Công Chúa Chăn Ngỗng - Câu Chuyện Về Vùng Đất Bayern

Chương 11:




Ánh nắng ban mai xuyên qua làn mưa, mang đến sự trong lành tinh khôi cho không khí và len lỏi thấm vào mắt, vào da một cách đến là sốt ruột. Ani mặc chiếc áo màu cam và váy hồng, đội chiếc mũ với mảnh ruy băng màu cam, cảm giác mình giống như những con tắc kè hay giống ếch đủ sắc rực rỡ những người đàn ông vẫn hay mang bán ở chợ phiên.
Razo nói rằng nếu liếm vào miếng thịt ếch tươi, cô sẽ thấy những màu sắc óng ánh hệt như da của chúng. Vương quốc này thật là kỳ lạ! Cô nghĩ về những con tắc kè và những thương gia, không khí tươi mát của ngày sau mưa như đã giúp tâm hồn cô trở nên trong lành hơn, tránh được những nỗi nhớ u ám. Mình đang đi vào một cái bẫy, cô nghĩ. Nhưng cô không muốn chờ đợi mãi trong sự an toàn. Cô muốn tìm đến đức vua. Cô phải tìm mọi cách để gặp đức vua trong ngày nghỉ hiếm hoi như hôm nay.
Cung điện hiện ra giống như một con quái vật nặng nề trong cái bóng của buổi sáng, sừng sững hơn bao giờ hết, rộng lớn xa hoa, tinh xảo đến từng chi tiết và cầu kỳ đến chóng mặt khi cô đến gần, nhìn thấy những tia nắng long lanh rọi lên từng phiến đá của nó. Đã có một hàng những người thương lái xếp ngoằn ngoèo gần cánh cổng hoàng cung. Ani dừng lại sau người cuối cùng, như cô vẫn làm trong ngày này tháng trước, nhưng khi dòng người dịch chuyển về phía trước, cô lại nhích dần đến phía trong bức tường cung điện. Cô vượt qua vài người lính canh, đi dọc theo cái bóng lạnh cóng của bức tường. Họ gật đầu chào cô vì cảm thấy một cô gái chăn ngỗng của hoàng gia cũng giống một người làm thuê như họ. Cô gật đầu chào lại và bắt đầu mỉm cười với sự đột phá mới lạ này khi đến được gần chuồng ngựa.
Những cánh đồng cỏ dành cho ngựa nằm ở phía sau đồi cung điện, dài và rộng thênh thang. Gần đó, vườn ngự uyển nằm ở phía đông cung điện cuốn hút mọi ánh nhìn với nhũng đóa hồng mùa thu khoe sắc rực rỡ và những đài phun nước bằng đá cẩm thạch màu xanh, những dải dây leo óng mượt treo trên cây như thể cô hầu gái đang hơng khô bím tóc dài trên ngọn lửa. Nhưng trong mắt Ani, chỉ có những con ngựa trên mặt đất mới đẹp hơn cả. Ani chạy rón rén đến chuồng ngựa gần nhất và cúi đầu thấp xuống. Một nguôi giữ ngựa đi ngang qua cô nhưng mắt đang chăm chăm mãi tận đâu đâu. Cô chạy bộ xuống tòa nhà tiếp theo, không có người giữ ngựa nào và chuồng đã gần như trống rỗng. Cô kiểm tra từng cái một, gọi lớn “Falada, Falada” trong tâm trí mình. Có một con ngựa trắng đang ngủ nhưng nó không phải là con ngựa của cô. Ani thở dài thất vọng, định kết thúc việc tìm kiếm thì một giọng nói quen thuộc chợt thốt lên làm cô đông cứng người ngay tại chỗ.
Ani lập tức cúi gập người xuống sau những đống rơm, nín thở. Hai gã đàn ông đã rảo bước cách xa cô một quãng, nhưng giọng nói của hắn ta vẫn vang vọng trên mái nhà cao và cô có thể nghe rất rõ ngữ điệu của người Kildenree.
“Nghe tôi nói này, trước đây chính Ungolad đã sắp đặt để anh đi trước. Không có thời gian cho những trò đùa đâu. Anh hiểu không...”.
“Chúng ta đang ở đây, và tôi có thấy chuyện ồn ào, nguy hiểm nào đâu!”.
