Cô Phương Bất Tự Thưởng

Chương 37:




Bôn ba mấy ngày liền, Sính Đình và Túy Cúc vô cùng mệt mỏi.
Phần lớn lộ phí dùng vào việc mua sắm, chế tạo mấy thứ phòng thân, lại phải mua ngựa, mua thức ăn, ở trọ, trong túi hai người đã chẳng còn bao nhiêu. May mà qua biên giới, rất nhiều đường thông sang Bắc Mạc, Thừa tướng Vân Thường không thể bố trí cạm bẫy ở hết mọi ngóc ngách, nên nguy hiểm giảm đi đáng kể.
Sính Đình và Túy Cúc gầy đi nhiều, nhưng mấy ngày đấu trí với những kẻ mưu đồ cản đường, chủ ý của Sính Đình vẫn vô cùng vô tận, họ lần lượt vượt qua nguy hiểm. Cả đời chưa từng trải qua việc gì hiểm nguy hồi hộp đến vậy, ban đầu Túy Cúc còn lo lắng sợ sệt, càng về sau càng thấy thích thú.
“Sơn mạch Tùng Sâm! Đi một ngày nữa sẽ tới Bắc Mạc.” Dãy Tùng Sâm đánh dấu điểm phân cách biên giới giữa Vân Thường và Bắc Mạc cuối cùng cũng hiện ra trước mắt, Túy Cúc vui mừng chỉ cho Sính Đình.
Sính Đình mỉm cười, gật đầu: “Đích thị là dãy Tùng Sâm”. Đi một ngày đường, khuôn mặt thanh tú của nàng đã nhuốm màu mệt mỏi.
Nhìn sắc mặt Sính Đình, Túy Cúc dặn dò: “Hôm nay không cố đi nữa. Phía trước có nhà dân, chúng ta qua đó trọ. Túy Cúc sẽ sắc cho cô nương ít thuốc dưỡng thai, cô nương đừng chê đắng, phải uống hết mới được”.
“Đắng thật mà”, Sính Đình cau mày, “Phương thuốc ta kê chưa bao giờ đắng thế. Mấy hôm nay ta rất khỏe, không hề có cảm giác khó chịu buồn nôn”.
“Không được, Túy Cúc mới là đại phu. Mê dược, độc dược cô nương hơn, nhưng trị bệnh cứu người cô nương không thể bằng Túy Cúc. Giờ cô nương không như trước, tuyệt đối không thể lơ là”, Túy Cúc trừng mắt.
Sính Đình che miệng cười thầm, gật đầu: “Vâng, Túy Cúc thần y”.
Phía trước là ngôi nhà của cặp phu thê già sống bằng nghề săn bắn. Thấy hai cô nương đáng thương đến thuê trọ, họ đồng ý ngay, bèn nhường một phòng nhỏ sạch sẽ cho khách qua đêm.
Giơ tay nải, dược liệu mua dọc đường đã gần hết, phương thuốc dưỡng thai cho Sính Đình chỉ còn thiếu một vị, Túy Cúc lại dọn tay nải, ra ngoài thỉnh giáo lão phu nhân: “Đại nương, trong núi gần đây có mạt thảo không?”.
“Chỗ nào chẳng có, loại cỏ này mọc đầy trên núi, mùa đông cũng không lụi đi. Cô nương đến chân núi phía trước, đào một lớp tuyết sẽ thấy ngay, hái một lúc là được cả ôm to”, đại nương ngạc nhiên, “Cô nương cần mạt thảo làm gì? Đó là loại cỏ dùng cho nữ nhân mới sinh mà?”.
“Vâng…”, Túy Cúc cười đáp, “Không có gì, tiểu nữ và tẩu tẩu đi thăm ca ca. Tẩu tẩu có mang, tiểu nữ muốn hái một ít mang đến chỗ ca ca, chưa biết chừng tới lúc đó tẩu cũng cần dùng”.
“Đúng đấy. Người nghèo không mua được thuốc tốt, dùng loại cỏ này bồi bổ cũng hay lắm. Lão thấy còn tốt hơn cả nhân sâm ấy chứ.” Sống nơi hẻo lánh tĩnh mịch đã quen, hiếm khi có người để chuyện trò dăm ba câu, đại nương cứ cười mãi, những nếp nhăn thời gian hằn rõ trên mặt.
“Vậy tiểu nữ đi hái một chút đây.”
“Trên đường nhiều đá tảng, cô nương cẩn thận.”
Đi được hai bước, Túy Cúc lại không yên tâm quay người: “Tẩu tẩu đi cả ngày đường mệt mỏi, đang ngủ một lúc. Khi nào tẩu tẩu tỉnh, phiền đại nương chuyển lời rằng tiểu nữ đi hái thuốc, sẽ về ngay. Đại nương giúp tiểu nữ chăm sóc tẩu tẩu nhé”.
“Lão biết rồi, cô nương cứ yên tâm!”
Túy Cúc mượn bà cụ chiếc xẻng nhỏ để đào bùn tuyết, rồi mới quay đi.
Ngủ một giấc thật ngon, vừa tỉnh dậy đã gọi Túy Cúc: “Túy Cúc”, nhưng không nghe tiếng trả lời, Sính Đình thấy rất lạ. Nàng ngồi dậy, nhìn tay nải Túy Cúc để bên cạch cùng mấy vị thảo dược ở ngoài.
“Túy Cúc?”, Sính Đình bước xuống giường, lại gọi nhưng vẫn không thấy tiếng trả lời. Nàng nhìn ra ngoài cửa sổ, sắc trời đã gần tối, giọng bèn cao hơn một chút: “Túy Cúc?”.
Có người vén rèm bước vào, Sính Đình vui mừng quay lại, nhận ra là vị đại nương kia.
“Cô nương, muội muội của cô nương đi hái thuốc, nói là đi hái mạt thảo cho tẩu tẩu dùng”, đại nương cười hiền từ, “Cơm lão nấu xong rồi, cùng ăn thôi, cũng chẳng có gì”.
“Đa tạ đại nương”, Sính Đình dịu dàng đáp. Nàng mỉm cười cảm kích, theo đại nương sang gian phòng nhỏ. Vị đại thúc câm đã ngồi bên bàn. Trên bàn bày bát đũa sạch sẽ, một đĩa củ cải sợi, một đĩa cá muối chưng và nửa nồi cháo loãng nóng hổi.
Đại thúc câm ra hiệu: “A A A… A!”.
Đại nương hiểu ý, nói với Sính Đình: “Cô nương, ngồi xuống ăn chút đi. Cô nương đừng lo, muội muội của cô nương bảo chỉ đến chân núi, nên sẽ về ngay thôi”.
