Ấn Thần theo anh trai đi vào khu mộ cổ, len lỏi qua hàng trăm chuyên gia khảo cổ của quốc gia ngày đêm bám trụ. Hỗn hợp thanh cao và bùn nhão của lớp đất phía dưới tràn lêng láng ra ngoài, từng bậc thang trên đường xuống mộ cổ kế tiếp nhau, càng đi sâu xuống dưới lại càng thu hẹp lại, đất tương đối xốp, giẫm lên sẽ phát ra một tiếng động lép bép nho nhỏ.
Trên bốn vách tường đá đặt những cây đèn đặc biệt, không cần thiết thì sẽ không tắt. Đồng thời cũng là vì phòng ngừa có chuyện xảy ra ngoài ý muốn.
Xác ướp nữ đặt trong một hộp pha lê trong suốt và được phong kín, dưới thân là một chiếc quan tài đã bị thời gian tàn phá đến hầu như không còn gì.
Tuy rằng đã trải qua hơn một ngàn năm không ngừng bị ăn mòn và tự tiêu huỷ, xác ướp vẫn tự bảo quản khá hoàn hảo, trên mặt bộ vẫn mơ hồ thấy được dung nhan mĩ lệ và sự ung dung như lúc còn sống. Trên đầu xác ướp có lông chim, có lẽ thời điểm chết là một cô dâu.
Nhờ ánh sáng, Ấn Thần kinh hoàng phát hiện chiếc vòng tay tối hôm qua cô đeo lúc này lại an ổn nằm trên tay khối xác ướp đó. Chuyện gì xảy ra? Cô hoảng hốt giữ chặt tay áo Trục Lỗi, gọi anh một tiếng.
“Sao thế?” Gương mặt Trục Lỗi thản nhiên không chút cảm xúc. Anh đưa lưng về phía những cây đèn, diện mạo u ám đến dọa người.
Từ phía sau cô, một đôi tay vươn đến, như đang cố đỡ bờ vai, giúp sức để cô đứng vững. “Ấn Thần, cô cẩn thận một chút.” Lâu Lan không biết từ khi nào đã đứng phía sau bọn họ, mỉm cười nói. “Xác ướp có hơi đáng sợ, nhưng không sao. Cô ta cũng không thể sống lại cắn cô một cái.”
Sắc mặt Ấn Thần trắng bệch, nhìn về phía chiếc vòng trên tay xác ướp nữ, giống hệt chiếc vòng tay của cô. “Cô ta cũng không thể sống lại cắn cô một cái.” Cô nghe thấy Lâu Lan nói như vậy, lí trí cũng khôi phục. Có lẽ là có người đùa dai, nhất định là như vậy.
“Đừng lo lắng.” Trục Lỗi vỗ nhẹ lưng cô, kéo đôi tay mềm nhũn buông thõng, “Em tới nhìn xem bức bích hoạ này đi.”
Được Trục Lỗi chỉ, cô ngẩng đầu nhìn vách tường. Bốn phía là vũ trụ mênh mông, mặt trời, mặt trăng quay đều, những ngôi sao vây quanh, mây tía phiêu dật bay cuộn, khá tương đồng với phong cách vẽ trong Hang Mạc Cao.
Bích hoạ có bốn bức. Bức đầu tiên, một người là một nhà sư trẻ tuổi đang nhận giáo huấn của sư phụ, trên tay chàng là một bức tranh. Nhà sư trẻ chắp tay, sụp mi khép mắt, diện mạo anh tuấn. Sau đó là hình ảnh chàng đi về phía một cô gái áo xanh tay cầm một bình nước, bên trong là những đoá sen. Tay chàng vươn ra, làm động tác muốn đón lấy những bông hoa. Xuống dưới, là hình ảnh cô gái thẹn thùng đưa cho chàng bảy cành hoa sen. Vị sư trẻ thái độ khiêm tốn, hai mắt nhắm nghiền, lại như không hề liếc mắt nhìn nàng một cái. Bức cuối cùng vẽ một Bồ Tát mặt mũi phúc hậu, đang ngồi trên đài hoa sen, phổ độ chúng sinh.
