Đại Tranh Chi Thế

Chương 250: Binh quý thần tốc (Thượng Hạ)




Hồ nước bị gió thổi dậy lên từng đợt sóng, cỏ lau sậy bên hồ dần mất đi màu xanh bị gió thổi phát ra những tiếng ào ào. Mùa này không phải là ngày vụ, những người dân sống nhờ vào đất trong mùa này thường thì khá nhàn rỗi. Những năm nay lại khác, họ có rất nhiều việc để làm.
Các thanh niên trai tráng đi đốn củi, làm thuyền, kiếm thêm thu nhập nuôi gia đình, có người lại đến bãi muối đang xây dựng làm việc. Còn những phụ nữ và trẻ em già yếu thì ở bên hồ đan lưới đánh cá. Một tấm lưới to được người ta dùng dây thừng buộc ở giữa hai cây lớn, có năm sáu người đang đồng tâm hiệp lực đan mắt lưới. Họ tuy tuổi cao nhưng thủ pháp rất thành thục, làm cái nghề này một cậu thanh niên cũng chưa chắc đã làm nhanh bằng họ.
Một đại hán đầu vấn khăn vải, người mặc áo dài ngắn làm bằng vải sợi gai cũng ở giữa bọn họ, một tay giơ một cây trúc cùng hai người già phối hợp đan tấm lưới to, đồng thời cao giọng nói cười:
“Đúng thế, ta đã thám thính qua rồi, từ Ngũ hồ đến Nam Vũ hồ chỗ chúng ta đây, theo hướng đông bắc có đường sông rất rộng, ở giữa chỉ một vài chỗ bị tắc nghẽn, chỉ cần dọn dẹp sạch là thuyền có thể thông hành một cách thuận tiện. Từ Nam Vũ hồ chỗ chúng ta lại quay ngược trở lại, là đến Vọng Ngu hà khẩu,cách Đại Giang rất gần, đại khái chỉ còn hai ba dặm nữa là có thể trực tiếp đi thẳng vào Đại Giang. Sau khi khơi khoét đường sông đó ra, từ chỗ chúng ta ở đây, dựa vào một chiếc thuyền có thể theo hướng tây đến đô thành Cô Tô, theo hướng bắc đến Đại Giang, sau đó ngược dòng mà lên Kinh Bắc, hoặc theo hướng đông vào Đại Hải, còn có thể trực tiếp qua sông vào Đông Di, Trần Quốc, Tống Quốc, Lỗ Quốc…
Cho nên chúng ta ở bãi muối này làm muối, đợi thuyền lớn lưới rộng làm xong, đội tàu ra biển đánh bắt tôm cá, không lo không bán được. Đến lúc đó tất có nhiều thương nhân đến nhà thu mua. Các vị lão nhân à, hai năm nay thiên hạ không bình yên. Khi nào thiếu lương thực lúc đó tôm cá, muối của chúng ta vẫn có thể bán được giá, hãy chờ mà xem, bỏ công sức không đến hai năm, nhà nhà ở đây sẽ giàu có.”
“Ây da, đương nhiên, đương nhiên, lời tốt lành của Thừa đại tướng quân mà.” 
Mấy lão nhân nghe rất vui vẻ, cười đến nỗi nếp nhăn nơi khóe mắt cũng nhô cả lên.
Một thanh niên trên dưới hai mươi tuổi mang theo hai cái tiểu lại đi tới. Lau lau mồ hôi trên mặt, hướng vào đại hán áo sợi dài chắp tay nói:
“Hạ quan Thạch Trạm bái kiến Thượng tướng.”
Hóa ra vị đại hán áo sợi dài chính là Thượng tướng quân Lương Hổ Tử đóng quân tại thành Nam Vũ Ngô quốc, hắn quay đầu lại nhìn, hỏi: 
“Ồ, nông hộ mới đến thu xếp ổn cả rồi?”
Thạch Trạm mừng phấn khởi đáp: 
“Vâng, các gia đình mới đến đây có mười một hộ, gồm ba mươi chín người, đã để binh sĩ giúp họ cất nhà, phân chia đất hoang để họ trồng trọt cày cấy. Lúc này đúng mùa nông nhàn, vừa hay kịp khai hoang. Trong đó có mấy thanh niên trai tráng được hạ quan sắp xếp đến bãi muối, xưởng thuyền làm việc. Theo hạ quan thấy, với tốc độ người dân hội tụ, đến đầu mùa xuân sang năm, một thành mới sẽ xuất hiện.”