“Đa tạ đại thúc, đại nương”, Sính Đình quay đầu ra ngoài, nhìn sắc trời dần tối.
Tuy là cơm canh đạm bạc, nhưng hai lão nhân đối đãi với nhau rất ân cần, khiến căn phòng tràn đầy cảm giác ấm áp. Sính Đình khẽ đặt bát xuống, lại nhìn ra ngoài, trời đã tối hẳn.
Vẫn chẳng thấy bóng dáng Túy Cúc đâu, nàng bỗng thấy vô cùng lo lắng.
“Sao vẫn chưa thấy muội muội của cô nương về nhỉ?” Đại nương cũng lo lắng nhìn ra ngoài, “Chân núi ngay đằng kia, mỗi một đoạn đường. Đáng lẽ về rồi mới phải”.
Trong lòng bất an, Sính Đình đi vòng quanh tiểu viện trước nhà. Túy Cúc lanh lợi, nhưng vùng núi vào ban đêm rất nguy hiểm, gặp phải dã thú ngủ đông đói bụng thì coi như xong.
Lúc ở thành đô, để Túy Cúc chờ trong quán trọ, khi đến nhìn sắc mặt nàng ấy, Sính Đình còn cười chê Túy Cúc nhát gan đa nghi. Giờ nàng mới biết cảm giác lo lắng cho người khác thật không dễ chịu chút nào. Lâu nay, hai người đã như hình với bóng, Sính Đình lo lắng, buột miệng, “ Đại nương, tiểu nữ ra ngoài tìm muội muội”.
Đại thúc câm bỗng ú ớ vài tiếng, ra sức xua tay.
Đại nương bảo: “Đợi thêm lát nữa, nếu muội muội về, không thấy cô nương lại lo”.
“Không, tiểu nữ chỉ đi vòng vòng ở chân núi phía trước rồi về ngay.” Sính Đình mượn cây đuốc, hỏi rõ hướng đi của Túy Cúc, rồi mới dặn dò, “Đại nương, nếu muội muội trở về, đại nương nhớ giữ muội ấy lại, đừng cho ra ngoài nhé. Tiểu nữ tới chân núi tìm, không thấy sẽ về ngay”.
Đại nương thở dài: “Quả nhiên là tình tỷ muội. Lúc muội muội đi cũng dặn dò lão phải chăm sóc cho tẩu tẩu của mình, giờ tẩu tẩu lại dặn lão nhớ chăm sóc cho muội muội. Cô nương tốt, chỉ đi một vòng quanh chân núi thôi, trời tối rồi, chớ có lên núi”.
“Vâng, tiểu nữ biết rồi!”
Trong màn đêm, gió khẽ thổi, Sính Đình bước vội, ngọn lửa bị kéo dài giống như một cái đuôi, như đang đuổi theo cái bóng của nàng. Chẳng mấy chốc, Sính Đình đã đến chân núi. Ánh trăng bàng bạc suốt chặng đường dường như cũng chẳng len nổi đến nơi đây. Vệt đen của cành lá đổ bóng đè lên nàng. Sính Đình giơ đuốc, tìm khắp xung quanh nhưng không thấy hình dáng Túy Cúc đâu.
“Túy Cúc! Túy Cúc!”, nhìn một lúc, nàng gọi to.
Âm thanh vọng lại từ rừng già âm u.
Tìm kỹ nơi bìa rừng, thấy dưới mấy gốc cây to có vết đào bới, Sính Đình liền vội vã qua phía đó. Đúng là đã có người đến đây đào thảo dược, rễ cây bị đứt vẫn còn trong đất. Sính Đình lần theo vết đào tìm kiếm, phát hiện mấy dấu chân in trên tuyết. Nếu không phải đang cầm đuốc, lại tìm kiếm cẩn thận như thế, e là nàng đã bỏ qua mấy dấu chân ấy. Chậm rãi bước theo dấu chân, đến nơi mà bóng đen của rừng rậm hoàn toàn che khuất bầu trời, nàng mới ngẩn lên.
Túy Cúc đã vào đây. Không biết tại sao, Sính Đình bỗng thấy lòng thắt lại, cảm giác lo lắng trào dâng.
“Túy Cúc! Túy Cúc! Ngươi ở đâu?”, Sính Đình ra sức gào thật to.
Cảm giác bi ai thê thảm trào dâng trong lòng, dường như trước giờ nàng chưa từng bất lực thế này. Đối diện với nàng không phải con người, mà là núi rừng im ắng. Ở đây không có kẻ thù, không cạm bẫy, nhưng lại đáng sợ hơn chốn sa trường, khiến nàng không biết phải làm sao.
Núi rừng im lìm như đang nhìn nàng chằm chằm, nỗi cô độc bủa vây quanh nữ tử nhỏ bé.
“Ngươi ở đâu?” Sính Đình giật mình quay lại, ngọn lửa soi rõ khuôn mặt nhợt nhạt của nàng. Dù trí tuệ hơn người, Sính Đình vẫn phải bất lực đứng đây. Tại sao đến lúc gần như đã tìm thấy tự do, nàng lại trở nên khiếp đảm nhường này?
Đứng trên nền tuyết trắng, bên trái là mặt đất lóng lánh ánh trăng, bên phải là rừng rậm âm u, trong tiếng rả rích của côn trùng ngày đông, nàng chợt hiểu ra mình là kẻ cô độc.
“Ngươi đang ở đâu?”, giọng nàng không còn cao như ban nãy.
Lửa vẫn cháy lèo xèo. Thanh âm khẽ khàng lại là tiết tấu duy nhất tồn tại trong không gian tĩnh mịch này.
Trước mắt nàng như hiện lên đôi đồng tử sáng ngời, thâm thúy và sắc bén.
Cứ ngỡ cả đời này sẽ được nắm chặt cánh tay kiên định, mạnh mẽ ấy, ai ngờ giờ nàng phải một mình quanh quẩn giữa đêm đen?
Chàng có kiếm thuật vô song, anh dũng cái thế, nhưng trái tim lại không khiến nàng cảm thấy yên ổn.
Trong đêm khuya chẳng một bóng người, nước mắt Sính Đình bỗng lăn. Ngay cả nàng cũng không hiểu tại sao những sầu khổ chôn chặt tận đáy lòng, giờ lại tuôn trào, hóa thành giọt lệ rơi giữa rừng già mênh mông vô tận, thấm xuống lớp tuyết dưới chân, không một dấu tích.
Nàng cúi đầu, nghiến chặt răng, nhìn hàng lệ chảy trong ánh lửa, rồi ngẩng đầu, gọi: “Túy Cúc! Túy Cúc! Ngươi ở đâu?”. Giọng nói nức nở thê thảm đến run người.
