Hồ Sinh Tử

Chương 45:




Đầu xuân năm 1994, lần đầu tiên cô bước vào tòa nhà bộ môn toán của trường cấp 3 Nam Minh, bên ngoài khung cửa sổ mưa rơi tí tách, văn phòng giáo viên ẩm ướt lạnh lẽo, mặc quần áo mùa thu cũng vẫn phải run lẩy bẩy.
Sáu năm xa cách, Thân Minh đã là một người đàn ông trưởng thành, một giáo viên ngữ văn cấp 3 khiến người ta phải ngưỡng mộ, Âu Dương Tiểu Chi còn nhớ gương mặt của anh khi đó. Thế nhưng cô đã không còn là cô bé 11 tuổi đói rách lang thang sống trong khu nhà ổ chuột nữa. Cô xách chiếc cặp hai màu đen trắng, mặc chiếc áo len trắng dài ngang gối, để kiểu tóc dài xõa vai hiếm gặp ở nữ sinh thời bấy giờ. Chỉ những diễn viên trong phim Hong Kong mới ăn mặc phục sức như vậy mà thôi.
Làn da cô cực kỳ trắng, trắng đến mức dường như thiếu máu, nhưng đôi mắt đen huyền lại khiến người ta khó quên, mũi và miệng đều rất tinh tế, cứ như bản sao thiếu nữ của Vương Tổ Hiền. Dù nhìn thế nào đi nữa thì cô thiếu nữ 17 tuổi này cũng là con cái của một gia đình danh giá.
Cô cũng rất hiếm khi xuất hiện, đây là trường cấp 3 trọng điểm của thành phố, chỉ những học sinh xuất sắc vượt qua kỳ thi cấp 2 mới có thể vào được, trừ con cái của những cán bộ cao cấp, từ trước tới giờ chưa từng có học sinh chuyển vào giữa chừng.
“Chào thầy ạ, em là Âu Dương Tiểu Chi.”
Cô nhỏ nhẹ cúi mình chào, tựa như gió xuân tươi mát, Thân Minh chưa từng gặp học trò nào lễ phép như thế, anh hơi bối rối nói: “Chào mừng em, trò Âu Dương, tôi là Thân Minh, chủ nhiệm của lớp B, cũng là giáo viên ngữ văn của em, để tôi dẫn em đi gặp các bạn trong lớp nhé.”
Trong văn phòng chẳng còn ai khác, dường như anh không muốn ở một mình với cô học trò này.
Đến phòng học hun hút gió, Tiểu Chi vẫn khom người lễ phép như trước: “Chào các bạn, mình là Âu Dương Tiểu Chi.”
Thân Minh chỉ định cô và Liễu Mạn ngồi cùng một bàn.
Ngồi phía sau là Mã Lực, mái tóc Tiểu Chi dài như dòng suối đen nhánh, tràn qua lưng ghế, rơi xuống mặt bàn phía sau. Vài nam sinh vươn cổ ra nhìn, ánh mắt xuyên qua chiếc áo len trắng như tuyết trên bờ vai cô, nhìn thấy đôi tay thanh mảnh trắng trẻo của cô đang lấy hộp bút và sách vở ra, đặt ngăn nắp trước mặt. Liễu Mạn mặc cả cây đỏ cực kỳ nhiệt tình giúp bạn học mới dọn dẹp giấy rác dưới ngăn bàn.
Những hạt mưa dày đặc đan vào nhau trùng điệp cứ quất vào khung kính cửa sổ cạnh nơi cô ngồi, mấy bông hoa sơn trà nở sớm run rẩy giữa tiết xuân lạnh. Thầy Thân Minh đã vào lớp dạy tiết ngữ văn, hôm nay học bài “Tưởng nhớ Lưu Hòa Trân”, thầy dùng phấn viết lên bảng đen: “Tôi sẽ lấy cái đau thương rất lớn của tôi phơi bày ra giữa nơi không phải người ta ở, khiến chúng nó thỏa thuê ở sự đau thương cay đắng của tôi, rồi đem nó làm của lễ đơn bạc của kẻ chết sau dâng tế linh hồn kẻ đã khuất.”