Thạch Trạm này là người nước Tống, là một quý tộc lụi bại. Tuy rằng học vấn tứ thuật lục nghệ, học thức đầy người, nhưng gia đạo suy bại, cầu sĩ vô môn, không những tiền đồ vô vọng, mà quê nhà còn phải chịu sự ức hiếp, lăng mạ của những kẻ dựa vào kinh doanh buôn bán mà dần dần trở nên giàu có. Nghe nói Ngô quốc quảng chiêu sĩ tử liền dẫn cả nhà đến Ngô quốc.
Được Khánh Kỵ đích thân kiểm tra thu nhận, phái đến làm thuộc hạ của Lương Hổ Tử. Hiện nay ở Nam Võ đông thành mười dặm, mới định rõ một vùng, các hộ gia đình đang không ngừng gia tăng, theo việc mở rộng quy mô, đã xác định biên chế thành huyện, mệnh danh là Bắc Võ huyện. Sau khi hắn ta đến đây, liền trở thành thừa huyện Bắc Võ huyện, chủ quản dân chính nơi này. Hiện giờ Ngô quốc phàm là từ trên đất hoang xây lên khu vực hành chính nhưng đại thể không phân ấp phong kiến mà nhất loạt thiết huyện lập quận.
Thạch huyện thừa đáp xong liền nói: 
“Thượng tướng quân triệu hạ quan đến, không biết có điều chi dặn dò?”
Lương Hổ Tử đưa cây trúc cho một lão nhân đan lưới, xoay người đi đến trước mặt hắn, cùng hắn sóng vai vừa đi vừa nói: 
“Bắc Võ huyện dựa theo dân số gia tăng, đã dần trở thành huyện thực thụ, đều nhờ vào huyện lệnh và ngươi huyện thừa đại nhân, ngươi đã phải bận rộn rồi. Hôm nay trong triều lại phái đến năm sĩ tử mới thu nạp. Hai người là người nước Ngô, còn lại ba người đến từ nước Sở, nước Trần và nước Thái. Ta chọn ra trong số đó hai người cho ngươi,một người thiên về quản lý tài vụ, đến huyện sẽ nhận chức khố sắc phu (chủ quản tiền nong tạp vụ), người kia làm huyện Tư Khấu. Bắc Võ là tân thành, dân số đến từ nhiều nơi khác nhau, nhiều người nói còn nặng tiếng địa phương, khi giao tiếp với người khác đều rất khó khăn, có nhiều người chơi bời lêu lổng quen rồi, vốn là lưu manh thích đánh nhau, cần phải sớm có người quản thúc, tránh sinh chuyện thị phi.”
Thạch Trạm đang cảm thấy công việc ngày càng nhiều, có phân thân cũng không làm hết, vừa nghe nói phái đến cho hắn hai trợ thủ đắc lực thì không khỏi vui mừng khôn xiết, Lương Hổ Tử nói: 
“ Đi, chúng ta về thành, ta đưa ngươi đi gặp bọn họ, sau đó ngươi dẫn người của ngươi đi.”
Trước mắt khu vực Nam Võ chưa có chủ quản dân chính quan viên trông coi việc chăn nuôi, nên Lương Hổ Tử tạm thời kiêm quản lý dân chính và quân vụ. Sau khi hắn đến thành Nam Võ liền mạnh mẽ quả quyết luyện binh khai hoang, đóng thuyền đan lưới, nỗ lực đưa quân Ngô mà hắn dẫn đầu luyện thành đội ngũ thủy quân vừa quân vừa nông.
Giao thông nội địa Ngô quốc đa phần đi trên sông ngòi, coi thuyền là xe, coi mái chèo là ngựa, vì thế vị trí của thủy quân vô cùng quan trọng. Lương Hổ Tử sau khi đến Nam Võ đã chọn ra một vài nơi thích hợp bỏ neo xây dựng bến tàu, xưởng sữa chữa, huấn luyện thủy quân trên hồ.
Về mặt dân chính, khích lệ dân chúng khai hoang trồng trọt, trồng nhiều các loại cây trồng như lúa gạo, kê, lúa mạch, đậu. Khích lệ họ đi thuyền đánh cá, dựa vào sông nước kiếm ăn. Phạm Lãi sau khi chủ chính, lại bày kế cho hắn ở khu vực ven biển khoanh vùng làm muối, mở rộng ruộng muối, khoanh bãi đánh bắt cá, bãi chăn nuôi. Những công việc làm muối, đánh bắt cá, dân chính, quân chính đều do Lương Hổ Tử đảm nhận khiến hắn bận tối tăm mặt mày.
