Đừng tìm nữa. Muội đi gọi Đông Chước đến đây”.
“Đông Chước?”
“Không có ở đây à?”
Linh Đương lắc đầu, cười: “Để muội đi xem đã”.
Nắng chan hoà, hương vị mùa xuân càng lúc càng nồng. Linh Đương vén rèm cửa sang một bên, để ánh nắng oà vào chói mắt. Sính Đình bỗng nghĩ đến tấm rèm cửa trong Hoa phủ.
Nàng cùng Hoa tiểu thư đã núp sau tấm rèm, lặng lẽ ngắm nhìn vị khách đến nhà bái phỏng.
Đó là lần đầu tiên nàng nhìn thấy Sở Bắc Tiệp.
Căn phòng chỉ còn lại mình nàng, lạnh đến nỗi không cần người khác kinh động, Sính Đình cũng giật mình bừng tỉnh. Nàng xuống giường, lấy lược đứng bên cửa sổ, chậm rãi chải mái tóc đen óng, rồi ngắm nhìn cảnh sắc đầy sức xuân bên ngoài.
Những bông hoa đang chúm chím với đủ sắc màu hồng tím, cỏ non xanh rợn bên hồ. Cảnh tuy đẹp, nhưng sao xa lạ quá!
Không phải vương phủ Kính An, cũng chẳng phải vương phủ Trấn Bắc.
“Tự nguyện lên ngựa, cáo biệt Hà Hiệp. Từ nay, nàng không còn mang tên Bạch Sính Đình nữa, nàng sẽ mang họ Sở.”
“Nhận lấy Ly hồn, muội chỉ nhớ đến Sở Bắc Tiệp mà quên mất Quy Lạc. Muội có từng nghĩ rằng, đây là tín vật của hai quốc gia, là vật chứng đảm bảo năm năm yên bình của trăm dân Quy Lạc?”
Sính Đình bỗng chau mày, lòng đau đến nghẹt thở. Ngón tay trắng bệch nắm chặt vạt áo trước ngực. Nàng quay lại, lặng lẽ nhìn thanh bảo kiếm đang đặt cạnh giường.
Ly hồn.
Rời xa Sở Bắc Tiệp, nhưng không thể trở về vương phủ Kính An. Bạch Sính Đình nàng, thị nữ giỏi giang nhất của vương phủ Kính An, nữ quân sư theo chủ xuất chinh nghĩ kế diệt thù, nữ tử ép đại tướng địch quốc lập lời thề giữ vững năm năm bình yên cho Quy Lạc, sao bỗng trở thành cô hồn ở chốn này?
“Sính Đình, tìm ta hả?”, giọng Đông Chước vang lên sau lưng nàng.
Sính Đình đặt cây lược xuống, quay lai, khoé môi đã lại nở nụ cười quen thuộc như mọi hôm: “Có việc muốn nói với ngươi đây”.
Đông Chước có vẻ hơi lúng túng. Trong lúc bôn ba, bao nhiêu ngày không nhìn thấy Sính Đình, Đông Chước cũng thầm nhận ra nhiều chuyện khiến người ta lạnh lòng. Thấy người bầu bạn sớm hôm kề cận cùng mình giờ tiều tuỵ đến mức này, vẻ nghịch ngợm thường thấy trên khuôn mặt Đông Chước cũng hoàn toàn biến mất. Đông Chước xoa hai tay vào nhau, giống hệt cậu bé lớn phạm lỗi: “Ngươi nói đi”.
“Ta phải đi đây.”
Bốn tiếng tưởng chừng hoàn toàn bình tĩnh ấy lại đang đè nặng lên trái tim Đông Chước.
“Đi?” Đông Chước ngẩng lên, kinh ngạc nhìn vào đôi mắt đen của Sính Đình. Những gì hắn nghe thấy, nhìn thấy bao ngày nay bỗng hiện ra trước mắt. Đông Chước thấy đau như bị kim châm, lời muốn nói ra cũng lập tức bị chặn lại. Hắn cứ cúi đầu đứng đó, ngập ngừng hỏi: “Thiếu gia có biết không?”
Sính Đình cười dịu dàng, cả người dựa bên cửa sổ, vẫy tay với Đông Chước: “Đông Chước, lại đây”.
Nàng nắm bàn tay Đông Chước, nhìn kỹ hồi lâu, rồi chợt tinh nghịch hẳn lên, trêu đùa: “Tiểu tử này, lúc nào cũng Sính Đình, Sính Đình, ta còn lớn hơn ngươi mấy tháng đó. Gọi một tiếng tỷ tỷ nghe xem nào”.
Đông Chước buồn bã cắn chặt răng, suy nghĩ hồi lâu, mới khẽ gọi: “Tỷ tỷ”.
“Đệ đệ ngoan.” Sính Đình ra dáng tỷ tỷ dặn dò, “Ở đời khó nhất là phải biết tiến biết lùi. Hôm đó dụ được Sở Bắc Tiệp, ta đã tiến. Nay, đã đến lúc ta phải lùi rồi”.
“Nhưng tỷ là người của vương phủ Kính An, biết đi đâu bây giờ? Trong danh sách những người của vương phủ Kính An mà Đại vương truy bắt có tên tỷ, Sở Bắc Tiệp cũng sẽ không tha cho tỷ đâu.”
“Ta tự biết sắp xếp.”
