Hỏa Thần

Chương 12:




TEL AVIV
Cô ta tự xưng mình là Madeleine khi vào vai một phụ nữ Pháp. Khi muốn là người Anh thì tên cô ta là Alexandra. Còn khi là người Ý, mọi người gọi cô là Lunetta - nghĩa là mặt trăng nhỏ”.
Natan nhìn Gabriel và chớp chớp đôi mắt. Anh chàng cột tóc đuôi ngựa với cặp kính nằm hơi xiên trên sống mũi, và có vài lỗ thủng trên chiếc áo nỉ lướt ván ngắn tay hiệu Malibu. Yaakov đã cảnh báo trước với Gabriel về vẻ bề ngoài của Natan. “Cậu ta là thiên tài. Tốt nghiệp với tấm bằng Cal-Tech, mọi công ty kỹ thuật cao của Mỹ và Israel đều muốn có cậu ta. Cậu ta hơi giống anh đó”, Yaakov đã kết luận như thế với chút đố kỵ của người biết mình kém cỏi hơn đối phương.
Nhìn xuyên qua văn phòng bốn bề là kính của Natan, Gabriel thấy một dãy phòng sáng sủa và rộng rãi với hàng hàng dãy dãy các trạm máy tính. Cứ mỗi trạm lại có một nhân viên kỹ thuật. Tất cả họ đều rất trẻ tuổi và hầu hết là người Mizrahim - những người Do Thái đến từ các nước Arập. Họ là những chiến binh thầm lặng trong cuộc chiến chống khủng bố của Israel. Họ chẳng bao giờ đối mặt với kẻ thù, cũng như chẳng bao giờ uy hiếp hắn phản bội tổ quốc hay chạm trán trên bàn thẩm vấn. Đối với họ, kẻ thù chỉ giống như tiếng nổ tách tách của ổ điện làm đứt sợi dây đồng, hoặc giống như một lời thầm thì trong không khí. Natan Hofi chịu trách nhiệm giám sát luồng thông tin liên lạc điện tử giữa thế giới bên ngoài và các tổ chức khủng bố. Đó dường như là một nhiệm vụ bất khả thi. Máy tính chủ yếu dùng để sàng lọc và ghi lại những từ, câu hoặc giọng nói của những tên khủng bố đã được nhận dạng. Tuy nhiên, Natan vẫn xem đôi tai của mình là vũ khí đáng tin cậy nhất.
“Chúng tôi không biết tên thật của cô ta”, anh ta nói “Hiện tại chỉ biết cô ta qua mã giọng âm 572/B. Cho tới giờ phút này chúng ta đã chen vào được năm cuộc điện thoại giữa cô ta và A’one. Anh có muốn nghe không?”
Gabriel gật đầu. Natan nhấp vào một biểu tượng trên màn hình máy tính, và bản thu âm bắt đầu chạy. Trong mỗi cuộc gọi, người phụ nữ tự xưng mình là một người nước ngoài hoạt động cho hòa bình và cô ta gọi điện để bày tỏ sự ủng hộ với ông trùm Palestine đang bị giam giữ cô ta cũng nói rằng mình hết sức cảm thông trước cơn cuồng bạo của những kẻ theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Mỗi cuộc trao đổi đều có liên quan đôi chút đến một người bạn tên là Tony - chính là cách gọi tên bí mật của Khaled mà Mahmoud Arwish đã nói.
Sau khi nghe bốn cuộc trao đổi, Gabriel hỏi. “Dựa vào giọng nói của cô ta, cậu có nhận xét gì về người phụ nữ này? “
“Tiếng Arập của cô ta rất tốt, dù cô ta không phải là người Arập. Có thể cô ta là một người Pháp, đến từ miền Nam hoặc là vùng Mác-xây. Rất tài giỏi. Rất gợi tình. Cô ta còn có hình xăm con bướm nhỏ phía sau mông nữa đấy”.
Yaakov sửng sốt ngước lên nhìn.
“Tôi đùa thôi”. Natan nói: “Nhưng hãy nghe cuộc ghi âm thứ năm. Cô ta đóng vai một phụ nữ Pháp, Madeleine, người đứng đầu một tổ chức được gọi là Trung tâm đấu tranh cho hòa bình Palestine hôm nay và mai sau. Chủ đề cuộc trao đổi là về cuộc tập hợp lực lượng sắp tới tại Paris”.
“Paris sao?” Gabriel hỏi. “Cậu chắc là Paris chứ?”
Natan gật đầu. “Cô ta nói với A’one rằng một trong những người đứng đầu tổ chức này có tên là Tony đã dự đoán sẽ có một trăm ngàn người tham gia. Sau đó cô ta ngập ngừng và tự sửa lại. Cô ta nói dự đoán của Tony không phải là một trăm ngàn, mà là hai trăm ngàn”.
Natan cho chạy bản thu âm. Khi bản thu chạy xong, Yaakov nói. “Đoạn thu âm này có gì thú vị chứ ?”
“Ở đây này”.
Natan mở một tệp tin khác. Âm thanh nghèn nghẹt phát ra trong vài giây.