“Anh thật là một kẻ tự mãn ngu ngốc”.
Tiếng gã thứ nhất vang lên bực dọc. Bây giờ, Ani đã biết hắn là ai. Đó là một trong những hộ vệ của cô trước đây, một người lính thuộc phe Ungolad, một gã với mái tóc xoăn tên là Terne.
“Tất cả vẫn chưa chấm dứt đâu. Đám cưới phải diễn ra đã. Và đừng quên chúng ta có kẻ mạo danh đang ẩn nấp đâu đó trong rừng. Chắc chắn phải bịt miệng cô ta. Có phải anh đã quên rằng chúng ta vẫn còn có một vương quốc, nơi sẽ gửi đến những sứ giả để thăm hỏi công chúa và vô vàn những phiền toái khác nữa không? Chủ nhân của hai kế hoạch đã thỏa thuận với nhau rằng điều đó không được tiếp diễn nữa!”.
“Nhưng tôi chẳng hiểu tại sao tất cả chúng ta vẫn lén lút chi hoài ở đây, không đi đâu đó tìm lấy niềm vui? Tôi thấy mình giống một con gà trong cái chuồng chật hẹp và Ungolad đang kiểm tra những quả trứng tươi dưới mình tôi”.
Có tiếng động của một vụ xô xát nhỏ vang lên. Sau đó thì gã đàn ông thứ hai yên lặng.
“Nhìn đây!”, Teme nói, âm thanh bật ra khi hắn nghiến chặt hai hàm răng. “Anh đang muốn đùa hử? Đó có phải là những gì anh muốn không? Tôi nói để anh tỉnh táo lại đây! Anh đã chọn một bên và đứng về phía nó, anh hiểu không?”.
Cuộc thảo luận bị ngắt quãng khi Ani nghe thấy một người thứ ba nhập cuộc.
“Xin chào!”, một giọng Bayern cất lên.
“Chào buổi sáng!”, Teme nói và hai gã đàn ông rời đi.
Ani vẫn còn ngồi đó, cảm giác nhịp tim đập thình thịch trong lồng ngực. Nếu hai gã hộ vệ phát hiện ra cô, đôi lông mày màu tối và chiếc mũ rộng vành cũng không thể giúp cô che giấu thân phận. Họ sẽ áp giải cô đến một khu rừng gần đó mà không gặp chút rắc rối nào, sau đó là để cho thú hoang xé xác cô ra. Nỗi sợ hãi từ cổ họng lan tới đầu gối Ani, làm chúng run bần bật lên khi cô lóp ngóp gượng mình đứng dậy.
Những gã đàn ông đã biến mất. Cô còn khoảng hơn năm chuồng ngựa để tìm kiếm. Phải tiếp tục thôi! Cô rùng mình và rón rén đi. Đến chuồng ngựa thứ ba, Ani liếc nhìn xung quanh với suy nghĩ rằng Geric có thể ở gần đây nhưng ý nghĩ của cô lập tức bị đứt quãng bởi những gì vừa nhìn thấy.
Không cần phải tiếp tục tìm kiếm nữa. Đó chính là con ngựa của cô, trong một trường huấn luyện ở phía xa! Falada! Một người lạ đang cưỡi nó. Falada nhảy chụm bốn vó lên. Cô như bị thôi miên, gần như chạy về phía nó. Xung quanh cô là những kỵ sĩ, những lính canh, những tiểu thư đang thong thả dạo chơi với dù ở trên tay và những thị nữ xúm xít bên cạnh. Cô không nhìn vào mắt họ, cúi đầu để cái bóng che lên mặt. Tiếng hí của con Falada, một âm thanh hoang dã mà Ani chưa từng bao giờ nghe trước đó. Nó làm lòng cô thắt lại đau nhói. Falada, có chuyện gì không ổn vậy?
Người kỵ sĩ siết chặt dây cương trên bờm. Cổ Falada ướt đẫm mồ hôi, đầu nó bị giật lên, đôi mắt đỏ ngầu hoang dã. Nó nhìn cô.
Ani nhào đến hàng rào và đứng bên cạnh nó, ôm tay vịn bằng gỗ và thầm gọi con ngựa của mình.
