Họa Quốc

Chương 76:




“Khi Vương thị đắc sủng, cả Vương gia đều phất lên đặc biệt là Vương phụ, nắm trong tay đến bảy phần quyền lực của Bích quốc, bắt đầu tiến hành chèn ép Cơ gia. Cha con nhu nhược, không có chủ ý, khi suy sụp nhất ngoài cái phong hiệu hầu gia ra, không có bất cứ thực quyền nào. Mắt ta nhìn thấy Cơ thị sa sút, cảm thấy không thể tiếp tục như thế nữa. Vì thế, chọn một người từ Cơ gia để đưa lên ngôi vị người thừa kế, trở thành một việc vô cùng cấp thiết. Khi đó ta vừa hay mang thai con, cho nên dự định ban đầu của ta là đưa con vào cung, nhưng chẳng ngờ con vừa chào đời đã mang bệnh tim, suýt nữa thì chết yểu. Đại phu nói nếu không thể điều dưỡng cẩn thận, thì không sống được đến ba tuổi. Ta nhất thời mềm lòng, không nỡ đưa con đi, huống hồ dưới sự chuyên quyền của Vương thị, nếu trong cung có hoàng tử khác ra đời, chắc chắn hoàng tử đó sẽ phải chịu khổ. Như thế, ta lại đợi thêm một năm nữa. Năm Gia Bình thứ mười một, ta có Chiêu Doãn”.
Cơ Anh không kìm được hỏi: “Cho nên mẹ tiến hành ép buộc tiên đế, để ngài không thể không nhận đứa con này?”.
“Không phải. Sao mẹ dám uy hiếp tiên đế? Mẹ chỉ mua chuộc một thái giám ở bên cạnh ngài, sắp xếp để tiên đế có một cuộc gặp gỡ mỹ nhân nghe hát bên hồ mà thôi. Nhưng khi đó tất cả tâm tư của Hành Xu đều dồn vào Trăn phi, tuy đã lâm hạnh cung nữ đó, nhưng quay đầu là quên. Có điều cũng không sao, mười năm sau, mẹ nhắc ngài nhớ ra. Vì thế, ta đã hứa với Vân phi không được sủng ái khi đó, cũng tức là thái hậu hiện nay, chỉ cần bà nhận nuôi Doãn Nhi, bà sẽ là hoàng hậu kế nhiệm. Ta sắp xếp tất cả ổn thỏa, rồi đợi Doãn Nhi ra đời, nhưng thương thay nó vừa mới ra đời, mẹ còn chưa kịp ôm nó được lâu, đã phải vội vã đưa nó vào hoàng cung, chịu hơn mười năm khổ ải…”. Lang Gia nói đến đây, nước mắt lã chã: “Ta có lỗi với nó… nhưng ta cũng không còn cách nào khác. Nhà ta khi ấy, chẳng có lấy một người có thể rạng rỡ tổ tông, văn không thành võ không tựu, khoa cử thi trượt cũng đành, ra ngoài đánh trận, bình định phản loạn cũng đều là Vương gia đi… Cho nên, con bài duy nhất trong tay ta chỉ có chút huyết mạch đó của Tuệ đế, ta chỉ có thể dùng cách này”.
Lòng Cơ Anh buồn bã, nhưng trên mặt vẫn bình tĩnh như cũ, giơ tay vuốt mái tóc của mẫu thân, động tác cực kỳ dịu dàng.