“Đây dường như là một câu chuyện cổ trong Kinh Phật.” Ấn Thần chợt nhớ chưa ai từng nói với cô, nhưng thực sự cô có ấn tượng như vậy. Đặc biệt là cô gái áo xanh kia, trước đó hình như cô đã gặp qua nàng. Con đường đầy cát vàng tít tắp, hành trình xa xôi lại như một bức tranh tái hiện trước mắt, cô nhìn thấy một cô gái cài lược lên búi tóc, thế nào mà so với trên hoạ bích lại không hề sai khác?
“Đúng là một câu chuyện cổ trong Kinh Phật.” Lâu Lan tiếp lời, “Tôi cũng có cảm giác đã nghe được ở đâu.”
“Điều này thật kì quái? Hai người đều đã nghe qua...” Trục Lỗi nhíu mày, vẻ mặt trầm tư.
Anh kéo tay em gái, phát giác lòng bàn tay cô dâm dấp mồ hôi, có lẽ vừa rồi bị xác ướp kia dọa.
Có điều giáo sư Tiền đã nói hôm nay muốn đưa khối xác ướp này đến nơi khác để nghiên cứu, đặt ở chỗ này, thứ nhất là khó khăn khi bảo tồn, thứ hai là không đủ an toàn. Một xác ướp quý giá có giá trị quan trọng như thế, nếu để xảy ra sai lầm, không ai đảm đương nổi trách nhiệm.
“Thế này, Lâu Lan, em bảo người ta chụp lại những bức bích hoạ này, chúng ta trở về nghiên cứu sau.” Nguyệt Trục Lỗi hạ giọng, muốn đưa em gái trở về nghỉ ngơi.
Ấn Thần đưa tay, tinh tế vuốt ve bức bích hoạ vẫn còn mang đậm những màu sắc tươi đẹp như lúc ban đầu. Đúng là được bảo quản kỹ, cảm giác hơi bất bình. Bức họa vận dụng phương pháp màu sắc đối lập, sử dụng hình ảnh phá lệ rất thật. Cô gái áo xanh như một phu nhân triều Đường, tóc vấn cao, đội mão, khuyên tai chuông, trang sức kim hoàn, cánh tay có xuyến, cổ tay có vòng tay, quần mỏng xanh, mi tô xanh biếc, môi kẻ son hồng. Loại tranh thế này phải có từ triều Đường. Nhưng là căn cứ theo niên đại mà tính lại sớm vài thập niên.
Cô nghe anh trai nhắc về nghỉ ngơi cũng gật đầu. Cô phải về tìm một số tư liệu lịch sử, nhưng trong lòng lại nhớ ra một nhân vật, chỉ không chắc chắn.
Lâu Lan nhìn hai người bước ra ngoài. Đến cửa, cô quay đầu nhìn Lâu Lan, cười cười tỏ ý xin lỗi. Lâu Lan khẽ phất tay, đứng trước những bức bích hoạ, làm Ấn Thần có một cảm giác phảng phất cô ấy chính là cô gái áo xanh đi ra từ bức họa, nhìn cô lặng lẽ cười yếu ớt.
Cô day day thái dương, vết sẹo màu đỏ trên trán ẩn ẩn đau, có lẽ bản thân cô không nên nghĩ nhiều như vậy.
“Anh, có phải đoán được bích hoạ do ai vẽ, sẽ biết lai lịch xác ướp nữ kia không?” Trên đường về, cô thuận miệng hỏi.
“Đương nhiên, cho dù không thể biết thân thế cụ thể của xác ướp nữ, vẫn có cách khác trợ giúp.”