May là Khánh Kỵ cũng biết hắn không giỏi về dân chính, mà thành Nam Võ vốn lại là thành trì chủ yếu dùng với mục đích quân sự, lực lượng quan viên nơi này cực kỳ yếu kém, thế nên Khánh Kỵ liên tục phái quan viên dân chính đến cho hắn. Họ đều là những thanh niên trẻ được cất nhắc trong đám các sĩ tử xin góp sức đến từ Ngô quốc và các chư quốc khác. 
Ở thời đại này mọi người quan niệm về gia tộc rất nặng nề, họ coi trọng sự phát triển của gia tộc và tiền đồ cá nhân. Vì sự tiếp nối của gia tộc mà họ có thể không chút do dự hi sinh chính bản thân mình, nhưng quốc gia đối với họ mà nói, chỉ có khái niệm là nơi cư trú mà thôi, ngoài ra đối với họ không hề có can hệ trọng đại nào. Nếu là công khanh cha truyền con nối của quốc gia, vì sự vinh nhục của gia tộc, của cá nhân và sự hưng vong vui buồn của quốc gia có tương quan, thì còn tốt một chút, người dân bình thường thì hờ hững lãnh đạm hơn nhiều.
Những gia tộc mà tổ tiên của họ đã từng rất huy hoàng hiện giờ đã từ đại quý tộc suy bại xuống sĩ tộc, địa vị gia tộc không ngừng sa sút. Mà họ lại cảm thấy có chút bổn phận, chỉ là không được trọng dụng nên dễ dàng ra đi. Điều này có điểm giống với những người giữ chức vụ trong công ty ở thế kỷ 21, khi tiền đồ vô vọng thì không cam tâm chịu sa sút, nhảy sang một nơi khác.
Những người như thế một khi đến cậy nhờ Ngô quốc, đều muốn làm nên một điều gì đó. Bọn họ đa phần đều là thanh niên, dám nghĩ dám làm, tinh lực dồi dào, đầy bầu nhiệt huyết. Lại phần lớn có học thức năng lực, đối với Ngô quốc, một quốc gia thiếu thốn nhân tài trầm trọng thì đây đúng là một dòng máu tươi mới khó mà có được.
Nhờ vào việc quan viên dân chính liên tục gia tăng, trọng trách trên vai Lương Hổ Tử mới nhẹ dần. Hắn dẫn huyện thừa Bắc Võ trở về thành, giới thiệu rồi phân cho hắn hai quan viên, sau đó để hắn đưa về Bắc Võ nhậm chức. Thạch Trạm vừa bước đi liền có một kỵ binh cưỡi ngựa bay tới, mang đến quân lệnh triệu kiến khẩn cấp của Ngô Vương.
Lương Hổ Tử không biết Cô Tô đã xảy ra chuyện gì, trong lòng có chút lo sợ. Vội vàng đem công việc giao cho thuộc hạ, sau đó liền theo người mang tin cưỡi ngựa tốc hành trở về Cô Tô.
Đến thành Cô Tô Lương Hổ Tử mới biết Tề Lỗ sắp đàm phán hòa bình, Ngô quốc nếu không cấp tốc hành động sẽ mất đi thời cơ tốt nhất để chiếm Đông Di, Khánh Kỵ lệnh cho Lương Hổ Tử lập tức dẫn quân bắc thượng. Lập doanh trại đóng quân ở Đông Di, một khi Tề Lỗ nghị hòa thành công, Lỗ quân rút khỏi khu vực Đông Di, lập tức lấp vào vị trí Lỗ quân để lại.
Do hội nghị đồng minh vẫn còn cơ mật với Đông Di và Ngô quốc, nên lần này xuất quân liền tìm lý do khác là do nạn trộm cướp ở Đông Di và quân phỉ thường xuống phía nam quấy rối biên giới, cướp bóc tài sản của dân, nên lần này xuất quân là tiêu diệt toàn bộ nạn thổ phỉ, dẹp yên cho biên cương.