“Cô nương! Túy Cúc ở đây!” Trong rừng sâu yên tĩnh bỗng vang lên tiếng đáp trong trẻo.
Sính Đình sững sờ, giơ cao ngọn đuốc, nhìn về phía vọng lại tiếng nói.
Quả nhiên, một bóng người mờ ảo chạy ào tới phía nàng từ trong rừng sâu, trên tay xách chiếc làn nhỏ, thở hổn hển: “Không ngờ trên núi có nhiều thảo dược tốt như thế, Túy Cúc lần theo các gốc cây, cứ thế đi sâu vào trong. Trời tối, suýt chút nữa không tìm thấy đường ra, may cô nương tìm đến. Ớ…”. Thấy đôi mắt Sính Đình đỏ hoe dưới ánh lửa, Túy Cúc sững người, một lúc sau mới hỏi, “Cô nương sao thế?”.
“Không sao cả.”
“Khóc đến thế kia…” Túy Cúc nắm chặt bàn tay lạnh giá của Sính Đình, “Tại Túy Cúc không tốt, khiến cô nương lo lắng”.
Sính Đình cười mà như mếu.
Nàng vốn được khen là thông minh lanh lợi, nhưng chỉ nàng mới biết lúc này mình bất lực đến mức nào. Túy Cúc làm sao hiểu được trong lòng nàng hiện đang nghĩ gì. Khẽ chớp mắt, một hàng lệ lại lặng lẽ lăn trên má nàng.
Túy Cúc đau lòng: “Cô nương đừng khóc nữa, Túy Cúc đã về đây rồi. Lần sau Túy Cúc không dám thế nữa”.
Sính Đình quay mặt đi, khẽ bảo: “Chỗ thảo dược này cũng không cần dùng ngay. Trời lạnh như vậy, ngươi phải lo cho sức khỏe của mình chứ”. Nói rồi, hai người chậm rãi quay về.
Túy Cúc nhanh nhẹn: “Để Túy Cúc mang”, sau đó cầm ngọn đuốc trong tay Sính Đình, tay kia xách làn. Trong lòng bất an, Túy Cúc cứ liên tục quay lại nhìn đôi mắt đỏ hoe của Sính Đình, dò hỏi: “Cô nương đang nghĩ gì vậy?”.
Sính Đình cúi đầu, lặng lẽ bước đi, như không hề nghe thấy lời của Túy Cúc. Bỗng một lúc sau, nàng lên tiếng: “Ta đang nghĩ đến bức thư”.
Nghe Sính Đình chủ động nhắc tới việc đó, Túy Cúc càng ngạc nhiên, lại sợ động đến nỗi đau trong lòng Sính Đình, nên không dám hỏi thêm, chỉ yên lặng bước đi.
Một lát sau, giọng buồn bã của Sính Đình lại cất lên: “Hôm đó nhấc bút đề thư, tuy viết bao điều, nhưng trong đầu vẫn rối. Giờ nghĩ lại, có lẽ đó chính là tiếng lòng mà ta không biết”.
Túy Cúc hỏi: “Rốt cuộc cô nương viết những gì?”.
Sính Đình dường như định mở lời, khóe môi khẽ động, nhưng lại thở dài: “Nói ra chỉ khiến ngươi thêm phiền lòng”.
Hai người lặng lẽ quay về, đến khi ngẩng lên, đã thấy ánh sáng hắt ra từ khung cửa sổ của căn phòng nhỏ đã gần ngay trước mặt. Bỗng họ nghe âm thanh hung bạo chói tai rít qua kẽ răng: “Kẻ già mãi không chịu chết, còn dám nhiều lời!”, tiếp theo là tiếng cái tát nảy lửa vang lên trong đêm đen.
Lặng lẽ ngó đầu ra quan sát, dưới ánh trăng, họ thấy bóng mấy nam nhân hùng hổ ngay trước gian nhà nhỏ.
“Nếu không có các quan gia chặn Sở Bắc Tiệp lại, người Đông Lâm mà xông tới đây, các ngươi cũng chẳng giữ được cái đầu trên cổ đâu. Đánh trận thì phải nuôi quân, lúc nào rồi còn không chịu nộp thuế? Các ngươi không muốn sống nữa đúng không?”
Giọng hiền từ của đại nương trở nên kinh hoàng, hoảng sợ: “Quan đại gia, phần thuế năm nay, nhà lão đã nộp từ hôm kia rồi…”.
“Đó là hôm kia, còn giờ là hôm nay!”, giọng hung bạo cắt ngang lời đại nương.
Bỗng hàng loạt tiếng gãy răng rắc vang lên, như thế kẻ nào đã giẫm nát cánh cửa gỗ cũ.
“Thực là lão không có gì nữa.”
“Không có? Hừ, thế đây là cái gì?” Một giọng nói hống hách xen vào, nam nhân vừa vào nhà lục soát ôm theo đống đồ ra ngoài, giễu cợt, “Thật không ngờ hai tên già mãi không chịu chết các ngươi lại có đồ tốt thế này”.
“A! A A…” Đại thúc câm khua tay, ngăn nam nhân trước mặt.
Đại nương vội nói: “Đại gia, đại gia, đây không phải đồ của nhà lão. Đây là đồ của hai cô nương ở trọ…”.
“Cút!” Nam nhân hung hãn đá bay đại thúc xuống đất, hằn học, “Trong nhà ngươi lại không phải đồ của ngươi? Lão tử nói cho ngươi biết, những thứ này miễn cưỡng coi như phần của hôm nay. Hai ngày nữa, nếu các ngươi vẫn không chịu nộp, ta sẽ một mồi lửa thêu trụi ngôi nhà này!”.
Ôm lấy tay nải của Sính Đình và Túy Cúc, đám người hùng hổ, nghênh ngang rời khỏi.
Thấy chúng đi qua tảng đá lớn, Sính Đình và Túy Cúc vội rụt đầu, đợi chúng khuất bóng, rồi mới ngó ra nhìn theo.
“Đám tiểu nhân độc địa xấu xa”, Túy Cúc mắng, “Đâu đâu cũng có những tên khốn kiếp thế này. Ở Đông Lâm ta cũng thường gặp chúng, gặp quan trên hay người quyền thế thì như chó cụp đuôi, gặp người nghèo thì hung dữ như loài lang sói. Chúng mà gặp phải sư phụ, chắc chắn sẽ bị dạy dỗ một trận”.
Thấy đám người đã đi khuất, Sính Đình khẽ nói: “Có cách gì chứ? Những ngày này ta luôn hối hận, học đàn, học múa đâu có ích gì, lẽ ra phải học chút võ nghệ kiếm thuật, giữa đường gặp chuyện bất bình còn ra tay cứu giúp. Đáng tiếc, ta lại là kẻ vô dụng, không giúp nổi bản thân thì sao cứu được người khác?”.