“Có một ai khác đang ở trong phòng với cô ta vào thời điểm đó. Anh ta giám sát cuộc trao đổi này qua một hệ thống khác. Khi Madeleine nói rằng Tony dự đoán một trăm ngàn người, kẻ này đã che miệng ống nghe và nói với cô ta bằng tiếng Pháp rằng. ‘Không, không, không phải một trăm ngàn. Sắp lên đến hai trăm ngàn rồi.’ Anh ta nghĩ không ai có thể nghe thấy, nhưng rủi thay anh lại để miệng ống nói ngay sát thanh quản của mình. Đó là lỗi của lính mới vào nghề. Chúng ta có ghi lại những dao động đó trên bản thu. Lọc âm và chỉnh một chút, tôi đã làm cho âm thanh nghe rõ như thế này”.
Natan cho chạy lại tập tin lần nữa. Lần này, có thể nghe được giọng một người đàn ông, một giọng Pháp chuẩn. “Không, không, không phải một trăm ngàn. Sắp lên đến hai trăm ngàn rồi”. Natan nhấp chuột và trỏ vào góc phải phía trên màn hình máy tính, một sơ đồ với các đường kẻ ô chằng chịt nhấp nhô.
“Đây là máy ghi phổ âm thanh. Nó là một hàm số toán học dựa trên hình dạng miệng và cổ họng người nói. Chúng tôi đã so bản này với từng giọng nói mà chúng ta có”.
“Và sao?”
“Không trùng khớp với bất cứ giọng nào. Chúng tôi gọi anh ta là bản giọng âm 698/D”.
“Cuộc gọi này được thu khi nào?”
“Cách đây sáu tuần”.
“Cậu có biết nó được gọi từ đâu không?”
Natan mỉm cười.
Đã xảy ra một cuộc cãi vã. Nhưng dường như không có quyết định nào của Văn phòng được ngã ngũ mà không qua những trận đấu khẩu. Lev vẫn muốn giam chân Gabriel trong căn phòng làm việc ở tầng hầm với khẩu phần ăn đạm bạc chỉ gồm bánh mỳ và nước. Và ông ta nhanh chóng chiếm ưu thế. Lev ngụy biện rằng Gabriel đã đuối sức và không còn thích hợp với công việc tình báo hiện trường nữa. Bên cạnh đó, những cuộc nghe lén điện thoại cho thấy Khaled đang giấu mình trong thế giới Arập, nơi mà một người chuyên nằm vùng ở châu Âu như Gabriel chưa từng hoạt động trừ cuộc đột kích chớp nhoáng ở Tunisi. Bằng chiêu bài cuối cùng, Lev viện cớ rằng Gabriel không còn đặc quyền hoạt động ở nước ngoài nữa. Rồi cuối cùng chuyện này cũng đến tai Shamron. Quá muộn màng cho Lev để né tránh đòn đáp trả chí tử. Lời cố vấn đầy uy quyền của Shamron như những lời răn của Chúa khắc trên tường đá.
Vượt qua được rào cản này, giờ đây Gabriel phải nhanh chóng giải quyết các vấn đề về lý lịch và diện mạo. Anh quyết định giả danh thành một người Đức, vì tiếng Đức là ngoại ngữ đầu tiên mà anh yêu thích. Anh chọn công việc thiết kế nội thất và sinh sống tại Munich. Tổ chức cấp cho anh một tấm hộ chiếu với tên là Johannes Klemp và một chiếc ví đầy thẻ tín dụng cùng những vật dụng cá nhân khác, bao gồm một danh thiếp in số điện thoại ở Munich. Nếu gọi vào số này, nó sẽ đổ chuông trong phòng an toàn của Văn phòng và sau đó tự động chuyển sang tổng đài điện thoại của Tổng hành dinh ở King Saul - nơi mà giọng thu âm của Gabriel tự động thông báo rằng anh đang đi nghỉ và sẽ gọi lại ngay khi quay về.
Về diện mạo, các chuyên viên của Tổ chức đề nghị anh để râu. Gabriel miễn cưỡng nghe theo. Anh cho rằng bất kỳ người đàn ông râu ria bờm xờm nào cũng đều không đáng tin và đang giấu giếm điều gì đó. Phải đeo một bộ râu xám xịt khiến anh càng thất vọng hơn. Nhưng các chuyên viên đã sửa sang lại mái tóc anh cho phù hợp với bộ râu đó. Họ đưa thêm cho anh một cặp kính hình chữ nhật không gọng và một chiếc va li đầy những bộ quần áo thời trang cùng một tông màu mua từ Berlin và Milan. Những thiết bị mà các tay “…” trong phòng Kỹ thuật cung cấp cho anh hoàn toàn vô hại nhưng thực tế chúng không đơn giản như vậy.
Vào một buổi tối ấm áp, ngay trước lúc lên đường, anh khoác lên mình bộ trang phục thời trang của Herr Klemp, hiên ngang dạo quanh các sàn nhảy và hộp đêm dọc đường Sheinkin ở Tel Aviv. Giờ đây, anh đã hóa thân thành Herr Klemp, không còn là nhân vật Mario Delvecchio trước đây. Một Herr Klemp hoạt bát, giỏi tán gái, thích rượu đắt tiền và nhạc dance. Anh háo hức vào vai Herr Klemp vì anh cảm thấy an toàn khi ngụy trang như thế.