Bà Lang Gia nắm chặt tay chàng, mỉm cười vui vẻ: “May mà, sau này con dần lớn lên. Mẹ đã dùng hết tâm huyết để bồi dưỡng dạy dỗ con, còn con cũng hoàn toàn không phụ sự kỳ vọng của mẹ, còn xuất sắc hơn cả sự tưởng tượng của mẹ, người làm mẹ như mẹ, thật sự, thật sự… cảm thấy tự hào vì con. Nhưng, con càng xuất sắc càng nhận được nhiều lời khen thì mẹ lại càng thấy áy náy với Doãn Nhi. Vì sợ Vương gia phát giác, cho nên trong suốt mười năm đó, mẹ không giúp đỡ nó dù chỉ một lần, mà mười năm sau khi thời cơ chín muồi, mẹ chỉ thị cho thái giám đưa nó đến trước mặt Hành Xu, nghe nói đến chữ nó cũng không biết, trái tim của mẹ giống như bị vô số lưỡi dao cứa nát, đau đến mức không thể đau hơn… Cho nên, Anh Nhi, mẹ muốn con đồng ý với mẹ một việc duy nhất chính là: Đời này của con, cho dù xảy ra chuyện gì, cho dù thế sự có biến đổi ra sao, con đều phải bảo vệ đệ đệ của con. Phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ nó, phò tá nó, bù đắp hết thảy những gì mẹ và Cơ gia nợ nó!”.
Bà Lang Gia chăm chăm nhìn đứa con trai được bên ngoài gọi là Bạch Trạch chuyển thế, văn tài võ công kiến thức mưu trí cái gì cũng siêu phàm thoát tục, hiếu thuận khiêm cung chưa bao giờ trái lời bà, dù cho đáp án đã nằm trong dự liệu, nhưng vẫn vô cùng nghiêm túc hỏi: “Con… có thể đồng ý không?”.
Đúng thế. Là cái đêm mưa bão của bao nhiêu năm về trước. Chàng ân cần chăm sóc bên giường của mẫu thân, nhìn bà hơi thở yếu ớt, sinh mệnh dần tàn, đau lòng khôn tả, mà trước lúc lâm chung, những lời bà nói với chàng giống như một mũi dao nhọn cắt lìa gân cốt, giống như máu thịt lần nữa nhào nặn, trong nháy mắt, trời đất sụp đổ, vạn kiếp bất phục.
Chiêu Doãn… lại là… đệ đệ của chàng… đệ đệ ruột…
Mà cái gọi là Liên thành bích lại không phải tiền tài vàng bạc châu báu, mà là huyết mạch hoàng gia…
Nếu không phải chàng là người trong cuộc buộc phải biết chân tướng, nếu không dù cho có suy nghĩ hoang đường ly kì đến thế nào, e rằng cũng không ngờ tới, trên đời lại có chuyện như thế này…
Đối mặt với mẫu thân đang hấp hối, đối mặt với bí mật liên quan đến toàn gia tộc thậm chí toàn quốc gia, Cơ Anh…
Chàng chỉ có thể lựa chọn khuất phục.
“Hài nhi… nhớ kỹ lời mẫu thân dạy, trọn cuộc đời con, phải toàn tâm toàn ý phù tá hoàng thượng, cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”.
“Tốt”. Bà Lang Gia sau khi nhận được lời câu trả lời khẳng định, hơi tàn đó cũng từ từ tan đi.
Cơ Anh bỗng nhớ ra một chuyện, nắm chặt tay bà gấp gáp hỏi: “Đợi đã, mẹ ơi! Hoàng thượng là đệ đệ của con, làm sao đệ đệ của con có thể lấy tỉ tỉ làm vợ”.
“Tỉ tỉ của con… đã…”. Con ngươi của bà Lang Gia bắt đầu mờ đục, câu tiếp theo, đã không thể nghe ra nổi “… rồi”.
“Cái gì? Mẹ? Mẹ nói cái gì? Tỉ tỉ làm sao? Rốt cuộc tỉ tỉ làm sao? Mẹ! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ! Mẹ!...”. Cơ Anh trước sau luôn ghi nhớ lời dạy không thể hiện tình cảm ra mặt cuối cùng cũng đã sụp đổ, khẩn thiết ôm chặt mẫu thân, muốn biết thêm vài điều từ bà, nhưng tất cả đã quá muộn rồi, bàn tay bà Lang Gia đã buông thõng, hơi thở đã ngừng lại.