Túy Cúc không bằng lòng: “Chẳng phải gần đây cô nương rất giỏi đó ư? Sao giờ bỗng lo được lo mất như thế? Thiên hạ liệu được mấy người tài cán hơn cô nương?”. Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng Túy Cúc bỗng nhớ đến Vương gia. Đúng là, nữ nhân dù thông minh đến mức nào cũng thấy sợ hãi khi phải đối diện với kẻ địch. Nếu Vương gia ở bên, Vương gia tất sẽ che chở mọi bề, không để kẻ nào làm tổn thương đến Bạch cô nương dù chỉ một sợi tóc.
Không có người bảo vệ, thì phải tự bảo vệ mình. Phía su tảng đá, hai người cùng đứng lên. Vì đứng dậy quá nhanh, Sính Đình bỗng thấy đầu óc quay cuồng, bước chân lảo đảo, cánh tay run rẩy.
“Cô nương cẩn thận!”, Túy Cúc lo lắng, đưa tay ra đỡ.
“Không sao.” Sính Đình thuận miệng đáp, cảm thấy đã đứng vững, nhưng vừa nhấc chân lên, trời đất lại như quay cuồng, nàng không thể tiếp tục đứng vững như trước, đôi chân khuỵu xuống. Túy Cúc cũng vừa đứng dậy, còn chưa kịp đứng vững, nên chẳng kịp đỡ. Túy Cúc kêu lên kinh hãi, đã bị cả người Sính Đình đổ vào, ngã theo, đầu gối va vào tảng đá bên cạnh, đau nhói.
Đau, nhưng Túy Cúc vẫn bò dậy, không để ý đến vết thương của mình mà đỡ lấy Sính Đình, giọng gấp gáp: “Cô nương sao thế? Có va vào đâu không?”.
Sính Đình ngã đến u mê, được Túy Cúc đỡ dậy, mới cảm thấy đầu óc tỉnh hơn một chút, lắc đầu: “Không sao”. Nghĩ lại, hình như lúc bị ngã đã va vào đâu, nhưng nàng không biết rõ đau chỗ nào.
“Có va vào đâu không?”
“Không”, Sính Đình xua tay, lắc đầu.
Túy Cúc thở phào một hơi: “Làm Túy Cúc hết hồn. Chúng ta về thôi”.
Hai người về đến gian nhà nhỏ, mọi thứ đều bị lục tung, đồ đạc mỗi thứ một nơi. Đại thúc câm thẫn thờ ngồi ở góc nhà. Đại nương đang khóc, thấy Sính Đình và Túy Cúc thì không khóc nữa, ngẩng đầu, ấp úng khó nói thành lời, “Cô nương, tay nải của các cô nương…”.
“Tiểu nữ biết cả rồi, không thể trách đại nương và đại thúc được. Hơn nữa, bên trong cũng chẳng có gì”, Sính Đình dịu dàng khuyên nhủ, hai lão nhân cũng đỡ buồn bã phần nào.
Xếp lại đồ đạc, thu dọn nhà cửa, đến khi mệt rũ, mọi người mới vào phòng đi ngủ.
Nghĩ đến chút ít lộ phí cũng không còn, ngay cả y phục để thay cũng mất hết, hai người không khỏi bàng hoàng, cũng không khỏi cảm thấy nực cười.
“Lộ phí và y phục chỉ là chuyện nhỏ, mạng người mới là quan trọng. Tiền cũng không phải không kiếm được, chỉ cần dọc đường chúng ta chịu khó thăm bệnh cho người ta”, vừa nói, Túy Cúc vừa ra hiệu cho Sính Đình nằm xuống giường, “Cô nương giơ tay ra đi”.
Túy Cúc nhẹ nhàng đặt hai ngón tay lên cổ tay Sính Đình, tĩnh tâm lắng nghe, bỗng nhìn Sính Đình với vẻ nghi ngờ: “Cô nương thấy khó chịu chỗ nào?”.
“Sao? Thai nhi không khỏe ư?”, Sính Đình kinh hãi.
“Cô nương có thấy khó chịu chỗ nào không?”
“Không.”
Túy Cúc nói: “Để Túy Cúc nghe lại xem”. Nghiêng đầu tiếp tục nghe ngóng một hồi, Túy Cúc cau mày, “Mạch tượng có chút kỳ quái, hay do lúc tối cô nương ra ngoài bị lạnh? Thật là, đã bảo cô nương không nên tìm Túy Cúc. Nằm im, đừng cử động lung tung”. Nói xong, Túy Cúc xách làn ra ngoài.
Sính Đình lo cho sự an nguy của hài nhi trong bụng nên nghe lời nằm im. Cơn buồn ngủ kéo đến, trước mắt bỗng trở nên mơ hồ, ánh sáng dần biến mất, bóng tối bao trùm. Nơi cuối cùng của bóng đen, dường như lại xuất hiện một luồng sáng hiền hòa dịu dàng đang lay động.
Đang thiu thiu chợp mắt, bỗng có ai vỗ nhẹ vai nàng. Sính Đình mở choàng mắt, thấy Túy Cúc bê bát thuốc nóng ngồi đầu giường, vừa thổi, vừa dịu dàng nói: “Uống thuốc xong hãy ngủ. Bọn thuế quan độc ác đó lấy cả thảo dược của chúng ta, may hôm nay hái được thảo dược mới”.
Đợi Sính Đình chịu đắng uống thuốc, Túy Cúc mới dọn bát, thổi nến, rồi cùng đi ngủ.
Vất vả một ngày đường, lại lên núi hái thuốc, rồi gặp bao chuyện bất ngờ, Túy Cúc còn mệt hơn cả Sính Đình, vừa đặt lưng xuống giường đã chìm vào mộng mị. Trong giấc mơ, Túy Cúc lại được thấy gương mặt nghiêm túc của sư phụ, nhưng đôi mắt thì vẫn cười hiền từ như thế. Một lúc sau, dường như Túy Cúc quay về vườn mai trong biệt viện ẩn cư, một khuôn mặt hoảng hốt đang ở ngay trước mắt, thẫn thờ nhìn vầng trăng sáng. Hết giấc mộng này đến cơn mơ khác, ly kỳ cổ quái, lan tỏa dư vị ấm áp. Giống như bao con đường đang trải ra trước mắt, và Túy Cúc biết, ở tận cùng mỗi con đường đều có những điều tốt đẹp chờ đợi mình.