“Quỷ tha ma bắt mày!”, người kỵ sĩ lầm bầm, điều khiển con ngựa để nó đi một vòng tròn nhưng Falada lao tới như thể nó chưa bao giờ nhìn thấy một kỵ sĩ, như thể mang yên cương là sự tra tấn.
Bình tĩnh, Falada! Bình tĩnh. Họ có thể làm tổn thương cậu nếu cậu không biết kiềm chế.
Con ngựa nghiêng một tai về phía cô trong khi nó đập vào một bên của những thanh quây giữ ngựa, nhưng nó không phát ra tiếng nào. Đầu Ani căng thẳng đến nặng nề. Cô không thể giải thích tại sao nó lại tảng lờ những lời của cô, hoặc làm thế nào mà nó quên cách nghe được chúng. Người kỵ sĩ đã bị ném khỏi yên, anh ta chạy vụt khỏi cú tấn công của những chiếc móng ngựa. Falada chạy nước kiệu, sau đó dừng lại và nhìn. Bàn tay cô giơ ra, lòng bàn tay đưa lên. Falada, nhớ tớ không? Cậu có nhớ tớ không?
Nó khịt mũi, đưa mắt nhìn khắp nơi giống như có một điều gì đó rất thống khổ. Cô nghĩ nó muốn nói chuyện nhưng không từ nào thoát ra được.
Falada, bạn thân thiết của tớ, mọi chuyện đều ổn cả rồi. Thật đấy, mọi chuyện đều ổn.
Con ngựa đánh hơi lòng bàn tay cô và tay cô run lên theo dưới hơi thở của nó. Cô muốn vòng tay mình quanh cổ nó và khóc trên cái bờm của nó, như khi cô tìm thấy cha mình ngã dúi dụi, nằm bất động dưới con ngựa của ông, như khi tiếng khóc thê lương của đứa em tước đi sức lực của cô, khiến cô thấy mình thật nhỏ bé và mỏng manh, không thể làm gì khác sau cỗ xe tang. Ai sẽ an ủi cô nếu không phải là Falada? Ý nghĩ đó làm cô bật khóc nức nở, cô nghiến chặt hàm răng và bước lại gần hơn.
Từ từ nào, từ từ nào.
Cô đưa bàn tay chầm chậm lên mũi, xuống đến má và cổ nó, hi vọng đánh thức người bạn cũ với những đụng chạm quen thuộc của mình. Con ngựa rùng mình dưới bàn tay cô. Cô tiếp tục giữ như thế.
Không việc gì đâu. Không ai làm hại cậu đâu.
Falada giật mạnh đầu lên, tránh xa khỏi bàn tay cô, đưa hai chân sau lên đạp vào không khí. Cô nhảy ra xa khi một cái móng ngựa đụng trúng má. Một đôi tay kéo cô đi và đẩy cô qua bên kia hàng rào.
“Ra khỏi đây đi, cô gái!”, người kỵ sĩ nói.
“Tôi nghĩ cô ấy đã chinh phục được nó trong khoảng một phút”, người quản ngựa tiếp lời.
“Có chuyện gì đã xảy ra với nó vậy?”, Ani hỏi. Đầu cô quay cuồng. Ánh sáng xung quanh Falada dường như mờ nhạt đi, sắc trắng trên mình nó trở nên quá chói, đến nỗi làm cô lóa mắt phải cúi đầu xuống.
“Nó đã mất trí nhớ”, người kỵ sĩ vẫy tay ra hiệu cho cô đi.
Falada tiếp tục phi nước kiệu một lần nữa và nước dãi sùi ra hai bên mép. Ani cố giãy khỏi người đang cản trở mình. Đầu cô trống rỗng và lồng ngực cô cũng vậy.
Falada, cô gọi.
“Cô gái!”.
Ani quay lại, ngỡ sẽ nhìn thấy Ungolad hoặc Terne, nhưng thay vào đó, người đang đến gần là một hộ vệ trong cung điện, người đã nắm lấy khuỷu tay cô và nhanh chóng kéo cô đi. “Công việc của cô đang bị bỏ mặc phải không? Còn cô thì nhàn nhã dạo chơi ở đây như thể nó là sân nhà của cô vậy!”.
“Tôi chỉ...”.
“Chỉ thua cuộc”, anh ta nói. “Cô không được phép làm như thế này, hiểu không?”.