Ngày mùng mười tháng hai, mưa to, chủ mẫu Cơ thị Lang Gia qua đời.
“Cơ Hốt làm sao?”. Hy Hòa nghe đến đây cũng không kìm nổi thất kinh, từ trên giường nhảy dựng lên.
“Cơ Hốt làm sao à…”. Khương Trầm Ngư kể lại đến đây, quay đầu lại nhìn Chiêu Doãn một cái: “Thiếp nghĩ, hoàng thượng mới là người biết rõ nhất. Đúng không? Hoàng thượng”.
Chiêu Doãn khi nghe Khương Trầm Ngư thuật lại lời trăn trối của bà Lang Gia trước lúc lâm chung thì không nói một lời, dường như toàn thân đang tê liệt, bấy giờ nghe thấy Khương Trầm Ngư hỏi cũng chỉ lạnh lùng cười: “Không phải cái gì nàng cũng biết sao? Hà tất phải để ta nói”.
“Được. Thế thì để thiếp nói. Nếu như thiếp nói sai, xin hoàng thượng cải chính”.
Chiêu Doãn hừ lạnh một tiếng.
Khương Trầm Ngư quay sang Hy Hòa: “Phu nhân, phu nhân đã từng gặp Cơ Hốt chưa?”.
Hy Hòa lắc đầu: “Khi ta quen biết Tiểu Hồng… Cơ Anh, Cơ Hốt đã xuất giá rồi”.
“Thế còn sau khi phu nhân vào cung thì sao?”.
Hy Hòa mỉm cười châm biếm trả lời: “Sau khi vào cung, đến bản thân ta còn chẳng buồn nhìn, huống hồ là gặp gỡ người khác”. Câu nói này tuy rất mỉa mai, nhưng đúng là sự thực. Từ sau khi vào cung, Hy Hòa cả ngày ca hát tìm vui, sống mơ mơ màng màng, e là đến bản thân mình cũng đã lãng quên.
“Giống như phu nhân, ta cũng chưa từng gặp Cơ Hốt”. Khương Trầm Ngư lại chuyển ánh mắt sang phía Chiêu Doãn: “Vị phi tần nổi danh thiên hạ này trước sau luôn sống trong lời đồn thổi của người khác, ta đã điều tra, kết quả là không có một ai trong cung này thực sự đã gặp nàng ta. Hoàng thượng, hoàng thượng nói xem có lạ hay không? Một hoàng phi, nhưng chưa có ai từng gặp. Một hoàng phi lại có thể không cần thỉnh an thái hậu, không tham kiến hoàng hậu. Cho dù Cơ gia bọn họ quyền thế lớn đến đâu đi chăng nữa, hành vi như thế chẳng phải cũng quá là kỳ lạ sao?”.
Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn xuống đất, căn bản không có bất kỳ phản ứng nào.
Khương Trầm Ngư lại cười nhạt: “Thế nên thiếp đã phái người bắt đầu điều tra kể từ khi nàng ta vào cung. Cơ Hốt là trưởng nữ của Cơ gia, tướng mạo bình thường, nhưng trời sinh thông tuệ là một tài nữ giỏi văn chương. Bài ‘Quốc sắc thiên hương phú’ đó, thiếp cũng đọc rồi, đúng là một tuyệt tác khiến người ta kinh ngạc mà hồn xiêu phách tán, cũng khó trách hoàng thượng vừa đọc là đã si mê, lập tức đến Cơ phủ cầu thân. Nhưng bây giờ nhìn lại, trái lại nó giống như một màn kịch hơn, để một hoàng tử thân không chỗ dựa, xuất thân hèn kém, có thể có được quyền thế một cách nhanh nhất, còn gì nhanh hơn là lấy con gái của một đại thần? Từ sau khi gả cho hoàng thượng, Cơ Hốt chưa từng lộ diện trước mặt người ngoài. Thậm chí… ngày hai mươi lăm tháng chín, đến lễ tang của Kỳ Úc hầu, nàng ta là tỉ tỉ ruột, là người thân thiết nhất trên đời của Kỳ Úc hầu, nhưng cũng không có mặt”.