Lương Hổ Tử phấn kích nhận lệnh, Anh Đào đã giúp hắn chọn ra từ trong quân phòng ngự thành Cô Tô và quân đóng ở gần thành Vệ rất nhiều binh sĩ dày dặn kinh nghiệm chiến trận, tổ chức thành lực lượng tinh nhuệ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh. Lương Hổ Tử phong trần chưa tẩy, liền đến nhận đội quân. Trong đội quân này có rất nhiều lão binh Lương Hổ Tử đã từng dẫn, bọn họ hiện giờ đều là quan quân giữ chức từ nhị Tư Mã trở lên, thế nên đội quân này tuy mới hợp thành nhưng Lương Hổ Tử vẫn dễ chỉ huy như thường, kỷ luật nghiêm minh.
Có câu quán ngữ: Binh mã vị động, lương thảo tiên hành. Hiện nay Văn Chủng coi giữ lương thảo của Ngô quốc, Lương Hổ Tử nóng lòng xuất binh, nghiệm thu quân binh, lập tức đích thân đến nhằm Văn Chủng thúc dục lương thảo, nhưng không ngờ cái tên “ Văn bủn xỉn” quả là danh bất hư truyền. Đối diện với Lương Hổ Tử một thượng tướng quân Ngô quốc mà Văn Chủng vẫn cứ rán sành ra mỡ, vắt chày ra nước. Cầm lấy danh sách số lượng lương thảo Lương Hổ Tử liệt kê, hắn chỉ ngón tay lẩm bẩm đọc giống như một tên nho sĩ, rồi lớn giọng kể lể Ngô quốc hiện nay các nơi dùng bao nhiêu tiền, một đại chưởng quỹ như hắn thật không dễ dàng. Lải nhải đến nửa ngày cũng không chịu trích cấp, cuối cùng khiến Thượng tướng quân Lương Hổ Tử bừng bừng tức giận.

Loading...


Lương Hổ Tử túm lấy cổ áo của hắn, to tiếng gầm rít: 
“ Đừng nói với bản tướng quân những lời thối của nhà ngươi, không có lương thảo, ngươi để bản tướng quân xuất chinh tác chiến thế nào đây? Tề Lỗ một khi nghị hòa, e rằng Đông Di cũng lật lọng, không chịu quy thuận Ngô quốc ta, chuyện xuất binh không thể chậm trễ, ngươi dám gây khó khăn, việc đại sự như thế này ngươi chịu trách nhiệm được không? Ta không cần biết Thiếu Tư Đồ nhà ngươi là cái thá gì, tin hay không bản tướng quân cho ngươi một nhát kiếm.”
Lương Hổ Tử gào thét như sấm, nước bọt văng vào mặt Văn Chủng. Văn Chủng bị hắn giơ lên, hai chân gần như cách mặt đất, nước bọt trên mặt cũng không lau, đảo cặp mắt trắng dã, kỳ quái nói: 
“ Hóa ra thượng tướng quân cũng biết xuất quân không thể chậm trễ, nhưng lại không biết đại Tư Mã đưa cho tướng quân bao nhiêu nhân mã?”
Lương Hổ Tử thấy hắn hỏi số lượng binh mã, cứ nghĩ tên “ Văn bủn xỉn” này bị một phen chửi đau khiếp đảm tòng mệnh liền buông tay ra, căm giận nói: 
“ Một vạn nhân mã.”
“ Một vạn nhân mã, liệu có ích được việc gì?”
“ Ngươi thì biết cái gì!”
Lương Hổ Tử rất khinh thường những tên không có công lao trong chiến đấu, những tên quan chỉ dựa vào mồm mép vị cực nhân thần, anh cười lạnh nói: 
“ Binh quý thần tốc, bản tướng quân nhất định phải tranh thủ tiến quân đi, trước khi tin Tề Lỗ nghị hòa truyền đến tai người Đông Di. Lúc này tiến đến, người Đông Di hoan nghênh còn kịp. Khi bọn họ biết được tin Tề Lỗ nghị hòa, người Tề không xuống nam nữa, lúc đó họ muốn đổi ý thì khó rồi. Mở cửa đón chúng ta vào thì dễ, muốn đuổi chúng ta đi thì không phải chuyện đơn giản.” 
Văn Chủng cười khà khà, chắp tay nói: 
“ Hóa ra … cần phải binh quý thần tốc, thụ giáo, thụ giáo. Tướng quân đã nói như vậy, Văn Chủng đã hiểu một chút rồi, nếu là chuẩn bị khối lượng lớn lương thảo lên phía bắc, đồ quân nhu quân dụng theo xe mà đi, như thế còn bàn gì tới binh quý thần tốc? Chỉ sợ khi tướng quân thong dong tới, người Đông Di đã hoan hỉ giải tán liên minh rồi, riêng phần mình dẹp đường về phủ.