Đang lúc mộng đẹp, một cơn đau từ đâu đến. Túy Cúc cố giãy giụa, hình như là đau tay, lại tựa như đau chân, cơn đau dần dần như từ đáy ao trồi lên mặt nước, kéo nàng ra khỏi mộng cảnh.
Mở choàng mắt, lại thấy một cơn đau nữa, cuối cùng Túy Cúc cũng tỉnh hẳn, thấy cổ tay mình đang bị ai đó nắm chặt đến đau điếng.
“Túy Cúc… Túy Cúc…”, tiếng rên rỉ của Sính Đình trong đêm đen vô cùng đau đớn.
Túy Cúc kinh hãi ngồi hẳn dậy, dưới ánh trăng, hai hàng mày thanh tú của Sính Đình đang nhíu chặt, móng tay cắm vào cổ tay Túy Cúc.
“Cô nương sao thế?”
“Đau quá”, Sính Đình ôm bụng, từng giọt mồ hôi to như hạt đậu lăn trên trán, rơi xuống gối.
“Túy Cúc ở đây, đừng sợ.” Hết sức hoảng hốt, giọng trở nên run rẩy, Túy Cúc dò dẫm tìm bàn tay Sính Đình, yên lặng nghe ngóng một lúc, sắc mặt bỗng trắng bệch, “Kim của Túy Cúc đâu?”. Vội vã đi tìm, chợt nhớ ra tay nải bị bọn người kia mang đi rồi, Túy Cúc chẳng kịp khoác áo ngoài, tức tốc chạy tới phòng đại nương, đập cửa ầm ầm, hét gọi: “Đại nương! Đại nương!”.
“Có việc gì vậy, cô nương?”
Túy Cúc nắm chặt tay đại nương: “Kim bạc! Đại nương có kim bạc không?”.
Vừa bị gọi dậy, đại nương vẫn chưa tỉnh hẳn: “Người nghèo lấy đâu ra kim bạc?”.
“Vậy, vậy… kim thường? Kim thêu hoa?”, Túy Cúc lo đến phát khóc.
“Kim khâu y phục lão cũng có một cái. Các cô nương…”
“Đừng hỏi nữa, mau cho tiểu nữ mượn!” Túy Cúc cầm cây kim vội vã về phòng, châm nến.
Dưới ánh sáng mờ mờ, sắc mặt Sính Đình vàng như nến, mồ hôi đầm đìa, thấm ướt gối. Thấy Túy Cúc quay lại, Sính Đình nén cơn đau, yếu ớt hỏi từng tiếng: “Sao thế?”.
“Không sao.” Túy Cúc vội vàng hơ cây kim trên ngọn lửa, trả lời: “Chỉ châm cứu chút là khỏi, cô nương đừng sợ”. Giọng Túy Cúc chắc chắn, nhưng bàn tay run rẩy. Thấy cây kim đã nung đỏ mà vẫn không nóng, Túy Cúc sờ thử mũi kim rồi đến bên giường, nhẹ giọng dỗ dành: “Đừng lo, châm cứu xong sẽ không đau nữa”. Túy Cúc bảo Sính Đình nằm im, nhẹ nhàng nới lỏng áo trong của nàng.
Bụng đau từng cơn, như có con ngựa đang điên cuồng phi bên trong, cố gắng thế nào Sính Đình cũng không chịu nổi những cơn đau đang cuộn lên ấy. Thấy Túy Cúc vê kim, định châm xuống bụng dưới của mình, không biết Sính Đình lấy đâu ra sức ngồi bật dậy, ngăn Túy Cúc lại: “Ngươi không làm hại hài nhi của ta chứ?”.
Túy Cúc chẳng chút do dự: “Không đâu, tin Túy Cúc”.
Nghe vậy, Sính Đình mới chịu buông tay ra. Chẳng còn sức lực nên vừa buông tay, nàng đã đổ xuống giường, mái tóc bết mồ hôi, xõa tung trên gối. Sính Đình nhắm mắt, cảm thấy bụng mình ấm lên từng cơn, hình như Túy Cúc châm liên tiếp đến vài chỗ. Bất chợt cơn đau lại ập đến.
“A!” Sính Đình kêu lên thảm thiết, cuộn người như con tôm, giãy giụa, một lúc sau mới đỡ. Nàng cau mày cảm nhận, sau khi trào lên, cơn đau dần dần rút theo lối cũ.
“Đỡ hơn chút nào chưa?” Bên tai Sính Đình vang giọng nói của Túy Cúc, rất đỗi xa xôi.
Hồi lâu, Sính Đình mới chậm rãi nói được một tiếng: “Ừ…”.
Mồ hôi đầm đìa, nghe lời đáp của Sính Đình, Túy Cúc mới đặt cây kim trong tay xuống, ngồi phịch xuống như đã kiệt sức.
“Hài nhi… không sao chứ?”
Túy Cúc nói: “Túy Cúc nói rồi, cô nương thể trạng yếu, đừng có quá sức. Ai…”.
“Túy Cúc?”
“Cô nương cứ nằm đó, hài nhi không sao.” Túy Cúc ngẩng lên thấy đại nương đang đứng thập thò ngoài cửa, vội chạy ra, xin lỗi, “Làm đại nương và đại thúc tỉnh giấc, thật ngại quá”.
“Cô nương…”
“Tẩu tẩu bị bệnh.”
“À”, đại nương lo lắng nhìn vào bên trong, hỏi nhỏ, “Đã đỡ chút nào chưa?”.
“Đỡ nhiều rồi. Đại nương đi ngủ đi, không sao đâu.”
Khuyên đại nương đi nghỉ xong, Túy Cúc quay lại giường, ngồi xuống nói với Sính Đình: “Không thể đi tiếp được. Cô nương phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày”.
Một lúc lâu vẫn chẳng thấy Sính Đình lên tiếng.
“Không thể ở lại đây, sớm mai phải đi ngay. Đám người kia mang theo tay nải của chúng ta, sao biết được đồ ấy sẽ rơi vào tay ai?” Vừa mất sức, Sính Đình giọng thều thào, “Ngộ nhỡ bọn chúng đuổi đến, lúc đó chúng ta muốn đi cũng chẳng được”.
Túy Cúc thở dài.
Sính Định lại hỏi: “Ta bị sao? Có việc gì, ngươi đừng giấu ta”.
Túy Cúc vừa buồn vừa đau lòng, giọng nấc nghẹn: “Cô nương còn không hiểu bản thân mình sao? Vốn thể trạng đã không tốt, suốt chặng đường lại ham tâm tổn sức, liệu cô nương có chịu được không? Nhất định phải nghĩ cách kiếm mấy loại dược liệu thượng hạng, nhân sâm lâu năm hay linh chi đủ tuổi cũng được”.