“Đúng thế, tại sao vậy?”. Hy Hòa không nén được truy vấn.
“Tại sao ư… thiếp cũng không biết tại sao. Không có cách nào khác, người đã không đến thì thiếp chỉ có thể đi tìm người. Nhưng thiếp không dám đến Đoan Tắc cung, thứ nhất không có thuyền, thứ hai quá lộ liễu, trong cung tai mắt như rừng, ngộ nhỡ bị hoàng thượng biết được thì chẳng phải công sức trước đây của thiếp đều đổ xuống sông xuống biển sao? Cho nên, thiếp đành phải nhờ Tiết Thái thay thiếp đến Cơ gia một chuyến, tới khuê phòng của Cơ Hốt đã từng ở, mang về một số thi cảo của nàng ta cho thiếp. Đọc xong số đó, thiếp kinh ngạc phát hiện, bài ‘Trường Ương ca’ được nói là Cơ Hốt cuồng thảo viết ra sau khi uống say vào ngày mùng hai tháng tám, lạc khoản lại là vào năm Gia Bình thứ hai mươi sáu”.
“Ý của ngươi là bài văn đó nàng ta viết từ năm năm trước?”.
“Đúng thế”.
“Sao, sao có thể… như thế?”. Hy Hòa sửng sốt.
“Tài danh của Cơ Hốt trở nên khó ai bì kịp là do nó đi kèm với truyền kỳ hoàn mỹ không gì sánh kịp. Nhưng trên thực tế, nếu nói đến thiên hạ đệ nhất thì thực sự còn có nhiều người tài hơn nàng ta. Nàng ta giỏi ở chỗ có thể khiến một đế vương khuynh đảo vì mình. Sở trường mạnh nhất của người đời là a dua, hoàng thượng đã nói hay, thì bọn họ có thể không nói hay sao? Cho nên, phàm những bản thảo thơ văn của nàng ta lưu truyền ra ngoài, đều được tranh nhau sao chép. Nhưng nghiên cứu kỹ thì số bản thảo thơ văn lưu truyền ra ngoài của nàng ta không quá nhiều, tổng cộng cũng không đến mười bài. Trước khi xuất giá, ngoại trừ ‘Quốc sắc thiên hương phú’ thì không có bài nào khác. Nhưng những thi cảo mà Tiết Thái mang về đã chứng minh một sự thực. Những bài văn lưu truyền ra ngoài sau khi nàng ta kết hôn đó, đều được viết trước lúc xuất giá. Cũng tức là sau khi xuất giá, nàng ta không còn viết gì nữa. Kết hợp với những hiện tượng kỳ lạ kể trên, thiếp rút ra một kết luận”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói ra đáp án: “Cơ Hốt đã chết rồi”.
Hy Hòa kinh ngạc kêu lên: “Cái gì?”.
“Cơ Hốt là tỉ tỉ ruột của hoàng thượng, nàng ta không thể thực sự được gả cho hoàng thượng, hơn nữa, nếu Vệ Ngọc Hành không nói dối hắn và Cơ Hốt vốn là một đôi. Cơ gia vì muốn giành lại sự huy hoàng trong quá khứ, để tác thành cho vị đế vương mới lên ngôi, cho nên đã hy sinh con gái của mình”.
Ầm ầm.
Mưa gió bên ngoài cửa sổ cứ thỏa sức trút xuống, như thể không có ngày mai, những hạt mưa to như hạt đậu gõ lên giấy dán cửa mỏng manh, khiến người ta cảm thấy khoảnh khắc tiếp theo nó sẽ xé rách giấy mà chui vào.
Đêm lạnh thấu xương như thế, còn ba người trong phòng im lặng hồi lâu.
Đột nhiên, một tràng cười khẽ vang lên, sau đó biến thành cười lạnh, cười giễu cợt, cuối cùng thành cười lớn.