Bỗng nhiên, Âu Dương Tiểu Chi quay đầu lại, khẽ gật đầu với hai nam sinh ngồi phía sau, khẽ mở miệng nhưng không phát ra âm thanh, thì ra cô chỉ đang dùng khẩu hình để nói với họ: “Xin được giúp đỡ nhiều nhé!”
Rất nhanh, cô hòa nhập được vào ngôi trường mới, thân thiết với mấy cô nữ sinh khác, nhất là bạn cùng bàn Liễu Mạn. Nam sinh dĩ nhiên đều săn đón cô, nhưng với họ, Tiểu Chi đều rất lạnh nhạt, thường xuyên cự tuyệt hết sức nhẹ nhàng.
Thầy chủ nhiệm Thân Minh dường như ngờ ngợ đã từng gặp cô, Tiểu Chi ngờ rằng phải chăng anh đã nhận ra cô? Nhưng nghĩ lại, con gái mười tám thay đổi biết bao nhiêu, sớm đã là con người khác hẳn so với sáu năm trước, lẽ nào chỉ riêng ánh mắt thôi cũng đủ tiết lộ bí mật rồi? Suốt mấy tuần liền, trừ những lúc trò chuyện trên lớp học, không một lúc nào thầy giáo ở riêng hai người với cô. Nhưng quan hệ giữa thầy và các bạn học đều rất tốt, Liễu Mạn thường gặp thầy để hỏi bài, thầy còn thường xuyên chơi bóng rổ với bọn Mã Lực nữa.
Giáo viên đối xử với cô tốt nhất ở trường cấp 3 Nam Minh là một cô giáo dạy nhạc xinh đẹp, vừa tốt nghiệp trường sư phạm đã được phân về đây, giờ đây đã thuyên chuyển về một trường cấp 2 nữ sinh. Năm đó người ta không coi trọng các môn âm nhạc hay mĩ thuật, học kỳ 2 lớp 11 rất ít những tiết này, ấn tượng của cô với giờ âm nhạc chỉ dừng lại ở những lúc được nghe cô giáo chơi đàn dương cầm. Bài kiểm tra âm nhạc cuối cùng là hát theo tiếng đàn. Có người hát nhạc của tứ đại thiên vương, có người hát “Tân uyên ương hồ điệp mộng”, cô giáo cứ điềm nhiên đệm nhạc cho những bài hát đang thịnh hành ấy, riêng Tiểu Chi lại chọn bài hát “Tổ quốc tôi” trong sách giáo khoa, lúc đó cô chỉ nghĩ, làm một cô giáo chẳng phải là rất tuyệt hay sao. Có bạn nam còn chép tặng cô bài “Đoản Khúc” của Biện Chi Lâm: “Em đứng trên cầu ngắm trời mây, người ngắm trời mây đứng ngắm em, trăng điểm tô khung cửa em rực sáng, em tô hồng thêm giấc mơ bao người.” Từ đầu đến cuối cô đều chẳng thèm đếm xỉa đến những mẩu giấy lãng mạn ấy, trừ bạn cùng bàn và cùng phòng ký túc là Liễu Mạn ra, cô luôn duy trì khoảng cách vừa phải với những người xung quanh, không chán ghét cũng chẳng gần gũi, không ngờ mười mấy năm sau, bài thơ ấy đã được đưa vào sách giáo khoa văn lớp 10.
Trước giờ Âu Dương Tiểu Chi chưa từng nhắc đến nguyên nhân cô chuyển trường, nhưng có thầy giáo nọ vô tình tiết lộ bí mật - bố cô từng là một quân đoàn trưởng, đã lập công lớn rồi hy sinh, được truy phong là liệt sĩ cách mạng. Tiểu Chi và mẹ nương tựa vào nhau mà sống cho đến tận bây giờ, cô còn là một học sinh ưu tú xuất sắc và hiếu học, trước kia vốn cũng học ở một trường cấp 3 trọng điểm trong thành phố, nhưng không rõ đã xảy ra chuyện gì mà phải chuyển vào học ở một trường có chế độ nội trú. Vì cô là con liệt sĩ nên Bộ giáo dục có chính sách ưu tiên, chuyển cô vào trường cấp 3 Nam Minh này.
Thực ra, bố cô không phải là liệt sĩ.