“Giáo sư Tiền không xem xét sơ bộ một chút sao?” Cô dè dặt hỏi, sợ ý kiến của mình làm trò cười cho người trong nghề.
Trục Lỗi nở nụ cười. Anh biết suy nghĩ của em. “Giáo sư Tiền nói tác phẩm nằm ở khoảng từ 600 đến 700 năm sau công nguyên, có lẽ là Ngô Đạo Tử[35], nhưng cũng không chắc chắn. Bởi vì tư liệu lịch sử chưa bao giờ ghi lại được chứng cứ Ngô Đạo Tử đã tới Đôn Hoàng.”
[35] Ngô Đạo Tử (chữ Hán: 吴道子; 685-758) là họa sĩ lớn của Trung Quốc thời nhà Đường, người Dương Cù thuộc huyện Vũ, Hà Nam, Trung Quốc.
Bích hoạ và tranh cuộn vẫn lưu truyền tới nay không giống nhau, bởi vì tranh cuộn có thể vì người mua bán hoặc tặng mà mặt tranh sẽ có thay đổi. Còn bích hoạ trừ khi đích thân tới, không thì khó có thể lưu lại bút pháp.
“Ừ,” cô lên tiếng, chứng tỏ cô đã đoán đúng.
“Ấn Thần, em đã nghĩ đến một người nào rồi phải không?”
Cô gật đầu, nói ra một cái tên khiến anh kinh hãi: “Uất Trì Ất Tăng.”
Uất Trì Ất Tăng là quý tộc nước Vu Điền, cùng cha là Uất Trì Bạt Chất kia bị vua nước Vu Điền phong làm quận công, đồng thời là túc vệ. Năm đầu tiên Đường triều, lấy thân phận con tin đến Đại Đường nghiên cứu kĩ thuật vẽ tranh. Cống hiến quan trọng của ông với nghệ thuật hội họa là sử dụng sự gồ ghề trên bề mặt, rồi lợi dụng màu sắc thuốc nhuộm, tạo thành những mảng sáng tối đối lập nhau, làm cho hình ảnh xuất hiện cảm giác lập thể và chân thật. Loại phương pháp này thường thấy ở nghệ thuật Gandhara Ấn Độ. Sau khi phổ biến ở Tân Cương, lập tức Vu Điền, Quy Tư tìm hiểu về nghệ thuật ấy, học hỏi cách tạo nếp gấp quần áo, độ sáng tối, xa gần, sâu thẳm nhiều lớp… trên gương mặt và cơ thể của các nhân vật trong bức hoạ, cũng như cách vẽ khoả thân, đồng thời lại tham khảo phương pháp và quan niệm nghệ thuật của hội hoạ trung nguyên, tạo ra phong cách Tây Vực và đặc sắc của hội hoạ địa phương, hình thành nên một trường phái hội hoạ.
Sau khi ông đến Đại Đường, càng phát triển loại hình nghệ thuật này. Sau đó, nhà Đường lần đầu tiên phá vỡ những quy tắc hội hoạ cua Trung Quốc trước đây, lấy nét bút làm chủ đạo, thể hiện bằng phác hoạ người trong tranh vẽ. Tranh sơn thủy dựa vào đó cũng hoàn toàn đổi mới, đặc biệt khi Vương Duy[36] vẽ bức tranh thủy mặc “Toại nguyện với phong tục Nam Tống” sau này. Có thể thấy được ảnh hưởng to lớn của phong cách trên.
[36] Vương Duy: nhà thơ, hoạ sĩ, nhà thư pháp và chính khách đời Đường.
Trong Chùa Từ Ân, Chùa Phụng Ân, Chùa Quang Trạch, Chùa Hưng Đường có lưu lại những bức bích hoạ ông vẽ, người đời Đường rất yêu thích tranh của ông.
Trục Lỗi dường như quá kinh hãi, mặt hơi giật nhẹ. Anh lắc đầu: “Không thể, tuyệt đối không thể là ông ấy.”
