Lại nói, sau khi thương đoàn của gã Cát Ti đi được ít lâu thì bọn Phạm Thế Căng đến. Cùng đi với gã có Phạm Thế Hưng và Phạm Đống Cao. Gã ta bái kiến Giang Phong, rồi hoan hỉ nói:
- Tiểu tướng đến từ biệt đại nhân để vào nam nhậm chức. Triều đình đã phong cho tiểu tướng làm Nam trấn An phủ sứ, tổng quản việc quân chính các châu ở Tân Bình và Thuận Hóa để chống nhau với quân Chiêm. Triều đình còn hứa sẽ cung cấp quân lương cho 1 vạn quân binh để trấn giữ các châu. Nhưng quân binh phải do chúng ta tự chiêu mộ. Quân triều đình hiện tại đều sẽ theo Đặng Tất về kinh.
Quảng Tế Pháp sư ngạc nhiên hỏi:
- Tổng quản cả việc quân chính ư? Lại còn cho tự chiêu mộ quân binh nữa. Triều đình yên tâm phóng quyền như thế hay sao?
Thật ra thì dùng 1 vạn quân binh để chống quân Chiêm Thành là không nhiều. Nhà Hồ 2 lần đánh Chiêm Thành thì 1 lần sử dụng 15 vạn, chiếm được đất Thăng Hoa; lần thứ 2 sử dụng 20 vạn, tiến được đến đất Đồ Bàn, nhưng không chiếm được, hao binh tổn tướng phải rút về mà không làm nên công trạng gì. Do đó, Lê Quý Ly cấp cho 1 vạn suất quân lương chỉ là để mộ binh phòng thủ và có cơ hội thì quấy nhiễu quân Chiêm mà thôi. Nghe Quảng Tế Pháp sư hỏi vậy, Phạm Thế Hưng cười nói:
- Chúng ta vô hạn khoa trương thực lực của quân Chiêm, lại vô hạn tuyên truyền sự bất lực của quân triều đình. Xứ đó lại toàn dân Chiêm, chẳng có mấy người Việt, mỗi năm chẳng thu được bao nhiêu phú thuế mà lắm sự phát sinh, hao tốn rất nhiều lương tiền. Phía nam lại có quân Chiêm lăm le dòm ngó. Bên trong thì dân Chiêm thường xuyên nổi loạn, dẹp mãi không hết. Trong triều lại đang có nhiều việc, Lê Quý Ly muốn Đặng Tất kéo quân về triều để tăng cường thế lực của mình, tiện cho việc thoán đoạt sau này. Vì thế mà các xứ Tân Bình và Thuận Hóa được hợp lại thành Nam trấn, giao cho Thế Căng làm An phủ sứ với nhiệm vụ duy nhất là chống quân Chiêm.
Việc Lê Quý Ly muốn thoán đoạt ngôi báu của nhà Trần lúc này không ai lạ gì. Mọi người đều biết chuyện đó chắc chắn sẽ xảy ra, vấn đề là sớm hay muộn mà thôi. Dù muốn hay không, mọi người đều phải chấp nhận sự thật đó. Những thế lực chống đối đều đã bị Lê Quý Ly tiêu diệt từ nhiều năm trước. Ngay cả tôn thất nhà Trần, nhiều người cũng tỏ ra thân thiện với Lê Quý Ly, như quan Tư Đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán, người có uy vọng nhất trong các tôn thất lúc bấy giờ, lại cùng Lê Quý Ly làm thông gia. Thế cũng đủ biết nhà Trần hiện đã mất lòng dân lắm rồi, khó giữ được nữa. Đối với dân chúng lúc này, ai làm vua cũng vậy, miễn sao đừng ảnh hưởng đến cuộc sống của họ thì thôi. Phạm Thế Căng lại hứng khởi nói thêm:
- Sứ giả của chúng ta đến kinh đô, Lê Quý Ly có gọi vào hỏi riêng rằng chúng ta thấy họ Trần với họ Lê ai hơn. Sứ giả của chúng ta đáp rằng: chúng ta chỉ quan tâm việc đánh Chiêm Thành, hễ ai ủng hộ chúng ta chống quân Chiêm thì chúng ta không phản đối người đó. Kết quả tiểu tướng trở thành Nam trấn An phủ sứ, và có thêm 1 vạn suất quân lương.
