Hoán Nhật Tiễn

Chương 14.2: Phần 02




Thủy Nhu Thanh cắn răng, không nói gì, nhưng trên mặt lại lộ rõ vẻ cương nghị. Hành Đạo đại hội vốn dĩ không chọn nàng, Mạc Liễm Phong cũng không muốn để nàng mạo hiểm nhưng không ai có thể khuyên bảo nàng. Huống chi, mọi người trong bốn đại gia tộc đều biết nàng từ nhỏ đã không có mẹ ở bên, không nỡ để cha con nàng xa cách, do đó đành dẫn theo nàng tới nơi này.
Ngu đại sư nhất thời chẳng biết làm thế nào với cô nhóc này, đành nói: “Được rồi, dù sao chúng ta cũng phải lưu lại một người làm chủ trì, hai mốt người đi cũng được.” Dứt lời, ông ta bèn dẫn mọi người đi ra ngoài động.
Ly Vọng Nhai nằm trên hai ngọn núi nhỏ cách hậu sơn của đỉnh Minh Bội chừng hai dặm. Hai ngọn núi ấy cách nhau mấy chục trượng, đối diện với nhau, ở giữa là một khoảng đất trống rộng chừng trăm bước chân. Khoảng đất ấy bằng phẳng mà rộng rãi, không hề có cỏ cây, chỉ có vô số những khối đá lớn chất thành đống lăn từ trên đỉnh núi xuống. Những lần giao chiến trước đây giữa bốn đại gia tộc và Ngự Linh đường đa phần đều chọn nơi này.
Hai ngọn núi ấy chỉ cao vài trượng. Ngọn bên trái hơi thấp hơn, nhìn từ xa trông như hình con ngựa đang lao vun vút, do đó có tên Tiệm Ly; ngọn bên phải hơi cao hơn, tựa như khuôn mặt của một nữ tử đang nhìn về hướng xa, do đó có tên Tương Vọng. Hai ngọn núi này hợp lại thì là Ly Vọng Nhai.
Mọi người leo lên Tiệm Ly Nhai, nhìn thấy hai mươi người của Ngự Linh đường đều đã dừng chân trên Tương Vọng Nhai ở phía đối diện. Người dẫn đầu mặc áo chẽn màu trắng, tóc bó buông ngang vai, đặt chân trên một khối đá lớn, tay phải chống nạnh, tay trái cầm một tấm lệnh bài dài chừng nửa thước, trên mặt đeo một tấm mặt nạ làm bằng đồng thau vẻ hết sức dữ tợn, không thể nhìn rõ khuôn mặt thực. Tuy cách nhau mấy chục trượng nhưng chỉ thoáng nhìn người ta vẫn có thể cảm nhận được ánh mắt sắc lẹm của hắn chiếu tới, lại kết hợp với mái tóc đen và bộ đồ màu trắng tung bay trong gió, thực đã hội tụ nét thanh tao với sát khí lạnh lẽo, toát ra vẻ lạnh lùng, nghiêm nghị khó mà diễn tả bằng lời.
Mọi người vừa rồi mới chỉ nghe thấy giọng hắn, lúc này thoạt nhìn thấy luồng tà khí nồng đậm toát ra từ bóng người có vóc dáng gần như hoàn mỹ kia, trong lòng đều chấn động. Hoa Khứu Hương tuy tự cho rằng bản thân phong lưu hàng đầu thiên hạ nhưng cũng cảm thấy phong độ của tên Thanh Sương lệnh sứ này không hề thua kém mình hồi trẻ, mà vẻ cao ngạo, mãnh liệt thì còn có phần hơn, không khỏi thầm thở dài: Xưa nay Ngự Linh đường tứ sứ đều là những kẻ phong thái thanh tú, văn võ toàn tài, chỉ nhìn bề ngoài của tên Thanh Sương lệnh sứ này, ai mà ngờ được trong bụng hắn lại ẩn chứa bao sự binh đao cùng với cái tâm gây họa cho thiên hạ?
Ngu đại sư nhìn thẳng vào mắt Thanh Sương lệnh sứ, cất cao giọng nói: “Chẳng lẽ đường đường là Thanh Sương lệnh sứ mà lại không dám dùng khuôn mặt thật để đi gặp người khác hay sao?”
Thanh Sương lệnh sứ hơi ngẩng đầu, cũng không thấy hắn vận công, vậy nhưng giọng nói quái dị kia lại giống như thực thể vang vọng vào trong tai mỗi người: “Vãn bối từ nhỏ đã lập lời thề độc, nếu không thể rửa được mối nhục thua liền bốn trận, tuyệt đối sẽ không cho người khác nhìn thấy khuôn mặt thật của mình. Nếu tiền bối nguyện lòng thành toàn, vãn bối thực vô cùng cảm kích.” Những lời này vốn mang ý oán độc nhưng hắn lại nói ra với vẻ hờ hững vô cùng, chẳng biết là thật hay giả.