Anh ta ngậm miệng và không nói gì nữa. Ani cảm thấy như mất thăng bằng khi bị kéo phăng phăng với cánh tay giữ chặt. Sự đau đớn làm cô nổi giận. Với việc cố gắng lầm con ngựa của mình bình tĩnh, mình bị đối xử giống một tên tội phạm thế này đây, cô nghĩ. Băng qua cánh đồng, Ani phát hiện Hul và Teme đang tụ tập dưới một bóng cây. Cô dừng lại, kéo cánh tay đang kẹp chặt mình và cúi đầu xuống.
Những người hầu trong cung nhốt Ani vào một căn phòng nhỏ và khóa lại. Đây chắc hẳn là nơi giam giữ tội phạm, nó tối, trống trải và lạnh cóng. Một ô cửa sổ nhỏ ở phía trên cao hắt những tia sáng vào bức tường đá. Ani ngồi đó giữa căn phòng mờ tối, vòng tay ôm lấy người và âm thầm khóc.
Không biết vì căn phòng lạnh hay vì âm thanh của những đôi bốt gõ bên ngoài hành lang mà Ani thoáng rùng mình. Cô giật nảy mình trước mỗi tiếng động và chờ đợi một ai đó mở cánh cửa ra. Con đau đầu không cho phép cô nghĩ về Falada. Cuối cùng cô cũng nghe thấy tiếng lách cách của chiếc chìa khóa tra vào ổ. Ani quá kiệt sức để sợ hãi trước những chuyện vừa xảy ra. Cô nhích người theo chuyển động của ánh sáng đến gần bức tường hơn, sau đó dựa vào tường và liếc nhìn vùng sáng vừa mở ra, chờ đợi bóng người của Ungolad bước vào. Nhưng đó chỉ là một phụ nữ.
“Đến đây nào!”, người phụ nữ nói. Ani đưa tay cho cô ta nắm và được kéo lên lầu, đến một nơi tốt hơn. “Tôi quên mất là mấy anh chàng kia đã đưa cô vào trong này. Thật là một ngày bận rộn, chợ phiên và tất cả các công việc khác khiến tôi bù đầu bù cổ. May cho cô đấy, đức vua vẫn thường ngồi lắng nghe những lời cầu xin vào ngày chợ phiên như hôm nay, vì thế chúng ta hãy đến xem liệu ngài có cho phép cô đi ra với cái đầu của mình vẫn còn trên cổ không!”.
Họ chờ đợi trong một hành lang lát gỗ mà Ani đoán rằng đi sâu vào bên trong là phòng ngủ của đức vua. Cô có thể nghe tiếng nói sang sảng của ngài và giọng vút lên của một thương nhân nào đó. Ani nghĩ cô có thể rời khỏi cung điện mà còn sống sót. Sau vài phút, viên cận thần báo hiệu đức vua đang đợi, sau đó áp giải Ani xuyên qua lối đi vào phía bên phải, để đến trước mặt nhà vua.
“Ta hi vọng không phải là một tên thích khách?”. Giọng của đức vua pha lẫn mệt mỏi và hài hước.
“Không ạ, muôn tâu bệ hạ, cô ta bị nhầm đường...”, viên cận thần cất tiếng, “Rồi dám len lỏi vào khu vực huấn luyện ngựa của hoàng cung, và đặt tay lên chế ngự con ngựa điên của công chúa”.
Thật là những lời điên cuồng, Ani cau mày.
“Lui xuống!”, đức vua nói và viên cận thần lập tức cung kính rút lui. Ani còn lại một mình, ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào mặt ông. Gương mặt đức vua giãn ra.
Ông không phải là một người đàn ông đẹp trai, mặc dù vẻ ưa nhìn thời trai trẻ vẫn còn hiện diện trên khuôn mặt. Cô nghĩ rằng ông có thể đối xử với mọi người nhẹ nhàng như cách một người cha đối xử với con gái, chỉ nghiêm khắc hơn một chút. Ông ra hiệu cho cô bước về phía mình.
“À, ra là cô gái chăn ngỗng mới...”, đức vua mỉm cười, “Cô gái chăn ngỗng với kiểu cúi chào rất trang nhã. Thế động tác nhún người duyên dáng ấy bây giờ đâu rồi?”.