“Vì sao? Anh, trước khi chưa có kết quả giám định chính thức, chuyện gì cũng có khả năng xảy ra.”
“Em đừng nói nữa.” Anh phất tay, ngăn cô càng nói càng kích thích.
Ấn Thần rất ít nhìn thấy biểu hiện và hành động như vậy của anh, nhíu mày, lại đột nhiên ngửi được hương hoắc diệp nhàn nhạt từ trên người anh. Khi đến gần xác ướp nữ ở cổ mộ, cô cũng cảm giác mùi hương này, chẳng lẽ anh trai cô và xác ướp kia có tiếp xúc đặc biệt gì?
Nghĩ đến đây, vết sẹo trên trán lại bắt đầu đau, chân cô mềm nhũn, té xỉu ở trước lối vào cổ mộ.
Khi tỉnh lại, ngoài cửa sổ đã có bóng trăng sáng tỏ, đèn hoa rực rỡ.
Lần này hoàn toàn là một khung cảnh lạ lẫm, đèn đuốc sáng trưng, còn có rất nhiều dụng cụ và thiết bị hiện đại hoá. Hình như còn hơi rung lắc, có vẻ là một phòng thí nghiệm lớn.
Lâu Lan đeo bao tay, mặc quần áo lao động đứng trước mặt cô, mỉm cười nói: “Cô tỉnh rồi? Lúc nãy ngất xỉu thật sự là hù anh cô hoảng sợ. May mà chỗ này có một bác sĩ thực tập, khám cho cô rồi bảo không có việc gì, chỉ vì hơi mệt mỏi.”
“Anh tôi đâu?”
Lâu Lan chỉ vào một hướng, “Anh ấy đang cùng giáo sư Tiền nghiên cứu kia những dòng văn tự kia. Đúng rồi, tôi vừa mới kiểm tra niên đại của một mảnh cắt mỏng, là vật nằm trong quan tài ở cổ mộ. Dụng cụ phân tích cho kết quả là năm 632 sau công nguyên, cũng là năm thứ sáu Trinh Quán[37].”
[37] Niên hiệu vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân.
“Nói như vậy tôi đã đoán chính xác?”
“Cô đoán?” Ấn Thần gật đầu, “Tôi cảm thấy bích hoạ trong cổ mộ là do Uất Trì Ất Tăng vẽ.”
“Ừ, ông ấy là người Vu Điền. Cô cứ nói tiếp.”
“Thoạt nhìn những bích hoạ trong cổ mộ, đường cong lưu loát, khúc chiết, phập phồng, cảm giác lập thể rất mạnh. Xử lí từng chi tiết tỉnh táo lại độc đáo, ngay cả những nếp gấp quần áo phức tạp cũng có thể biểu hiện rõ ràng. Theo lí, suy luận như vậy thì người vẽ phải là Ngô Đạo Tử đời Đường. Nhưng, thứ nhất, Ngô Ngô Đạo Tử là hoạ sĩ đời Thịnh Đường, mà kết quả xem xét là từ thời kì Sơ Đường, đầu tiên là niên đại không phù hợp. Thứ hai, tư liệu lịch sử vẫn chưa từng công nhận Ngô Đạo Tử từng tự mình đến Đôn Hoàng vẽ tranh. Mà Uất Trì Ất Tăng là người Vu Điền, từ Vu Điền đến thành Trường An nhà Đường, Đôn Hoàng là nơi phải đi ngang qua. Tư liệu lịch sử từng ghi lại quốc vương Vu Điền đã hai lần đích thân tới Trường An, có thể thấy hai nước khá thân thiết. Huống chi bút pháp vẽ người của Uất Trì Ất Tăng cũng có những đặc thù kể trên, nên tôi cảm thấy người vẽ phải là Uất Trì Ất Tăng chứ không phải Ngô Đạo Tử.”p>
“Vậy theo ý cô, vì sao vị Uất Trì tiên sinh này lại vẽ bích hoạ kể chuyện cổ Kinh Phật trong một ngôi mộ của một cô dâu? Theo tôi được biết, thời điểm ấy, Phật giáo là quốc đạo ở Vu Điền, bản thân Uất Trì Ất Tăng là một người thành kính lễ Phật, ông ấy không lập gia đình, cuối cùng qua đời khi hơn trăm tuổi. Có lẽ phỏng đoán của cô cần thêm một số điều kiện nữa mới được.”