Năm 2012, tiết xuân lạnh lẽo buốt giá.
Cô đã không còn là cô nữ sinh cấp 3 mặc áo len dài màu trắng nữa, mà đã trở thành cô giáo ngữ văn mặc chiếc áo khoác màu trắng phối tinh tế với đôi bốt cao cổ. Đêm nay, bầu trời sao trong trẻo đến lạ kỳ, rặng trúc đào vẫn còn chưa nở hoa. Tiểu Chi một thân một mình đi xuyên qua sân vận động, rảo bước tiến vào tòa nhà tổng hợp, mở cánh cửa nhỏ ở tầng 4 để ra sân thượng. Đây là nơi cô thường tới hồi học cấp 3, giờ chẳng còn mấy học sinh biết đến sự tồn tại của nơi chốn bí mật này. Cô cúi đầu nhìn xuống bên dưới, thầy An đang loanh quanh dưới sân vận động, cái anh chàng này sống chết cũng phải mời cô đi ăn cơm tối, tuy cô đã trực tiếp từ chối hai lần, nhưng anh ta vẫn cứ quấn chặt lấy không buông. Cũng chỉ có trốn ở đây anh ta mới vĩnh viễn không thể tìm tới được.
Ánh trăng sáng vằng vặc, gió lạnh thổi hắt hiu, mái tóc cô chợt tung bay. Cô cảm thấy sau lưng có người, quay lại thì bắt gặp gương mặt của một thiếu niên 17 tuổi.
“Tư Vọng, sao em lại ở đây?”
“Suỵt!” Cậu đặt ngón trỏ lên môi, “Đừng để anh ta nghe thấy!”
Tiểu Chi hiểu ý gật đầu, cậu bước tới lan can sân thượng, cúi đầu nhìn xuống xem xét.
“Sao thầy ấy lại theo đuổi cô?”
Cậu hạ thấp giọng, sợ gió thổi âm thanh xuống dưới lầu.
“Chuyện của các thầy cô, không liên quan gì đến học sinh.”
Cô tỏ ra dáng vẻ nghiêm trang trên lớp học, chỉ còn thiếu mỗi cây roi nữa thôi.
“Em đang lo cho cô.”
“Trò Tư Vọng, hãy gọi tôi là cô Âu Dương!”
Tuy vẻ cô nghiêm khắc nhưng cô vẫn hiểu ý của Tư Vọng, hạ giọng xuống mức nhỏ nhất, gần như thì thào bằng hơi thở, nghe ra có vẻ hơi buồn cười.
“Được rồi, Tiểu Chi.”
Câu trả lời của Tư Vọng lại càng khiến cô luống cuống: “Cô không ép em nữa! Nhưng cô muốn biết nửa đêm rồi sao em còn chưa về ký túc xá ngủ?”
“Không ngủ được.”
“Em theo dõi cô phải không?”
“Không phải, là em tình cờ nhìn thấy cô trên sân vận động, thầy An bám theo sau cô, em sợ thầy ấy bắt nạt cô.”
“Nhưng sao em lại biết tôi sẽ trốn ở đây?” Cô vuốt phẳng lại váy cho ngay ngắn, sợ cậu nhìn thấy phía sau, “Không thể nào! Không ai biết về cánh cửa nhỏ trên sân thượng hết! Trừ phi...”
“Em biết.”
Cậu làm động tác bảo cô giữ yên lặng, dưới ánh đèn tù mù, thầy An thất vọng tràn trề đang bước ra khỏi cổng trường.
“Tư Vọng, rốt cuộc em là ai?”
“Em đã từng tới đây.” Cậu vắt tay lên lan can sân thượng, “Rất nhiều năm về trước.”
“Em mới tí tuổi đầu mà dám nói với cô là rất nhiều năm trước à?”
“Mười bảy năm trước, cô cũng đứng ở nơi này, liêu xiêu tựa như sắp rơi xuống, có người giữ cô lại từ phía sau, nếu không cô đã rơi xuống dưới kia và chết rồi. ”
“Im miệng!”
Cuối cùng, sắc mặt Âu Dương Tiểu Chi đã hoàn toàn thay đổi, cô vừa bước vài bước toan rời đi đã quay đầu lại, muốn nói lại thôi.