Khương Trầm Ngư và Hy Hòa cùng ngước mắt nhìn sang, thì thấy Chiêu Doãn ngồi bên cạnh bàn cười đến mức ngũ quan méo mó, cực kỳ đáng sợ.
Hy Hòa không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cười cái gì?”.
“Ta cười các nàng một kẻ thì ngu xuẩn vô tri, một kẻ thì tự coi mình là đúng, cho nên diễn ra màn kịch ép vua thoái vị vụng về hoang đường, thật là nực cười, nực cười”.
Hy Hòa mặt hơi biến sắc, có chút hoản loạn: “Hoàng thượng nói gì?”.
Chiêu Doãn căn bản không buồn nhìn nàng ta, mà trừng mắt nhìn chòng chọc vào Khương Trầm Ngư, cười nham hiểm, nói: “Cơ Hốt đã chết à? Không ngờ nàng có thể nghĩ ra tình tiết hoang đường quái gở như thế, thật là nực cười. Thực sự coi tất cả người trong cung đều là người chết? Thực sự coi người trong thiên hạ đều chết cả phải không?”.
Khương Trầm Ngư không hề rối trí, thần sắc vẫn trấn tĩnh như cũ, ánh mắt sáng ngời, lạnh nhạt mở miệng: “Thế thì hoàng thượng cho thiếp biết, Cơ Hốt đang ở đâu?”.
“Tại sao ta phải cho nàng biết? Nếu nàng có bản lĩnh thì tự đi điều tra đi! Nàng không phải rất lợi hại sao? Đến bí mật Liên thành bích cũng moi ra được, thế thì Tứ quốc…”. Chiêu Doãn đột ngột ngậm miệng lại.
Nhưng Khương Trầm Ngư không bỏ qua câu lỡ miệng trong thoáng chốc này của y, lập tức hỏi: “Tứ quốc phổ? Lẽ nào Cơ Hốt có liên quan đến Tứ quốc phổ?”.
Chiêu Doãn im lặng.
Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ánh nến đang nhảy nhót, im lặng thất thần một lúc, sau đó mới than nhẹ một tiếng, nói: “Thiếp rõ rồi”.
Hy Hòa nhìn Chiêu Doãn rồi lại nhìn nàng: “Rõ cái gì?”.
“Ta có một điều nghi ngờ vẫn chưa được giải đáp, bây giờ, cuối cùng đã rõ rồi”. Khương Trầm Ngư vừa nói vừa liếc nhìn Chiêu Doãn, nhếch môi mỉm cười: “Đa tạ hoàng thượng đã nhắc nhở”.
Mặt Chiêu Doãn trở nên cực kỳ khó coi.
Hy Hòa hỏi tiếp: “Rốt cuộc ngươi hiểu ra cái gì?”.
Khương Trầm Ngư đứng thẳng dậy, lấy ánh nến tươi sáng làm phông nền, lấy mưa gió bên ngoài cửa sổ làm nhạc đệm, giương cao tay áo và làn váy như vàng ngọc sóng sánh, cười rạng rỡ: “Ta hiểu ra được một sự thực: Nếu Liên thành bích có thể là một người, vậy thì Tứ quốc phổ tại sao nhất định phải là sách?”.
Câu nói cuối cùng, vang vọng trong tẩm cung trống trải của hoàng hậu, rồi một ánh chớp xẹt qua, chiếu sáng khuôn mặt Chiêu Doãn đã hoàn toàn trắng bệch.
“Khi cha ta mua chuộc Hàn lâm bát trí lại không biết bí mật Cơ Anh và hoàng thượng là anh em ruột. Vì ông chỉ có thể vu cho Cơ thị tham ô gây họa cho nước và thu thập một đống chứng cứ quốc khố tiền tài không biết đi đâu mất, ông tưởng dựa vào những chứng cứ hùng hồn đó để lung lạc hoàng thượng. Nhưng sự thực có phải như thế không?”.