Ấn Thần trầm tư một chút, gật đầu.
Cô đi đến cửa sổ lớn sát đất, bên ngoài là Núi Minh Sa, danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất ở Đôn Hoàng, mơ hồ có thể thấy được bóng trăng trên mặt nước suối dưới chân núi, đủ để chứng kiến tài nghệ tuyệt vời của thiên nhiên.
“Muốn đi xem sao?” Lâu Lan đứng phía sau cô, hưng phấn hỏi. “Tôi có thể đi cùng.”
“Được, nếu cô không phiền.”
Hai người kề vai nhau đi khỏi phòng thực nghiệm kiểm tra các vật đã khảo cổ. Một vòng trăng tròn trịa treo trên bầu trời, những ngôi sao lưa thưa, trong màn đêm đen thẫm nhấp nháy, khung cảnh mĩ lệ ban đêm đi cùng với nước suối tuyền một màu cát vàng, yên tĩnh như thế, lặng lẽ như thế. Sẽ có tranh đấu, sẽ có mưu toan, sẽ có chính quyền luân phiên chính quyền; cũng có lữ khách dây dưa cùng lữ khách, nhưng ánh trăng vẫn muôn đời như nước, tản ra ánh sáng trong lành, thần thánh chứng kiến thế sự đổi dời.
Giữa mấy ngàn năm văn minh, có lẽ chỉ có ánh trăng là bình thản vô tình, ngày qua ngày năm lại năm khi lành khi khuyết, lạnh nhạt nhìn cuộc sống thăng trầm.
“Nguyệt hạ quân tử, bạch y vô trần. Thính tranh phủ khúc, bất nhạ tục thân[38].” Lâu Lan cất lên một làn điệu duyên dáng, trầm bổng uyển chuyển. Nguyệt Ấn Thần nhẹ nhàng hát theo, cùng cô ngâm nga.
[38] Quân tử dưới trăng, áo trắng không đượm trần, vỗ tranh đàn khúc, không đục tấm thân.
“Hình như tôi đã nghe bài hát này ở đâu rồi.” Hát xong, Ấn Thần nói yếu ớt. Khi nghe câu hát, cô cảm giác trong lòng dường như có thứ gì đè nén, có một nỗi khổ sở không nói nên lời.
Lâu Lan nhìn cô một cái, nói: “Tôi cũng mới học từ những người dân gần đây. Theo truyền thuyết, đêm trăng tròn leo lên Núi Minh Sa, cúi mặt xuống Suối Nguyệt Nha, ngừng thở, có thể nghe thấy bài hát cổ này. Có lẽ đã lưu truyền rất nhiều năm.”
Ấn Thần “Ừm” một tiếng, quay lưng về phía Lâu Lan, “Cô muốn tôi đến đây có chuyện gì? Chắc không chỉ là muốn nói cho tôi biết về truyền thuyết này?”
“Tôi chỉ cảm thấy giữa cô và tôi nhất định là có một duyên phận bí ẩn nào đó, hình như chúng ta biết nhau từ rất lâu trước đây. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô, tôi nhìn thấy ảo giác, trong đầu hiện ra quang cảnh một đám tiệc mừng toàn màu đỏ, một người đàn ông phong trần mệt mỏi xuất hiện ở cửa, anh ta thấy một cô gái đội mũ phượng khăn quàng vai trong khoảnh khắc cắm dao vào ngực...”