“Thật khó để thực hiện nó với một cánh tay bị bẻ quặt ra sau lưng thế này, thưa bệ hạ!”, Ani không chắc rằng mình có giấu được nỗi sợ hãi trong giọng nói không, nhưng cô vẫn thực hiện một động tác nhún người cúi chào.
Đức vua mỉm cười.
“Hừm, để ta nhớ xem... Lần cuối cùng cô ở đây, cô xin một vị trí trong chuồng ngựa, và đã bị từ chối. Rồi bây giờ thì cô đi lạc ở đó. Một cách tình cờ nhỉ! Có phải là vô tình thôi không, cô gái?”.
“Dạ không, thưa bệ hạ!”.
Đức vua lại kín đáo cười, ông nghiêng người về phía trước với một biểu hiện gần như là thích thú. “Ta là một người hay phỏng đoán. Nhưng để tiết kiệm thời gian, sao cô không tự thú nhận mọi việc một cách thẳng thắn và đon giản nhỉ?”.
“Cháu... cháu muốn nhìn thấy con ngựa của công chúa. Và khi nhìn thấy nó, cháu cảm thấy tội nó quá. Cháu leo lên hàng rào vì nghĩ rằng có thể giúp nó!”.
Mình có giúp được nó không? Không! Ani nghĩ. Cô nhớ đến đôi mắt của Falada, mờ như mắt bò, nhìn vào cô trước khi vung những móng chân lên tấn công cô.
“Cháu nghĩ... cháu nghĩ nó bị đẩy ra khỏi ranh giới nơi con người và động vật có thể chia sẻ ngôn ngữ”.
Sau đó, Ani quên hình ảnh con ngựa đau khổ và nhận thức được đức vua đang nhìn mình chằm chằm.
“Muôn tâu bệ hạ”, viên cận thần lên tiếng, nhắc khẽ ông về thời gian và một hàng người đang đọi bên ngoài.
“Được rồi, cô gái chăn ngỗng. Một ngày nào đó, cô sẽ giải thích cho ta chính xác điều đó nghĩa là gì. Còn bây giờ, phải có một chút hình phạt nào đó cho sự xâm nhập vào nơi không được phép chứ nhỉ? Nếu không, những ngày tới chúng ta sẽ có thêm vô số cô bé chăn ngỗng, cậu bé chăn ngỗng khác ung dung đi vào tản bộ giữa vườn thượng uyển của hoàng gia, tham quan những con ngựa điên và phá nát những khóm hoa hồng. Cô có phụ giúp gia đình mình ở vùng Forest chứ?”.
“Không ạ!”. Gia đình cháu ở Kildenree, cô muốn nói thế. Cháu là Anidori, cháu là một công chúa. Nhưng bụng cô quặn lên với nỗi sợ hãi và cảnh giác. Không phải bây giờ. Điều đó rất dại dột. Đức vua sẽ không tin đâu!
“Ừm, thế thì tiền lương tháng của cô đâu? Cô có mang theo chứ?”.
Những người làm công đã được nhận tiền công vào tối hôm qua, trước phiên chợ. Ani lấy từ tạp dề một chiếc túi nhỏ, rồi lấy trong đó một đồng vàng bé xíu với dấu hiệu con ngựa đang chạy và lễ phép đưa nó cho đức vua.
“Một đồng vàng? Đó là tất cả à? Nào, chúng ta không thể tước đi của cô toàn bộ số tiền ít ỏi đó được. Người đâu? Ngươi có thể thay đổi điều này không?”.
Viên cận thần hối hả bước đến, đổ tiền từ một chiếc túi vào lòng bàn tay và đưa nó cho Ani. “Của cô đây. Không phàn nàn, không trở lại chuồng ngựa và nên rời khỏi đây lập tức!”.
“Thưa bệ hạ...”, Ani cất tiếng. Cô đứng ngập ngừng vài giây, thu hút sự chú ý của ông. “Cái gì đã khiến con ngựa trở nên như thế? Có phải con ngựa của công chúa đã trở nên hoang dã?”.
“Ta không biết!”. Nhà vua nói với vẻ nghiêm túc bất ngờ, và những vết bầm tím do Falada gây ra trên người cô một lần nữa khiến cô nhức nhối.