Đáy mắt Khương Trầm Ngư sáng lấp lánh, giọng nói bỗng chốc cũng trở nên đau buồn.
“Khi Tiết Thái được phái đi cứu nạn Giang Đô, vì tiền hắn có thể nói là nghĩ đến nát óc, mục tiêu ban đầu của hắn không chỉ là lừa Quan Đông Sơn mà là lấy tiền từ Cơ gia về. Thế nhưng, sự thực là Cơ gia không có tiền. Không chỉ như thế, họ cũng không có quyền. Chẳng phải là rất bất ngờ sao? Rõ ràng hai tộc Vương, Tiết đã tiêu vong, Khương gia thu mình chờ thời cơ, một mình Cơ thị phô bày sự xuất chúng, bọn họ sao lại không tiền không quyền? Sao có thể như vậy? Sau một phen điều tra triệt để mới biết, hóa ra tất cả đều là công tử cố ý làm. Chàng không giống với bà Lang Gia, Lang Gia vì muốn phục hưng Cơ gia nên đã không từ một thủ đoạn nào, thậm chí dung túng cho người trong gia tộc lạm quyền bẻ cong vương pháp, cuối cùng tuy khiến cho Cơ gia lần nữa huy hoàng, nhưng nội bộ thì muôn vàn thối nát, dơ bẩn hết đỗi. Còn công tử kể từ sau khi tiếp quản Cơ gia, bắt đầu từng bước chỉnh đốn môn hộ, bởi vì chàng làm rất tốt, rất hiệu quả, nên bề ngoài nhìn như sóng êm biển lặng, không có ai cảm nhận được, nhưng đến khi mọi người phát hiện ra thì đã lần lượt bị tước bỏ quan chức, đánh mất quyền lực. Đây chính là Cơ Anh”.
Chiêu Doãn phát ra một tiếng cười “hừ”.
Khương Trầm Ngư vẫn luôn nhìn chăm chú vào mắt y, nhẹ nhàng nói: “Hoàng thượng, hoàng thượng nói mình cực kỳ cảm động trước việc thiếp cắt đứt với gia tộc, đó là vì hoàng thượng đã tìm thấy bóng dáng của mình trên người thiếp. Vào cái ngày mà hoàng thượng dung túng cho cha thiếp loại trừ Cơ Anh, đồng nghĩa với việc hoàng thượng cũng triệt để cắt đứt với Cơ gia”.
“Tại sao ta không thể cắt đứt với bọn họ?”. Trong ánh mắt Chiêu Doãn hiện lên sự căm hận tột độ, khóe mắt giật giật, nói: “Chỉ dựa vào dòng máu Cơ gia chảy trong cơ thể ta sao? Thật nực cười! Lang Gia thật là một chủ mẫu vĩ đại, vì gia tộc lại hy sinh con trai mình! Mười năm! Ta sống suốt mười năm khổ cực trong căn nhà nhỏ hoang tàn bên cạnh hồ Phượng Thê! Cơm không đủ no áo không đủ mặc, chịu đủ mọi tủi nhục! Là ai đã biến ta thành như thế, là ai đã an bài vận mệnh của ta trước cả khi ta ra đời? Được, họ đã đẩy ta lên ngôi báu cửu ngũ chí tôn, thì cũng chính họ phải chịu hậu quả này. Họ cho rằng ta sẽ biết ơn, sẽ báo đáp họ? Nằm mơ! Trước kia ta chưa đủ lông cánh, cho nên phải dựa vào Cơ Anh, nhưng bây giờ khác rồi, thiên hạ đều là của ta! Quyền thế cũng đều là của ta! Những khổ sở mà ta phải chịu, ta đều trả lại từng chút từng chút một! Chỉ một gia tộc cỏn con có là gì? Ca ca vốn dĩ phải đi con đường của ta nhưng vì may mắn mà tránh được có là gì? Tất cả có là gì? Có là gì?”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.