Lương Hổ Tử ngây người nói: 
“ Thế có gì khó? Bản tướng quân có thể lệnh cho binh sĩ mang theo người lương thực của mấy ngày, đêm ngày hành quân như tên bắn đến Đông Di, lương thảo đồ quân nhu có thể đến sau.”
Văn Chủng lại giống như tên nho sĩ tầm thường bấm vào đầu ngón tay nói: 
“ Một tên binh sĩ ngoài binh khí, áo giáp, mũ ra thì lương thực mang theo người nhiều nhất chỉ có thể đủ cho bảy đến mười ngày ăn. Ừm, trong khoảng thời gian này vừa đủ nhân mã của tướng quân đến được Đông Di. Sau đó thì sao? Lương thảo đồ quân nhu đi sau, ít nhất phải nửa tháng mới có thể đến được, không biết mười ngày tiếp theo tướng quân chuẩn bị sống như thế nào?
Lương Hổ Tử lại ngây người ra, nhất thời không biết trả lời như thế nào. Văn Chủng lẩm nhẩm nói tiếp: 
“ Còn nữa, lương thảo và đồ quân nhu này cần chuẩn bị một lượng lớn xe ngựa, phải chiêu mộ một đám ngự giả dịch phu. Những tên dịch phu này không biết phải hao tốn bao nhiêu lương thảo. Nhiều lương thảo như vậy không có quân đi áp tải, một khi bị kẻ khác cướp mất cắt đứt lương thảo của tướng quân thì tướng quân nói phải làm thế nào? Thế nên còn cần một nhóm binh sĩ đủ số lượng đi áp tải, những binh sĩ này trên đường cũng phải ăn uống chứ? Đến lúc đó, chuẩn bị hơn một trăm xe lương thảo, vận chuyển đến chỗ tướng quân cũng chỉ còn lại nhiều nhất là một nửa mà thôi, cũng không biết tướng quân có thể chống đỡ nổi đến khi lương thảo đến hay không…”
Lương Hổ Tử nghe lúc này giật mình lo lắng, phương pháp dùng binh đánh trận trên chiến trường đối với hắn không khó khăn gì. Nhưng, khi xưa lúc Khánh Kỵ vị Ngô quốc phạt Sở, hắn vẫn chỉ là một tên quan quân trung cấp dưới trướng Khánh Kỵ, quân nhu cung cấp vận chuyển phân phát không cần hắn phải nhọc lòng lo nghĩ. Công tử Quang đoạt ngôi, Khánh Kỵ chạy sang Vệ quốc, lại chỉ huy quân sát phạt Sở quốc. Trong thời gian đó, trên có liên bang Vệ, Sở cung cấp lương thực, khi trở về Ngô quốc lại dùng thuyền buồm lớn chở cả lương thực cả binh trở về, trận chiến đầu tiên giành thắng lợi, liền có các quan đại phu quý tộc âm thầm cung cấp lương thực, thế nên từ đầu tới giờ Lương Hổ Tử chưa từng gặp phải vấn đề lương thảo.
Hắn vì có nhiều công lao trên chiến trận mà có được địa vị cao như ngày nay, cũng chưa từng học qua binh thư sách lược. Trong cuộc đời binh nghiệp trước đây hắn cũng chưa có kinh nghiệm về vấn đề quân nhu cung ứng cấp phát, cho nên đã sơ sót vấn đề quan trọng như thế này.
Lương Hổ Tử kinh hãi toàn thân toát mồ hôi lạnh, song lại thấy Văn Chủng cười ngâm nga nói: 
“ Thượng tướng quân, lần này đi Đông Di, trong mắt người Đông Di tướng quân đến để giúp người Di chống lại ngoại xâm, có tướng quân ở đó, cơ hội bọn họ ra trận chém giết đổ máu ít đi nhiều, để người Đông Di cung cấp lương thực, bọn họ chắc không thể từ chối phải không? Trước mặt hai nước Tề Lỗ, tướng quân đánh cờ hiệu, nhưng xuất binh tiêu diệt thường vượt biên đánh bắt bọn phỉ hại con dân nước Ngô, tướng quân đến Đông Di nhất định cùng với họ đánh mấy trượng.