“Thật ra, cô muốn tự sát.”
“Cô không muốn!” Cô cúi đầu không dám nhìn vào mắt đối phương, “Cô... cô chỉ là... buổi tối nhức đầu nên muốn ra ngoài hóng gió, không cẩn thận nên trượt chân thôi mà...”
“Ngày đó cô đâu có nói vậy! Cô nói từ khi bước vào ngôi trường này, đã có người phao tin đồn nhảm về cô, rồi một đồn mười, mười đồn trăm, thêm mắm dặm muối, chứ thực ra cô là một cô gái ngoan, không dám chuyện trò gì nhiều với bạn nam, càng không dám giao du với đám thiếu niên cá biệt, chẳng qua cô chỉ là đối tượng tán tỉnh trêu chọc của người ta mà thôi! Có phải như thế không?”
“Đúng, tôi đã từng nói như thế, sao em lại biết được?”
“Năm 1995, ngay trên sân thượng này, vào một đêm mùa xuân cô đã nói ra rất nhiều lời từ tận tâm can, rằng nếu chỉ nhằm vào một mình cô thôi thì cô vẫn có thể chịu đựng được, thế nhưng học kỳ 2 năm lớp 12, những lời đồn đại càng ác ý hơn, thậm chí còn liên lụy đến cả bố mẹ cô, đấy mới là điều mà cô không thể chịu đựng được nhất. Nếu cứ ở lại đây, sẽ mãi mãi không thể chứng minh mình trong sạch, là học sinh sắp thi đại học, đã chuyển trường một lần, không thể tiếp tục chuyển trường nữa, cô đã không còn nơi nào để dung thân nữa rồi.”
Năm 1995, ngay trên sân thượng này, vào một đêm mùa xuân, cô đã giãy giụa như một chú mèo đang sợ hãi, hai người ngã lăn xuống bùn nước, vòng tay anh ôm chặt eo cô, ấm áp tựa miếng bọt biển. Tiểu Chi ngừng chống cự, đôi má lạnh băng còn vương những giọt lệ nóng hổi, cô nhìn lên những vì sao lấp lánh khắp trời, cô hít sâu một hơi, khuôn ngực phập phồng. Cô quay đầu lại, nhìn thấy gương mặt của thầy.
Thân Minh là giáo viên chủ nhiệm kiêm thầy dạy ngữ văn của lớp cô, thường xuyên sống trong ký túc xá. Hôm đó tình cờ đúng vào phiên trực ban, thầy đang đi tuần thì thấy trên sân thượng tòa nhà tổng hợp thấp thoáng bóng người, sợ rằng có người muốn tự vẫn nên xông lên cứu. Nhiều năm sau, cô vẫn nhớ như in mẩu đối thoại đó:
“Tiểu Chi, xin em đừng chết.”
“Tại sao?”
“Nếu em chết đi rồi, chẳng phải là tôi thiệt thòi lắm sao, bảy năm trước tôi xông vào đám cháy đó, suýt nữa bị thiêu chết, chẳng phải để em có thể tiếp tục sống thật tốt hay sao!”
“Thầy nhận ra em rồi ư?”
“Từ ánh mắt đầu tiên tôi đã có cảm giác mình từng gặp em rồi, sau đó mới phát hiện em hơi kỳ lạ nên bắt đầu âm thầm để ý đến em. Không ngờ mấy năm trôi qua em đã lớn thế này rồi, em thường hay ngẩn người nhìn về bãi đất hoang đối diện trường học, có lúc lại còn một mình đi về khu Ma nữ, nên tôi mới nhớ ra cô bé ngày xưa.”
“Thầy Thân, em cứ tưởng thầy sẽ mãi mãi không bao giờ nhận ra em nữa.”
“Quà em tặng cho tôi, giờ tôi vẫn còn giữ mà.”
“Đây là lần thứ ba thầy cứu mạng em, lần này em biết lấy gì để đền ơn thầy đây?”
“Món quà mà thầy mong được nhận nhất chính là mỗi ngày có thể nhìn thấy em sống thật vui vẻ.”
Âu Dương Tiểu Chi hiểu ý mỉm cười, rồi sau đó không kiêng dè gì nữa mà cười phá lên, cười đến mức tưởng như toàn trường đều có thể nghe thấy.