Giang Phong khẽ mỉm cười. Bọn họ chỉ bảo là không phản đối chứ không nói ủng hộ, quả là lo nghĩ chu toàn, chưa gì đã tính đường lui rồi. Quảng Tế Pháp sư gật gù nói:
- Xem ra Lê Quý Ly không định chờ đợi lâu nữa rồi, do đó mới gọi Đặng Tất đem quân về kinh.
Đặng Tất về kinh chứ không làm Tri châu Hóa Châu nữa, xem ra bánh xe lịch sử đã chuyển hướng rồi. Giang Phong không ưa cái lối gió chiều nào ngả theo chiều đó của Đặng Tất, nên không muốn y ở lại Hóa Châu, vùng nội định thế lực của Giang Phong sau này. Giang Phong cần Hóa Châu (tức vùng Thừa Thiên - Huế ngày nay, một số nhà ngôn ngữ học cho rằng từ Huế là do từ Hóa đọc trại ra, cũng giống như Hoa và Huê) để làm bàn đạp kiểm soát đất Thăng Hoa (lúc ấy còn là đất Chiêm Động và Cổ Lụy của Chiêm Thành), mở mang thế lực của mình.
Đặng Tất là nhân vật gây nhiều tranh cãi. Dù nhiều người khen Đặng Tất là biết thẩm thời độ thế, nhưng cũng có người cho rằng họ Đặng ‘có hai nhân cách’, ‘có hai mặt’. Giang Phong không thích y, cũng không thấy y xứng đáng là tướng tài, bất quá chỉ là tướng giỏi mà thôi. Chỉ qua cách y cư xử với Giản Định Đế thì biết. Y giúp Giản Định Đế đánh chiếm được 4 châu, Giản Định Đế phong cho y thống lãnh 2 châu ở phía nam, tức là một nửa địa bàn của nhà Hậu Trần lúc bấy giờ rồi, lại còn gia phong Hạ Quốc Công, tước này cực lớn, chỉ ở dưới vua và Thượng Quốc Công, mà xưa nay chỉ có Hưng Đạo Đại Vương sau 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông mới được gia phong Thượng Quốc Công (Thượng, Hạ Quốc Công là một tước vị đặc biệt ở Đại Việt, chỉ ở dưới vua, trên cả tước vương; giống như tước Diễn Thánh Công bên Tàu thời nhà Thanh). Thế mà y bất mãn, cho rằng phong thưởng không hậu, giả ý đem quân về Hóa Châu, không giúp Giản Định Đế đánh quân Minh nữa. Tương truyền, y có nói với bộ hạ: “Cả 4 châu đều do ta chiếm được, thế có khác nào đất đai của ta đâu, vậy mà triều đình chỉ phong cho ta có 2 châu, thôi thì ta về giữ đất của ta”. Trước tình hình đó, Giản Định Đế buộc phải tăng thêm quyền lực cho (tước vị không thể tăng thêm nữa), được quyền điều quân không phải tâu vua. Cũng từ đó mà gây nên bất mãn dẫn đến họa sát thân sau này. Còn trước đó, năm 1391 (9 năm trước khi họ Hồ cướp ngôi nhà Trần), để lấy lòng Lê Quý Lý (sau khi xưng đế mới đổi sang họ Hồ), Đặng Tất đã tố cáo hai tướng trấn thủ Hóa Châu là Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê có ý bất mãn về việc Quý Ly chuyên quyền và có ý thoán đoạt, nên được tin dùng và phong làm Đại tri châu Hóa Châu. Người như thế, tốt nhất là nên đưa đi khỏi Hóa Châu, để khỏi ảnh hưởng đến đại sự của Giang Phong.
Giang Phong hỏi:
- Đặng Tất được phong chức gì?
Phạm Thế Căng nói:
- Gã được phong làm Đô tướng, coi quân Thần Vũ.
Giang Phong ngẫm nghĩ một lúc, hỏi:
- Hiện các châu ở Nam trấn do ai quản lĩnh?