Sính Đình đầm đìa mồ hôi, bụng đã không còn đau, nhưng lại cảm thấy lạnh. Nàng khẽ kéo chăn đắp lên người, mỉm cười nói: “Ta nghe lời ngươi, sau khi rời khỏi đây sẽ không đi vội nữa, mà cố gắng tĩnh dưỡng. Ngươi hà cớ phải khóc?”.
Túy Cúc lau nước mắt, đáp: “Giờ nghĩ lại càng thấy hận Vương gia. Đã là người thân yêu nhất trong lòng thì phải biết quý trọng, sao lại để cô nương lưu lạc đến bước này? Ngàn cái sai vạn cái sai, đều là của Vương gia!”.
Không ngờ Túy Cúc bỗng nhiên nhắc đến Sở Bắc Tiệp, Sính Đình sững sờ, muốn chê Túy Cúc tính khí trẻ con, nhưng lại thấy từng lời ấy đều đúng với suy nghĩ trong lòng mình. Nàng đã dành trọn tâm huyết cho Sở Bắc Tiệp, để rồi nhận lấy kết cục này, phụ tất cả ước muốn thuở ban đầu. Cuộc đấu tranh giữa tình cảm và nghĩa nặng quốc gia trước nay chưa từng có kết cục hay.
Sính Đình mơ hồ cảm nhận được, nhưng không đủ bản lĩnh để ngăn cản sự việc tiếp diễn đến bước này.
“Bỏ đi”, Sính Đình thở dài buồn bã, nhắm mắt lại, “Đừng hao tâm tổn sức vào con người đó nữa, chỉ rước khổ vào thân”. Nói xong, nàng dịu dàng xoa bụng. Vì mặc áo rộng nên người ngoài không phát hiện, nhưng khi xoa bụng, nàng đã thấy bụng mình bắt đầu nhô ra.
Hài nhi của ta, đừng dính đến tình thù quốc gia. Đạo nghĩa là một thước đo, nhưng sau cùng sẽ biến thành ổ khóa nặng nề giam giữ trái tim con, bịt kín đôi mắt con.
Hài nhi của ta, đừng giống phụ thân con, cũng đừng giống mẫu thân. Yêu cũng thế, hận cũng thế, nhưng đừng quên thuở ban đầu.
Thuở ban đầu, tại sao ngươi lại yêu, tại sao ngươi lại hận?
Đừng quên.
Khói lửa mù mịt cuộn trên bình nguyên, lan tới tận chân trời, bốc lên ngùn ngụt như đang ngạo nghễ báo với nhân gian, đại chiến đã cận kề.
Cờ bay che lấp mặt trời, trống trận dồn vang.
Tiếng tù và từ xa vọng tới cũng chẳng thể che nổi một phần thê lương trong làn nắng sớm.
Nhìn ra xa, bình nguyên dày đặc những đầu người đội mũ sắt cao lêu nghêu, ánh sáng lóa của hàng ngàn hàng vạn thanh đao kiếm chĩa về phía chân trời, đoàn kỵ binh của đại quân Đông Lâm rầm rập khí thế.
Sở Bắc Tiệp oai hùng trên lưng tuấn mã, sừng sững nơi tiền tuyến. Cờ Trấn Bắc vương phần phật bay trên đầu, những hình thù hung hãn, dữ tợn trên đó như muốn nuốt lấy hồn phách kẻ thù.
Trên sườn núi đối diện, sắc cờ khác cũng tung bay trong gió, một đội quân hùng hậu kéo dài đến tận chân trời.
Vân Thường, quốc gia vẫn nghỉ ngơi dưỡng sức, ẩn mình không lộ, giờ đã tích đủ sức mạnh, có một quân lực không thể coi thường.
Sở Bắc Tiệp nheo mắt, nhìn bóng dáng anh tuấn đầy tự tin nơi tiền tuyến địch, chủ soái của đại quân Vân Thường.
Chàng còn nhớ, trên con đường ruột dê ngày ấy, kẻ dẫn theo phục binh lặng lẽ hiện thân trên vách đá với nụ cười ung dung, chính là người này.
Tiểu Kính An vương ngày trước, phò mã Vân Thường bây giờ.
Đó chính là nam nhân cướp Sính Đình khỏi tay chàng!
Cuồng phong xuyên qua hai trận tuyến bỗng nhiên im bặt, như đang lo sợ nơi này sắp biến thành chiến trường tàn khốc. Cờ xí rợp trời cũng rủ xuống vì thiếu gió.
Yên ắng đến bất ngờ khiến trận địa càng thêm căng thẳng. Hàng chục vạn binh lính cùng chiến mã sừng sững giữa bình nguyên, im lìm như những nấm mồ.
Sở Bắc Tiệp lặng lẽ nhìn Hà Hiệp. Cách xa như vậy, nhưng chàng vẫn cảm nhận được ánh mắt của đối phương dành cho mình, lạnh lùng và sắc bén.
Chính nam nhân kia đã cướp đoạt Sính Đình đang mang trong mình cốt nhục của chàng. Bàn tay Sở Bắc Tiệp lặng lẽ đặt lên cán kiếm.
Rút kiếm xung phong, tiến thẳng về phía trước, chỉ cái chết mới có thể ngăn chàng lại.
Đứng cạnh Sở Bắc Tiệp, cũng như các đại tướng khác, Thần Mâu bỗng thấy lòng bàn tay mình toát mồ hôi lạnh. Mọi người đều biết rõ, chỉ cần Sở Bắc Tiệp rút kiếm ra khỏi bao, thiên quân vạn mã sẽ ầm ầm xông tới, máu chảy thành sông.
Vì một người.
Chỉ vì một nữ nhân.
Bạch Sính Đình, tứ quốc sẽ mãi nhớ về cái tên này.
Ánh mắt mọi người nhất loạt dồn về bàn tay Sở Bắc Tiệp. Mười vạn quân sẽ lập tức xông lên theo cánh tay vung kiếm.
Bầu không khí như bị những hơi thở căng thẳng vê thành từng sợi, tựa như dây đàn bị kéo căng, khoảng đất trống giữa hai quân đang dần thu hẹp lại.
Trong không gian tĩnh lặng đến ngạt thở, bỗng vang lên tiếng vó ngựa.
Tuấn mã phi nước đại.
Trên dốc núi phía nam, mấy bóng người bỗng xuất hiện trong nắng sớm, bất chấp hậu quả tiến thẳng vào khoảng đất trống giữa hai quân, giống như bức tranh sơn dầu đang bị cháy, có ai đó cầm đao nhẹ nhàng xẹt qua; giống như trên bức tranh thê lương chợt thêm một nét xuân, quái dị và hoàn toàn không ăn khớp với toàn cảnh.