Anh chợt nhớ lại sự chuẩn bị vội vã cho nhiệm vụ Wrath of God (Cơn thịnh nộ của Chúa) trước đây; anh nghĩ lại những lần đi dạo trên những con đường ở Tel Aviv với Shamron, nghĩ đến việc lấy trộm ví và đột nhập vào các phòng khách sạn dọc Promenade. Chỉ duy nhất một lần anh bị tóm. Một người phụ nữ Rumani gốc Do Thái đã chộp cổ tay Gabriel và gọi cảnh sát. Shamron đã nói. “Cậu bắt đầu trở nên hiền lành từ khi nào thế? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu đó là quân hiến binh? Hoặc là lính cận vệ? Cậu nghĩ tôi sẽ đến đó và yêu cầu thả tự do cho cậu à? Nếu họ đến bắt cậu, cậu phải đánh trả. Nếu cậu phải làm đổ máu người vô tội, cậu vẫn phải làm mà không được ngần ngại. Tuyệt đối không bao giờ để cho mình bị bắt giữ. Không bao giờ!”
Quy định của Văn phòng đòi hỏi Gabriel phải ở đêm cuối cùng tại “địa điểm cất cánh”, đặc ngữ của tổ chức ám chỉ một căn phòng an toàn để khởi hành. Bao giờ đó cũng là những căn phòng nồng nặc mùi xì gà và nhuốm mùi thất bại. Vì thế, đêm đó anh quyết định ở cùng với Chiara trên phố Narkiss. Việc ái ân giữa họ diễn ra miễn cưỡng và ngượng ngịu. Sau đó, Chiara thú nhận rằng cô thấy Gabriel quá đỗi xa lạ.
Gabriel không bao giờ ngủ được trước giờ hành động và đêm cuối của anh ở Jerusalem cũng không phải là ngoại lệ. Vì thế, trước lúc nửa đêm, anh cảm thấy nhẹ nhõm hẳn khi nghe tiếng máy nổ đặc trưng của chiếc xe bọc thép Peugeot của Shamron trước nhà và thấy thấp thoáng bóng cái đầu hói nhẵn nhụi của ông di chuyển trong vườn, theo sau là Rami. Họ trải qua khoảng thời gian còn lại trong phòng làm việc của Gabriel và mở tung các cửa sổ đón lấy không khí lạnh lẽo của đêm. Shamron nói về cuộc chiến giành độc lập, cuộc tìm kiếm Sheikh Asad của ông, và về buổi sáng mà ông đã giết hắn trong ngôi nhà tranh bên ngoài Lydda. Khi bình minh ló dạng, Gabriel thoáng chốc do dự, tự nhiên anh cảm thấy lẽ ra mình nên nghe theo lời khuyên của Lev và để một người khác thay anh lúc này.
Chỉ khi ánh mặt trời đã nhô cao thì Shamron mới bắt đầu căn dặn. Ông ấy nói. “Đừng có đi đâu loanh quanh khu vực tòa đại sứ. Cơ quan tình báo Mubarat cho rằng mọi người làm việc ở tòa đại sứ đều là gián điệp. Và họ có lý khi nói như thế đấy”. Sau đó ông đưa cho Gabriel một danh thiếp. “Ông ta là người của chúng ta, đã bị chúng ta mua chuộc. Ông ta biết mọi người trong thị trấn. Tôi đã nói ông ta chờ anh đến. Hãy cẩn thận. Ông ta là một tay nghiện rượu đó”.
Một giờ sau Gabriel lên chiếc xe của Văn phòng. Nó được trang bị như một chiếc xe tắc xi ở Jerusalem và khởi hành từ Bab al-Wad hướng đến sân bay Ben-Gurion. Anh khai báo hải quan dưới cái tên Herr Klemp, chờ đợi thủ tục kiểm tra an ninh nhiêu khê, rồi sau đó anh bước vào sảnh chờ. Khi nghe đọc tên chuyến bay của mình, anh bắt đầu đi dọc trên mặt đường rải nhựa trắng đến thẳng chỗ chiếc máy bay phản lực đang chờ sẵn và ngồi vào khoang ghế hạng phổ thông. Khi máy bay cất cánh, anh nhìn qua cửa sổ và quan sát vùng đất nhỏ dần phía dưới, lòng anh thắt lại bởi nỗi sợ hãi quá lớn rằng mình sẽ không bao giờ thấy mảnh đất này cũng như không được gặp lại Chiara yêu dấu nữa. Anh nghĩ về hành trình phía trước, một cuộc phiêu lưu dài tuần ở Địa Trung Hải có thể đưa anh từ Athen đến Istanbul và cuối cùng là thành phố cổ phía bờ Tây Fertile Crescent, nơi mà anh hy vọng tìm thấy người phụ nữ tên là Madeleine, hoặc Alexandra, hoặc Lunetta - mặt trăng bé nhỏ và người bạn Tony của cô ta.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.