Ngày hôm sau, rất nhiều học sinh đều nói rằng đêm qua nằm mơ thấy ma nữ gào thét điên loạn.
Năm 2012, cũng là một đêm xuân buốt giá, Tiểu Chi đứng trên sân thượng của khu nhà tổng hợp, ánh trăng rọi xuống bờ mi ướt đẫm.
“Trò Tư Vọng, em nghe được những chuyện này từ đâu?”
Đối diện với ánh mắt hoảng loạn của cô, cậu thiếu niên chỉ vào đầu của chính mình.
“Em bị bệnh tâm thần có phải không? Học kỳ trước có phải chính em đã lén lút nhét mẩu giấy chép bài thơ của Hoàng Trọng Tắc vào bàn làm việc của cô không?”
“Đúng vậy!”
Gió lạnh ào ạt thổi trên sân thượng, Tiểu Chi sững người một lúc lâu rồi đột ngột giơ cánh tay lên, tát một cái thật mạnh vào mặt cậu.
“Đê tiện! Vô liêm sỉ! Cậu có biết cậu đang làm gì không?” Cô không kìm được thét lớn, mặc cho nước mắt nước mũi đầm đìa, “Tư Vọng, tôi cầu xin em, đừng tiếp tục bám lấy tôi nữa! Em cũng không muốn gặp phiền phức đúng không, trò chơi này không vui một chút nào hết! Em có hiểu không hả?”
“Chính cô không hiểu thì có.”
Trên mặt cậu hằn năm vệt ngón tay của cô, cậu vẫn đứng bất động, đôi mắt không chút thay đổi.
“Xin lỗi em, cô phải làm cho em tỉnh lại!” Cô bước tới xoa vào gương mặt Tư Vọng, năm ngón tay mảnh dẻ lạnh như băng, “Cô là cô giáo Âu Dương của em, 35 tuổi, không còn trẻ nữa, vài năm nữa thôi sẽ giống như mẹ của em. Em mới 17 tuổi, lại đẹp trai thế này, sẽ có rất nhiều cô gái thích em.”
“Điều đó không quan trọng.”
“Nghe này con trai! Tất cả những gì em vừa nói đều xảy ra trước khi em ra đời! Hơn nữa, em có biết không, thầy giáo cứu cô ở nơi này sớm đã qua đời rồi!”
“Tiểu Chi, tôi biết, anh ta chết lúc 10 giờ đêm ngày 19 tháng 6 năm 1995.”
Tư Vọng bình tĩnh nói ra thời gian Thân Minh qua đời, tựa như trả lời một câu hỏi vô vị nhạt nhẽo trong giờ ngữ văn.
“Dừng lại đi!”
“Cô sợ ư?”
“Tư Vọng, em có âm mưu, nửa năm nay từ khi vào trường Nam Minh, em cứ luôn lén lút thu thập mọi chuyện về tôi phải không? Có phải em đã đọc nhật ký của anh ấy, đã bắt chước nét chữ của anh ấy không?”
“Anh ta trước nay chưa bao giờ viết nhật ký cả.”
“Vậy em đã đi tìm Mã Lực phải không?”
“Cô thực sự không liên lạc chút nào với bạn học cũ hay sao?”
“Đừng có giả làm người lớn nữa! Xin em đừng có lại gần tôi, càng đừng nên thích tôi, bởi vì... tôi có độc!”
“Độc?”
Tư Vọng bất giác gật đầu.
“Xin em hãy nhớ cho kỹ, bất cứ người đàn ông nào, chỉ cần lại quá gần tôi, nhất định sẽ chết!”
“Tôi tin.”
Nước mắt đã bị gió thổi khô tự bao giờ, sắc mặt cô dưới ánh trăng chẳng khác nào ma nữ, cô phát ra âm thanh từ cuống họng: “Tắt đèn rồi quay lại phòng ngủ đi, đừng vi phạm nội quy quản lý ký túc xá của nhà trường.”
Nói đoạn, Tiểu Chi quay đầu xông ra cửa, để lại cậu một mình trên sân thượng tầng 4. Ở bên kia, đối diện với sân vận động, căn gác nhỏ bí ẩn trong thư viện lại một lần nữa sáng đèn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.