“Vương kỳ Vân Thường?”, Thần Mâu lẩm bẩm như chẳng dám tin.
Thị lực hơn người, Sở Bắc Tiệp đã sớm nhận ra dòng chữ to in trên lá cờ.
Kỵ binh đầu tiên xông đến mảnh đất trống ghìm dây cương trước mặt Sở Bắc Tiệp, chắp tay, giọng sang sảng: “Vị tướng quân này chính là Đông Lâm Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp?”.
“Bản vương Sở Bắc Tiệp. Ngươi là ai?”, Sở Bắc Tiệp trầm giọng hỏi.
“Tại hạ Dung An, trưởng thị vệ vương cung Vân Thường. Chủ nhân Diệu Thiên công chúa của tại hạ có lời thỉnh cầu gặp mặt Vương gia.”
“Đại chiến cận kề, Diệu Thiên công chúa hiện đang ở nơi nào?”
“Ở đằng kia.” Dung An chỉ tay về phía sau.
Mọi ánh mắt đổ dồn về phía xa. Trên sườn núi, chiếc xe ngựa hoa lệ xuất hiện trong ánh nắng ban mai, chạy như bay về phía mảnh đất trống giữa hai quân.
Trái tim Sở Bắc Tiệp bỗng như có muôn vàn sợi dây vô hình thắt chặt, chút run rẩy thoáng qua trong sâu thẳm đáy lòng.
Ngoài Sính Đình, liệu nàng ta còn con bài nào để giảng hòa? Trước khi đại quân lâm trận, Công chúa vội vã đến đây mà không sang với binh mã Hà Hiệp thống lĩnh, chắc chắn có liên quan đến Sính Đình.
Trái tim vốn lạnh lùng của chàng bỗng như có ngọn lửa thiêu đốt, nỗi xúc động nhất thời ào tới.
Xe ngựa càng lúc càng gần, rõ ràng đại quân đối phương cũng nhận ra vương kỳ trên xe ngựa, nên cực kỳ chấn động.
Dung An giục ngựa về cạnh Công chúa, cúi người bên cửa sổ xe nhận chỉ thị một hồi, rồi thúc ngựa quay lại: “Công chúa mời Vương gia đến bên xe một lúc”.
Xe ngựa đỗ trên mảnh đất trống. Bốn con tuấn mã mình đầy tuyết trắng dừng bước cúi đầu. Như nhận được lệnh của người trong xe, phu xe tự giác nhảy xuống rời đi, đứng cách đó chừng trăm bước, khoanh tay đợi lệnh.
Thần Mâu cảnh giác: “Vương gia cẩn thận, Hà Hiệp quỷ kế đa đoan, cẩn thận trúng mai phục”.
Sở Bắc Tiệp cười gằn: “Mỗi người một xe ngựa, dù bên trong có chất đầy người cũng không chống nổi bảo kiếp trong tay bản vương”.
Thúc ngựa tiến đến, Sở Bắc Tiệp ung dung hỏi: “Trong xe có phải Diệu Thiên công chúa của Vân Thường? Đông Lâm Sở Bắc Tiệp ở đây, Công chúa có chuyện gì muốn nói?”.
Diệu Thiên vén rèm, ngước mắt nhìn lên. Thấy Sở Bắc Tiệp cưỡi trên tuấn mã, uy phong lẫm liệt, khí thế hơn người, trong lòng thầm cảm thán, nàng dịu giọng: “Diệu Thiên nhận ủy thác của người khác, có bức thư muốn giao cho Vương gia”.
“Chỉ có thư?” Đôi đồng tử của Sở Bắc Tiệp khẽ co lại, không khí xung quanh bỗng chốc băng lạnh, “Người ở đâu?”.
“Người đã không còn ở Vân Thường ta”, Diệu Thiên đáp, “Vương gia đọc thư, tất sẽ biết”.
Ánh mắt Sở Bắc Tiệp càng trở nên lạnh lùng, cách một tấm rèm che cũng khiến Diệu Thiên rùng mình. Chàng nói: “Công chúa xem nhẹ bản vương rồi. Đại quân Đông Lâm lặn lội đường xa tới đây để đòi người về. Vân Thường không trả người, chỉ dựa vào một bức thư mà muốn bản vương lui binh? Đâu có chuyện dễ dàng như thế! Bản vương nói trước, nàng có bị làm sao, bản vương thề sẽ lấy máu tươi nhuộm đỏ vương cung Vân Thường”.
Diệu Thiên im lặng ngồi trong xe ngựa, hồi lâu mới thở dài buồn bã: “Từ lâu đã nghe danh Trấn Bắc vương là bậc anh hùng có kiến thức sâu rộng, Diệu Thiên muốn được thỉnh giáo Trấn Bắc vương vài câu”.
Định phất áo đi, nhưng nghĩ lại, việc này liên quan đến Sính Đình, không thể sơ suất, Sở Bắc Tiệp lại ghìm ngựa: “Công chúa cứ hỏi”.
Diệu Thiên đáp: “Xin hỏi Vương gia, lần này dẫn binh đại chiến, có phải chỉ vì mình Bạch Sính Đình?”.
“Đúng thế.”
“Vậy thì Đông Lâm vương sẽ không đồng ý.”
Sở Bắc Tiệp lạnh lùng: “Đây là chuyện nội bộ của Đông Lâm ta, không liên quan đến Công chúa”.
“Chuyện giữa Vương gia và Bạch cô nương hình như cũng bị cuốn vào hận nước thù nhà. Quốc nặng hay tình sâu? Liệu có phải từ bỏ hạnh phúc cá nhân để phụng sự quốc gia? Đây vẫn luôn là vấn đề vô cùng tàn nhẫn.”
“Công chúa muốn nói những chuyện này với bản vương sao?”
Diệu Thiên thở dài: “Luân lý đạo đức luôn bị đặt chung một chỗ, nhưng thực ra chúng không hoàn toàn tương đồng. Đạo đức xuất phát từ nội tâm, luân lý xuất phát từ đạo đức. Thế là từ đó con người bắt đầu mê muội tin vào giáo điều đạo lý, để rồi không thể tự do nghe theo tiếng lòng mình. Cái gọi là đại nghĩa quốc gia, xả thân vì đất nước, nếu không phải do thực tâm tình nguyện, không xuất phát từ nội tâm mà chỉ là điều bị kìm kẹp trong luân lý thì thật đáng tiếc biết bao. Vương gia bỏ Sính Đình để chọn lấy đại nghĩa quốc gia mà lỡ hẹn mồng Sáu, há chẳng phải cũng vì thế?”.
Sở Bắc Tiệp ban đầu còn thờ ơ, nhưng càng nghe càng xúc động, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc: “Công chúa cứ nói”.