Ani bước ra khỏi cổng thành, vượt ngoài tầm nhìn của những người lính canh rồi mới dám dừng lại, thở hắt vì mình đã được tự do. Cô tựa vai vào tường, ép bên má thâm tím vào nền đá lạnh. Sự tiếp xúc với đá làm cho mạch máu trên vết thương đập mạnh như thể Falada đã đá cô hết lần này đến lần khác. Falada đã trở nên điên loạn. Ý nghĩ này đau đớn quá! Có lẽ do những gì nó đã chứng kiến ở trong rừng. Hoặc sau khi nó bị bắt ép để đưa công chúa giả đến Bayern. Selia không còn dùng nó nữa, hoặc biết đâu chừng chính cô ta hay Ungolad đã làm việc đó? Ani cau mày với những ý nghĩ. Cô quyết định rời khỏi bức tường lạnh và bước đi. Dòng người nườm nượp cuốn cô xuống một con đường rộng lớn. Ani không thể đi chậm lại cho đến khi cô tiến đến vòng đầu tiên của chợ phiên.
Khu vực họp chợ là một vòng tròn lớn đầy những tiếng ồn. Mọi người bao bọc xung quanh, khắp quảng trường trung tâm và một số đường phố ở bên ngoài. Ani đi một cách thận trọng xuyên qua vòng đệm bên ngoài, một vòng tròn toàn những người ăn xin, họ ngồi trên chiếc chăn rách rưới với tay chân tàn phế và những đứa trẻ ốm yếu giống như đồ vật mang đi bán. Một số lắc chiếc cốc đựng tiền xu, tạo nên tiếng ồn giống như tiếng lục lạc trẻ con chơi.
Vòng tiếp theo của nơi họp chợ thuộc về những người hát rong, những người biểu diễn đủ trò để kiếm tiền. Trẻ em bá vai nhau hát những khúc ca về người anh hùng hoặc những bài hát trong quán rượu. Những người đàn ông chơi đàn hạc và sáo gỗ, những phụ nữ mặc quần bó sát (điều này làm cho Ani đỏ mặt quay đi). Họ trồng cây chuối, đứng trên vai người khác, tung hứng những trái bóng và nhảy điệu nhảy của tiều phu.
Vòng tròn thứ ba được lập bởi những người bán thức ăn, với mấy chiếc túi đầy ắp, có cái nghi ngút bốc hoi. Phụ nữ đội giỏ trên đầu, còn những người khác, những người giàu có hơn, có xe ngựa đựng từng giỏ lớn các loại thực phẩm khác nhau mang đi bán. Chim bồ câu mổ xuống mặt đất, kêu gù gù giành nhau: Bánh mì của tôi, vỏ Cịuả của tôỉ, nho khô của tôi, hãy tránh xa ra, hãy tránh xa ra. Ani nhìn thấy một khoanh thịt lợn rớt trên mặt đất. Cô vẫn chưa có gì vào bụng từ sáng sớm đến giờ. Một cách luyến tiếc, cô hít hít mùi bánh mì xúc xích, xà lách bắp cải nóng, táo mật rồi tiếp tục rảo bước đi. Sau đó, cô thấy ở vòng trong cùng, trên một cái bục, thi thể hai người đàn ông bị treo đong đưa, tòng teng với những sợi dây thừng trên cổ. Bao quanh họ là đám đông im lặng.
Một người đàn ông vượt qua cô, vẫy một miếng thịt cốt lết chào mời. Mùi thịt bốc lên làm ruột cô quặn thắt. Cô nín thở bước nhanh về phía trước.
Ani tìm thấy nhóm của Finn gần trung tâm của quảng trường. Cô đi nhanh về phía họ. Có một đám đông đang trao đổi, mua bán áo len của Gilsa và những vật phẩm khác lấy từ rừng. Ngày đã chuyển lạnh thực sự và trong tâm trí của mọi người, chẳng mấy chốc nữa thời tiết đã rét cóng lên. Thế nên anh chàng có vẻ mua bán khấm khá. Không ai bận tâm đến việc hàng hóa đã bị ẩm ướt một chút từ cơn mưa ngày hôm trước.