Những điều buồn bực phải nín nhịn trong lòng bao ngày nay giờ bỗng bùng phát, Đông Chước phẫn nộ: “Đệ biết thiếu gia nghi ngờ tỷ. Để đệ đi nói với thiếu gia”.
“Không được đi.”
“Đệ không thể tiếp tục nhẫn nhịn được nữa. Lần này thiếu gia sai rồi. Cứ như vậy, thiếu gia cũng đâu có khác gì vị Đại vương đang theo dõi hành tung và tiêu diệt vương phủ Kính An ta.”
“Đứng lại!” Sính Đình vội kéo Đông Chước lại, nhìn hắn chằm chằm, nói, “Thiếu gia nghi ngờ không sai đâu”.
Đông Chước sững sờ, chau mày ngạc nhiên: “Tỷ nói gì vậy? Đệ không tin tỷ lại có lòng khác với vương phủ Kính An”.
Sính Đình ngẩn người, thở dài: “Có nói đệ cũng không hiểu được. Dẫu sao, ta đi, tốt cho vương phủ, tốt cho thiếu gia, và tốt cho cả ta. Đúng vào lúc dầu sôi lửa bỏng thế này, ta chẳng giúp được gì cho thiếu gia, thì ít nhất cũng không nên để thiếu gia phải bận lòng”.
“Sao tỷ lại có thể khiến thiếu gia bận lòng?”
“Đông Chước…” Sính Đình dịu dàng nhìn Đông Chước, cười chua xót, “Luận về công lao, thiếu gia không thể bạc đãi ta; luận về hậu họa, thiếu gia không thể tín nhiệm ta. Vào lúc hành tung của vương phủ Kính An cần giữ bí mật nhất, thiếu gia không muốn nhốt ta, không muốn hại ta, cũng không muốn ta đau lòng. Ta cũng phải lo thay thiếu gia.”
“Nhưng nếu tỷ đi…”
“Ta đi rồi, không còn liên quan gì tới vương phủ Kính An nữa. Không biết tung tích của vương phủ, ta muốn tiết lộ cũng chẳng thể.”
Đông Chước vẫn lắc đầu: “Không được. Tỷ làm thế khác gì nói thiếu gia vong ân bội nghĩa, bức hại công thần?”.
Sính Đình khẽ chớp đôi mắt sáng: “Vì thế ta mới cần ngươi giúp. Ta phải lặng lẽ ra đi, không để thiếu gia biết.”
“Không, không. Đệ không thể giấu thiếu gia.”
“Đương nhiên ngươi không giấu được thiếu gia, nhưng thiếu gia sẽ giấu ngươi. Đánh cuộc nhé, nếu thiếu gia biết kế hoạch của chúng ta, không những thiếu gia không lên tiếng, mà còn ngầm sắp xếp cho thuận tiện.”
“Đệ thật không hiểu nổi hai người!”, Đông Chước lắc đầu, lo lắng, đi đi lại lại, rồi bỗng quay sang: “Giúp tỷ thì không vấn đề gì, dù sao thiếu gia có biết hay không, trong chuyện này tỷ cũng không thể chịu ấm ức, đệ không tin tỷ lại bán đứng vương phủ. Nhưng… tỷ có thể đi đâu? Tỷ vẫn đang bệnh, chi bằng để một hai hôm nữa…”.
Sính Đình vội ngắt lời: “Không, ta phải đi ngay trong đêm nay”. Sính Đình nói giọng lãnh đạm, nhưng chứa đựng sự quả quyết không thể dao động.
Đông Chước chau mày, khoanh tay trước ngực, đứng đối diện với Sính Đình: “Không nói tỷ dự định đi đâu, đệ sẽ không giúp tỷ. Tỷ thân cô thế cô ra đi thế này, chẳng may xảy ra chuyện gì thì cả đời này đệ không thể ngủ yên”.
“Rời khỏi đây, ta chỉ có một mình, muốn lên trời xuống đất gì cũng được. Ngươi đã biết có bao nhiêu người muốn tìm ta, nên ta càng không thể tiết lộ hành tung của mình cho một tên tiểu tử hấp tấp như ngươi. Nhưng mà, ta dự định sẽ đi về…”, Sính Đình ghé sát tai Đông Chước, nói khẽ, “Phương Bắc”.
Có phải mùa xuân của phương Bắc đến muộn hơn nơi này?
Trước đây trong phủ vương tử của Hà Túc, Dương Phượng từng nói về nơi đó. Trên thảo nguyên bao la của Bắc Mạc, từng đàn bò dê ngựa mải mê gặm cỏ, vẫy đuôi tung tẩy. Nếu có con nào đó cong đuôi lao đi, cả đàn cũng lao vút theo, tiếng chân rầm rập như sắp nứt đôi mặt đất.
Nàng không thể ở lại Quy Lạc, càng không thể rơi vào miệng hổ Đông Lâm, chi bằng tới Bắc Mạc.
Ngút ngàn tầm mắt là một màu đen tối, nhưng mặt trời cũng chính là phía đó. Sính Đình hít một hơi thật sâu bầu không khí mát lành, cảm thấy mình đã mệt mỏi quá lâu, gân cốt rã rời. Trói mình trong tù túng chật hẹp, không nhìn thấy mặt trời, nàng bỗng nhớ đến bằng hữu tốt gan to bằng trời, mượn cớ Vương hậu hãm hại mà từ bỏ tất cả, đến vùng Bắc Mạc.
Nụ cười trên môi Dương Phượng chắc hẳn giờ còn rạng rỡ hơn trước.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.