Ấn Thần bặm môi, trong mắt loé lên một tia sửng sốt: “Tôi cũng có ảo giác đó.”
“Sở dĩ tôi hẹn cô, là muốn tìm hiểu vài chuyện. Tôi cảm thấy từ khi phát hiện ra cổ mộ, rất nhiều người rất nhiều chuyện không còn giống với trước đây.”
“Cái gì không giống?” Cô nhíu mày, nhớ tới hương thơm trên người anh trai, mùi hoắc hương nhàn nhạt.
“Như chiếc vòng tay hôm qua, cô nói là quà tặng sinh nhật khi cô hai mươi tuổi?”
“Đúng, có vấn đề sao?”
“Tôi muốn nhìn lại.”
Ấn Thần nhìn Lâu Lan, cô ta đầy vẻ thành khẩn, “Tối hôm qua khi tôi tỉnh dậy đã không thấy tăm hơi, thế nào?”
Lâu Lan gật đầu, nói: “Buổi sáng tôi vào cổ mộ sau hai người, thấy cô khi nhìn xác ướp nữ kia thì đầy vẻ kinh hoàng. Chỉ là một xác ướp, không đến nỗi khiến cô lo sợ như vậy. Thật ra là vì cô thấy chiếc vòng trên tay xác ướp, đúng không?” Nhìn Ấn Thần dường như gật đầu, cô nói tiếp: “Hôm qua, khi tôi thấy vòng tay của cô cũng giật nảy mình, tôi nghĩ là Trục Lỗi lấy đồ từ cổ mộ ra để tặng cô, nhưng cô nói là quà tặng sinh nhật khi cô hai mươi tuổi, như vậy nó đã có từ ba năm trước đây. Nhưng cổ mộ mới khai quật tuần trước, chẳng lẽ Trục Lỗi được người tiên tri, ba năm trước đây đã tìm được một chiếc vòng giống nhau như đúc tặng cô?”
“Cô nói chuyện này không phải là trùng hợp?” Cô nhớ lại hành động và mùi trên cơ thể anh trai tối hôm qua, bỗng nhiên hoảng sợ. Chẳng lẽ anh cô thật sự có vấn đề?
Lâu Lan thở dài, “Tôi cũng không chắc chắn, chỉ muốn cô phải thật cẩn thận.”
Cả hai bắt đầu trèo lên Núi Minh Sa, Ấn Thần cố sức dẫm từng bước chân qua cát vàng, tiến về phía trước, khi cô hơi quay đầu lại, dấu chân trong nháy mắt đã không thấy đâu nữa.
“Lâu Lan, cô nhìn kìa.” Cô gọi Lâu Lan đang đi phía trước, hoảng hốt giữ chặt tay cô ấy. “Dấu chân! Dấu chân của chúng ta không thấy đâu hết.”
Lâu Lan cười cười, “Đừng ngại, là do hoàn cảnh đặc biệt ở Núi Minh Sa, cát ở đây không nằm yên mà luôn di động về phía trước, trám vào dấu chân của chúng ta. Cũng vì thế, Suối Nguyệt Nha dưới chân núi mới có thể tồn tại mấy ngàn năm mà không bị cát vàng vùi lấp.”
“Hình như cái gì cô cũng biết.” Cô kéo tay Lâu Lan, từng bước một men theo hướng cát bay leo dần lên, thật khó khăn, nhưng cô cũng không biết sức lực nào đẩy cô không ngừng tiến về phía trước, lên đến đỉnh núi.
Nơi đó tầm nhìn trống trải, gió nhẹ hiu hiu. Từ đỉnh núi quan sát, suối Nguyệt Nha phảng phất như người vợ xinh đẹp mà huyền bí của Núi Minh Sa, yên tĩnh nằm trong lòng chồng ngủ bình yên. Toàn bộ thế giới được tắm trong trăng, tạo thành một lớp áo màu trắng bạch sáng bóng, khiến người như chỉ nhìn thấy vẻ mặt trong sáng, tâm lặng như nước.