Ôi, cái thế đạo bây giờ là thứ dân bần cùng, chư hầu cũng bần cùng. Bởi vì thứ dân là người bị cướp bóc, chư hầu lại là người dùng binh tiêu tiền. Chỉ có hai loại người không nghèo, một loại là công khánh thế tộc, còn một loại, chính là thổ phỉ cường đạo. Tướng quân chỉ cần quét sạch hang ổ của bọn chúng. Đạt được những thứ bẩn thỉu của kẻ trộm chẳng nhẽ còn phải dán thông văn kiện công thị, chiêu người nhận lãnh hay sao?”
“ Hử?” 
Lương Hổ Tử mắt sáng lên. Thái độ ngạo mạn dần tiêu tan: 
“ Ý của Thiếu Tư Đồ là… dĩ chiến dưỡng binh, tựu địa thủ lương (lấy lương thực ngay tại chỗ để nuôi quân chiến đấu).
Văn Chủng cười đầu giống như đầu con hồ ly, vui mừng gật gật nói: 
“ Thượng tướng quân thấy kế này có được không?”
Lương Hổ Tử chắp tay, lớn giọng nói: 
“ Lương Mỗ thụ giáo, thỉnh Thiếu Tư Đồ đại nhân vì Lương Mỗ chuẩn bị mười ngày lương thảo, chiều nay Lương Mỗ sai người đến lấy, lập tức phát binh, thẳng hướng Đông Di!”
Khi hai nước Tề Lỗ ở Giáp Cốc liên kết đồng minh, thì đại quân mã của Lương Hổ Tử không ngừng đế đất đã đến Đông Di, nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của bộ lạc người Đông Di. Lương Hổ Tử khước từ lời mời gặp mặt của nữ Vương Doanh Thiền Nhi, chỉ hướng về phía trước tới chỗ trưởng lão bộ lạc Đông Di đặt vấn đề, do đại quân của hắn tốc hành đến chi viện, lương thảo cung ứng không nhiều, hi vọng bộ lạc Đông Di có thể cung cấp để giải quyết khó khăn.
Bộ lạc Đông Di tuy kinh tế lạc hậu và cũng không giàu có gì, nhưng do trước nay ít khi liên quan tới chiến loạn, nên lương thực không quá túng thiếu. Mặc dù cung cấp lương thực cho đội quân một vạn người có chút trầy trật, nhưng nhiều ít cũng có thể lấy ra cứu trợ, nên trưởng lão đồng ý ngay.
Đợi trưởng lão Đông Di bước đi, Lương Hổ Tử lập tức theo chỉ thị của Tôn Vũ dẫn quân theo hướng tây lao thẳng tới Bành Thành. Bành Thành chính là Từ Châu sau này, nằm ở đồng bằng Hoàng Hoài, phía đông giáp Hoàng Hải, phía tây nối với Trung Nguyên, phía bắc tựa vào vùng núi Lỗ Nam, phía Nam được ngăn bởi đầm nước Giang Hoài, đường bộ tập trung, đường thủy thông suốt, lân cận có sông Biện sông Tứ hợp dòng. Xung quanh dãy núi nhấp nhô, đồi núi vây quanh trở thành tấm bình phong tự nhiên che chắn Bành Thành. “Độc sử phương dư kỷ yếu” viết: “ Bành Thành chi địa, nam thủ tắc lược Hà Nam Sơn Đông, bắc thủ lược khám Hoài Tứ, kinh doanh thiên hạ, há khả dĩ Bành Thành vi hậu đồ.” Có danh xưng “ Trấn quan trọng nằm phía nam, cửa bắc chính là chìa khóa”, “ Bành Thành thành hay bại, chính là có liên quan đến thịnh suy của nam bắc. Sau khi Triển Chích chỉ huy quân tạo phản, không thuyết phục được ý chí của Quý Thị Gia Thần, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu cùng nhau tạo phản, lần lượt chiếm lĩnh nhiều nơi phong ấp của Quý Thị, Dương Hổ dẫn quân đi thảo phạt, thu lại được một vài phong ấp thành trì. Triển Chích mưu đồ đại kế phái Trọng Lương Hoài dẫn quân xuống phía Nam, nhân cơ hội hai nước Tống Vệ và nước Tấn đang giao chiến không có lực lượng trông coi phía đông chiếm giữ thành trì phía đông vốn thuộc về nước Tống.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.