Phạm Thế Căng nói:
- Hóa Châu do Đặng Tất rời đi nên tạm khuyết, Thuận Châu do Nguyễn Phong làm trấn thủ, châu Minh Linh do Nguyễn Lỗ làm trấn thủ, châu Lâm Bình do Đào Duy Liêm làm Thiêm phán, châu Bố Chính do Dương Vũ làm tri châu, còn phủ Tân Bình thì do Lý Đức Tông làm trấn phủ sứ.
Giang Phong thoáng cau mày. Nghe nhắc đến Nguyễn Phong và Nguyễn Lỗ, Giang Phong lập tức có ấn tượng không tốt, nhưng lại không thể nhớ ra bọn họ là người thế nào. Nhưng nếu đã khiến Giang Phong có ấn tượng không tốt, chắc bọn họ cũng có vấn đề gì đó. Vì thế Giang Phong nói:
- Đề nghị Đặng Tất dẫn theo Nguyễn Phong và Nguyễn Lỗ về kinh, lấy lý do là hai người này có quan hệ thân cận với Nguyễn Đa Phương, để lại không tiện.
Nguyễn Đa Phương là đại tướng của nhà Trần, trước đây đã cùng Lê Quý Ly chống quân Chiêm. Quý Ly đánh thua, còn Đa Phương thì đánh thắng. Sau vì chê bai Quý Ly bất tài nên bị hại. Thật ra thì Nguyễn Phong và Nguyễn Lỗ bị các sử gia xem là kẻ phản trắc. Khi quân Chiêm tấn công Thăng Hoa, Đặng Tất chống cự không nổi, rút quân về Hóa Châu thì Nguyễn Phong đóng cửa thành không cho vào, còn Nguyễn Lỗ thì chặn đánh. Sau Nguyễn Phong bị Đặng Tất bắt giết đi, Nguyễn Lỗ bại trận chạy vào nam đầu hàng Chiêm Thành, được trọng dụng. Nhà Minh sang, sai người dụ hàng, hứa sẽ phong làm quan ở bên Tàu, Lỗ theo, bị giết đi. Giang Phong không nhớ rõ sự tích của hai người bọn họ, nhưng do có ấn tượng không tốt nên cũng không muốn dùng. Phạm Thế Căng không hiểu, hỏi:
- Cả hai đều là tướng giỏi. Sao lại gửi bọn họ về kinh?
Giang Phong nói:
- Ta xem cả hai đều có phản tướng, dùng không có lợi.
Đó là lý do mà Khổng Minh Gia Cát Lượng trong Tam Quốc Chí ưa dùng. Giang Phong lần này học theo, và bọn Phạm Thế Căng không nghi ngờ gì. Cả bọn còn cùng nhau nghĩ ra thêm nhiều lý do để đẩy hai người họ đi. Không ai muốn trong số thủ hạ có người có phản tướng cả. Tiếp đó, Giang Phong lại hỏi:
- Việc chiêu mộ quân binh, các ngươi định lẽ nào?
Phạm Thế Căng nhăn nhó than:
- Xứ này đất rộng người thưa, mộ quân không dễ a!
Phạm Thế Hưng gật đầu nói:
- Đừng nói là 1 vạn, ngay cả 4, 5 nghìn cũng không đơn giản.
Giang Phong mỉm cười nói:
- Ta không bảo các ngươi mộ 1 vạn quân binh. Xứ Tân Bình, Thuận Hóa đồng bằng nhỏ hẹp, toàn là đồi núi, nhiều nơi hiểm trở dễ thủ khó công, 3.000 quân là đủ rồi. Lấy 1.000 quân trấn giữ Hải Vân Quan, 500 quân trấn giữ đèo Ngang, số còn lại giữ trị an trong vùng.
Nếu chỉ lo phòng thủ thì như thế cũng tạm ổn. Thế là mọi người bàn bạc việc mộ quân, cuối cùng quyết định Phạm Thế Căng sẽ lấy 500 dân binh Kiềm Châu, 500 dân binh của Đông Giang tộc, 500 dân binh của các tộc trong vùng, ra Nghệ An mộ thêm 500 quân nữa. Số còn lại vào trong đó sẽ chiêu mộ dân bản địa. Có được quân lương, mộ hơn nghìn quân binh có lẽ cũng không khó lắm. Giang Phong còn dặn nếu có thể thì nên dùng cả người Chiêm, đừng nên kỳ thị.