“Nguyệt hạ quân tử, bạch y vô trần. Thính tranh phủ khúc, vật nhạ tục thân.” Xa xa, quả nhiên truyền đến tiếng hát rõ ràng mà tươi đẹp, giống một khúc nhạc thiên giới, thấm vào suy nghĩ ngàn vạn sinh linh.
“Lâu Lan, cô nghe thấy không?” Cô nắm tay Lâu Lan, hỏi khẽ. Nơi nào đó trong cơ thể chảy ra một ít mồ hôi.
“Ừ.” Lâu Lan làm một động tác như bảo cô đừng ảnh hưởng đến tiếng hát trong truyền thuyết.
Theo hướng tiếng hát, Lâu Lan và Ấn Thần một trước một sau dè dặt đi qua, ánh trăng chiếu vào cát bắn ra những tia sáng thần bí, loáng thoáng dưới chân núi có thể thấy một cô gái áo trắng, tóc dài cong lưng, đang ôm đàn tranh ve vuốt.
Ấn Thần bất giác thốt lên: “Đó là...”
Đúng lúc này, di động của Lâu Lan vang lên, cô nhận điện thoại, trên mặt lập tức xuất hiện vẻ sợ hãi, da tái nhợt, Ấn Thần nghe cô run run nói: “Cái gì? Không thấy xác ướp đâu nữa?!”
Định thần lại, người con gái áo trắng cũng đột nhiên không còn dấu vết.
Trở lại phòng thực nghiệm, viện nghiên cứu nhìn qua từ trên xuống dưới vẫn thật bình thường. Giáo sư Tiền dẫn theo một vài nghiên cứu viên, vẫn thực hiện công việc như cũ. Nhưng trong mắt mỗi người đều tràn ngập nỗi lo âu không thể che dấu.
“Lâu Lan, hai người đã trở lại?” Dương Vanh – “bảo kiếm” đắc lực bên người giáo sư Tiền tài tướng đang trăm bận ngàn bịu ngẩng đầu lên, hỏi một câu, coi như chào.
“Thế nào? Đã tìm thấy chưa?” Ấn Thần vừa tới viện nghiên cứu, quan sát tình hình, trong lòng rất bất an.
“Không có.” Dương Vanh nhìn cô, nói: “Có điều đã phục hồi được bộ mặt xác ướp nữ như cũ, anh đang chờ máy tính tổng hợp, sẽ có kết quả ngay.”
Lâu Lan suy sụp tinh thần, cúi đầu, ngồi ghé vào một góc trên một cái ghế, bỗng thấy cộm như có một vật cứng phía dưới. Lấy ra thì thấy là vòng tay mà Ấn Thần đã mất. Sắc mặt cô tái nhợt, gọi Ấn Thần, cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh: “Vòng tay của cô...”
Ấn Thần cũng như bị điện giật, ngơ ngác đứng lặng.
Dương Vanh mịt mờ nhún nhún vai, thì thào: “Thật sự là thấy quỷ.”
Trên máy tính thượng đã xuất hiện bộ mặt xác ướp nữ được phục hồi như cũ, hai mắt anh nhìn chằm chằm vào màn hình, bất giác há to miệng.
“Lâu… Lâu Lan?”
Lâu Lan đã nhận ra sự bất thường của anh, nhưng vừa đi qua nhìn, cũng trợn to hai mắt.” Cái gì? Tại sao có thể như vậy?” Cô lắc đầu lia lịa, như không thể tin được chuyện trước mắt. Ấn Thần hít một hơi khí lạnh, cảm giác mọi chuyện càng ngày càng phức tạp. Bởi vì gương mặt của xác ướp chính là bản sao gương mặt Lâu Lan.