“Thực ra quốc gia và cá nhân bên nào nặng bên nào nhẹ, không hoàn toàn nằm ở việc lựa chọn”, ngừng một chút, Diệu Thiên khoan thai nói tiếp, “Vương gia đã bao giờ nghĩ, các bậc tiền nhân thời trước vì muốn sống tốt hơn, muốn được hạnh phúc nên đã quyết định đoàn kết với nhau, cùng chống giặc ngoại xâm, chống ách xâm lược. Từ đó mới có quốc gia. Gốc của quốc gia, trước nay chính là con người. Một quốc gia được bảo toàn bằng cách cướp đi hạnh phúc của người khác, liệu có nên tồn tại? Một nam nhân chỉ biết bảo toàn quốc gia mà không trân trọng hạnh phúc thì có gì đáng phải lưu luyến?”.
Sở Bắc Tiệp thực sự chấn động, nắm chặt dây cương, nghe Diệu Thiên từ tốn: “Như lúc này đây, một tướng quân vì hạnh phúc của mình mà coi nhẹ tính mạng của hàng vạn binh sĩ, nhẫn tâm cướp đoạt hạnh phúc của người khác, sao có thể là bậc anh hùng Bạch Sính Đình thực sự yêu thương? Vương gia ngẫm xem, những tướng sĩ sau lưng Vương gia liệu có thật sự cam tâm tình nguyện vì một nữ nhân mà đánh trận này?”.
Diệu Thiên thở dài, hạ giọng: “Điều Bạch Sính Đình cần là Vương gia hãy mở to mắt, nhìn thật rõ chốn nhân gian điều gì là đáng quý, đáng trọng, nhìn cho rõ dù dân thường cũng cần có tự do và chí hướng, cần được hưởng hạnh phúc thuộc về mình”.
Sở Bắc Tiệp cắn chặt răng, hồi lâu không nói.
Dưới ánh bình minh, nụ cười của Sính Đình dịu dàng như nước, hòa với năm sông bốn biển, biến mất không còn tung tích.
Gốc của quốc gia trước nay chính là con người. Nếu không cam tâm tình nguyện, xuất phát tự đáy lòng, hà tất phải ép bản thân hy sinh điều mình không muốn mất đi, để đổi lấy danh tiếng vì quốc gia?
Quốc gia và cá nhân không cần chọn lựa mà là một thể. Nghe theo tiếng lòng, yêu là yêu, hận là hận mới đúng là bậc anh hùng.
Sở Bắc Tiệp bỗng nhiên ngẩng đầu, mỉm cười với trời, nước mắt lăn trên gò má, hạ giọng: “Đa tạ Công chúa chỉ giáo”.
Một bức thư được chậm rãi đưa qua tấm rèm xe.
“Diệu Thiên hiểu biết nông cạn, sao có được bản lĩnh này. Những điều vừa nói đều là lời trong thư của Bạch cô nương.”
Sở Bắc Tiệp xuống ngựa, giơ hai tay đón bức thư như đón một hài nhi vừa lọt lòng, cảm xúc trào dâng: “Đa tạ Công chúa. Bản vương xin hứa với Công chúa, đại quân Đông Lâm lập tức rút quân”.
Không ngờ Sở Bắc Tiệp lại sảng khoái mà dứt khoát đến thế, Diệu Thiên ngạc nhiên, hỏi lại: “Chẳng lẽ Vương gia không sợ bức thư này là giả, Bạch cô nương vẫn bị giam lỏng?”.
Sở Bắc Tiệp cười đáp: “Nếu không chắc chắn, Sính Đình sao có thể viết bức thư này đưa Công chúa mang đến đây? Nét chữ có thể giả mạo, nhưng ngôn từ ý tứ trong đó liệu giả mạo được chăng?”. Nói xong, Sở Bắc Tiệp thúc ngựa quay về trận địa.
Thần Mâu đợi đến sốt ruột, vội vã tiến đến, hỏi: “Vương gia, rốt cuộc Công chúa Vân Thường đã nói những gì?”.
“Rút quân.”
“Sao?”
Sở Bắc Tiệp cười lên một tràng: “Rút quân! Chúng ta không đánh trận nữa”.
Quần tướng ngạc nhiên, nhưng vô cùng mừng rỡ. Có người hỏi: “Thế Vương phi đâu?”.
“Bản vương sẽ đi tìm”, Sở Bắc Tiệp nhìn về phía chân trời, ánh mắt kiên định, “Dù ở chân trời góc biển, nhất định ta sẽ tìm thấy nàng”.
Trời đã đoái thương ban cho ta Sính Đình. Dù nàng có cánh bay lên trời, Sở Bắc Tiệp cũng nguyện đuổi theo, đến tận cùng thế gian. Từ nay trở đi, yêu thứ ta yêu, hận điều ta hận.
Hiểu rõ bản thân cần có gì, hiểu rõ bản thân cần làm gì.
Hiểu rõ mọi hy sinh đều có giá trị. Những thứ cần quý trọng phải được quý trọng; cần quyết đoán phải quyết đoán.
Hiểu rõ quốc và gia, gia và nhân vốn chỉ là một thể. Người biết cách yêu thương, biết cách trân trọng mới có thể hưng vượng quốc gia, giống như phải có máu chảy trong người, mới có thể cất cao đôi cánh, giương lên chí khí hiên ngang.
Sính Đình, ta đang nghe tiếng lòng mình. Nó nói với ta rằng, đời đời kiếp kiếp không muốn rời xa nàng. Dù đất trời sụp đổ, dù biển cạn đá mòn, tình này vẫn không thay đổi.
“Rút quân!”
“Rút! Rút!”
Đại quân Đông Lâm nhanh chóng lui binh, trận chiến đã được hóa giải ở thời khắc cuối cùng.
Sở Bắc Tiệp nhìn về phía chân trời, vẫn chẳng thấy bóng dáng thân thuộc ấy. Nhưng nhất định chàng sẽ tìm thấy nàng, yêu thương bảo vệ nàng, cùng nàng đánh đàn dưới trăng, ngắm sao trong tuyết.
Chàng sẽ cùng nàng ngắm hài nhi dần trưởng thành, dặn hài nhi luôn ghi nhớ, đạo đức xuất phát từ trái tim, lắng nghe tiếng lòng mới không bị lóa mắt trước thế tục mà lầm đường lạc lối, rơi vào xiềng xích, dạy hài nhi biết, con người có sự tôn nghiêm, có chí hướng và có tự do hạnh phúc của riêng mình.
Điều này không thể dùng quốc gia hay đại nghĩa mà giành lấy.
Gốc của quốc gia trước nay vẫn là con người.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.