Ani nhìn Finn, tưởng tượng ra anh và những người bạn đồng hành đã đóng trại trong màn mưa mù, xung quanh một đống lửa sũng nước. Bất giác cô bỗng cảm thấy biết ơn ngôi nhà bé xíu có mái che của mình. Finn nhận ra Ani và đến bên cô ngay lập tức. Dáng điệu của anh để lộ sự quan tâm.
“Tôi gặp rắc rối”, cô kéo anh ra khỏi những người khác, nói bằng giọng thật của mình, giọng không mấy khi dám sử dụng kể từ khi đến đây. “Tôi cần phải nói với ai đó, tôi rất bối rối và không thể làm gì được!”.
Finn vỗ nhẹ vào vai cô.
“Họ đã giết chết những người bạn của tôi, hoặc gần như thế”. Cô cắn chặt môi, để ngăn nước mắt chảy ra. “Họ muốn giết tôi. Tôi không thể về nhà và tôi mệt mỏi, sợ hãi lắm!”. Ani nức nở một lần nữa, tựa đầu vào vai Finn, buông lỏng để bản thân được nâng đỡ trong chốc lát, để có được sự an ủi là mọi chuyện đều ổn cả. Vài phút sau, không cho phép mình tiếp tục khóc nức nở, cô ngồi thẳng dậy và cười to để che giấu cơn xúc động vẫn còn dư vị nơi cổ họng.
“Cảm ơn anh!”, cô nói, “Tôi xin lỗi”.
“Có hai người đàn ông đã đến vùng Forest”, Finn đáp khẽ.
“Họ có mái tóc màu vàng hoe?”.
Finn gật đầu. “Họ hỏi thăm một cô gái có mái tóc màu vàng. Mẹ tôi nói rằng bà chưa bao giờ thấy một ai như thế và không để một ai qua cánh cửa của bà nếu bà ở trong đó”.
Ani thở một hơi, gật đầu.
“Con đường đến nhà mẹ tôi là đường rừng phía tây nam, được gọi là Lake, sau đó rẽ phải theo hướng có các dấu hiệu chỉ về Spruces, và một con đường khác mà rẽ hai lần bên trái, ba lần bên phải, rồi lại năm lần ở bên phải... Hoặc cô có thể hỏi bất cứ ai xung quanh đây!”.
Ani lặp đi lặp lại mấy lần để chắc chắn rằng những hướng dẫn ấy đã nằm trong bộ nhớ. Bọn chúng đang tìm kiếm cô. Bọn chúng không nghĩ rằng cô đã chết. Chúng cho là cô đang lẩn trốn. Nỗi sợ hãi đập mạnh vào ngực cô, nhưng cô đè nó xuống. Không được sợ hãi thêm nữa. Cô lấy ra đồng bạc nhà vua cho, đưa cho Finn. “Tôi đến đây để đưa nó cho anh, không phải để khóc lóc”. Finn nhận đồng tiền nhưng trao lại cho cô một bọc giấy màu nâu từ trong giỏ hàng: “Cái này mẹ tôi gửi cho cô”.
Đó là một cái áo dày tuyệt đẹp, đan bằng len của vùng Forest, có màu cam, nâu, xanh da trời, và ở mặt sau được thêu một con chim màu vàng, đang soãi cánh bay đi. Không biết Finn đã bảo quản nó bằng cách nào mà nó hoàn toàn khô ráo, chẳng ẩm ướt tí nào như những chiếc áo được mang đi bán. Ani đưa nó lên mặt, nghe chiếc áo tỏa ra sự ấm áp và hơi ấm giống như mùi khói trong lò sưởi, mùi len thô và mùi của sàn gỗ nơi nhà kho an toàn đã che chở cho cô suốt những ngày trong vùng Forest.
Cô rời khỏi chợ, dùng đồng xu còn lại của mình để mua chiếc bánh sữa nhỏ nóng hổi và lần đi tìm những người bán rễ cây gai làm thuốc nhuộm. Trên đường đi, Ani thấy những người đàn ông bị treo cổ đã được chuyển từ điểm hành hình đến chỗ bức tường bên ngoài thành. Bức tường có vẻ như đã được sử dụng từ rất lâu, trên đó vẫn còn đọng lại vết máu của những xác chết trong quá khứ giống như những dấu sọc trên tấm bảng. Cô nuốt miếng cuối cùng của mẩu bánh cứng và vội vã rời đi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.