Ngu đại sư cười rộ. “Vậy thì phải trông vào bản lĩnh của ngươi rồi.”
Thanh Sương lệnh sứ cũng mỉm cười, cất tiếng: “Nếu không có bản lĩnh thắng được trận chiến hôm nay, khuôn mặt này dù có so được với Phan An, Tống Ngọc thì cũng đành để nó không được thấy ánh mặt trời thêm sáu mươi năm nữa.”
Ngu đại sư hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói: “Lần này quy tắc là như thế nào đây?”
Thanh Sương lệnh sứ trầm ngâm một lát, đột nhiên hỏi ngược lại: “Tiền bối có muốn biết vãn bối bình luận thế nào về võ công của bốn đại gia tộc không?”
Ngu đại sư không biết hắn rốt cuộc có dụng ý gì, bèn khẽ gật đầu. “Xin rửa tai lắng nghe!”
“Đọc Hạo Nhiên chi thư, có Hạo Nhiên chi khí!” Thanh Sương lệnh sứ ngẩng đầu nhìn chằm chằm vào Cảnh Thành Tượng, nghiêm túc nói. “Điểm Tình các có Hạo Nhiên chính khí mạnh mẽ tràn đầy, có Túy Hoan chưởng pháp vụng mà hơn khéo, tựa như một nét vui mừng khó có thể nắm bắt trên khuôn mặt mơ màng của kẻ say sưa, người ngoài khó mà hiểu được cái thần nhưng người say thì lại nắm rõ cái hàm ý bên trong. Có thể ví như một nụ cười gượng gạo với các quan khách đầy phòng sau khi vừa phải trải qua bao nỗi khó khăn, cái ý cảnh ở đây chính là tâm tình buồn bã khi các tân bằng cố hữu sắp mỗi người một ngả. Hiềm rằng Hạo Nhiên chính khí khó mà điều khiển được Túy Hoan chưởng, nếu dùng Vong Ưu bộ tránh cái mũi nhọn của nó, lại dùng Ly Hồn vũ dẫn dắt nỗi u uất kia ra, vậy là sẽ có thể phá được...”
Cảnh Thành Tượng thầm chấn động, ông ta cả đời đắm chìm trong Hạo Nhiên chính khí và Túy Hoan chưởng pháp, nhưng mới lần đầu nghe thấy một lời đánh giá chuẩn xác và đúng trọng tâm như thế. Điều đáng sợ nhất là đối phương đã nói thẳng ra phương pháp dẫn dắt nỗi u uất sau cơn say túy lúy của Túy Hoan chưởng, để cho nó đối nghịch với Hạo Nhiên chính khí... Đây tuy chỉ là lý luận suông nhưng đã nói ra nhược điểm lớn nhất trong võ công của Điểm Tình các, ấy là Túy Hoan chưởng pháp và Hạo Nhiên chính khí dứt khoát không thể kết hợp với nhau!
Thanh Sương lệnh sứ không để tâm tới vẻ kinh ngạc của Cảnh Thành Tượng, ngoảnh đầu qua nhìn Hoa Khứu Hương, nói: “Phiên Thiên lâu lấy họa nhập võ, Chiết Hoa thủ trước gõ lá, sau bẻ cành, tĩnh thì bi thương, động thì sầu thảm; cái ý vận của nó không phải là ở khoảnh khắc âu sầu da diết khi bẻ cành hoa, mà là ở cái sự “ngẩn ngơ” khi nhìn thấy bông hoa bất chợt lộ ra giữa nơi không ngờ tới. Nếu dùng Duy Mạc đao võng để phong tỏa thân pháp của người thi triển, lại sử ra Khuất Nhân kiếm pháp để chặn đứng hậu chiêu, không cho y cái dư vận để lưu khoảng trống trong bức họa, hẳn là có thể phá được...”
Hoa Khứu Hương quả nhiên “ngẩn ngơ” rồi cúi đầu trầm tư suy nghĩ.
Thanh Sương lệnh sứ lại ngoảnh đầu qua nhìn Thủy Nhu Sơ. “Ôn Nhu hương mượn âm nhạc để ấn chứng võ học, thực đã đi theo một con đường riêng. Triền Tư sách như nhẹ mà như nặng, không để lộ dấu vết, trong khi giao đấu có thể quấy nhiễu tiết tấu của kẻ địch, từ đó tìm sơ hở mà đánh vào, chú trọng nỗi âu sầu trong những đường ngang dọc, sự nặng nề giữa những nét thẳng nghiêng, có thể nói là khắc tinh của bất kỳ thứ vũ khí ngắn nào...”
Thủy Nhu Sơ xưa nay vốn tính tình đạm bạc, nhưng lúc này thấy đối phương chỉ bằng mấy lời ngắn ngủi đã nói ra hết sở trường, sở đoản của võ công bản môn, không kìm được bật thốt: “Ngươi định phá thế nào?”
Thanh Sương lệnh sứ khẽ cười, cất tiếng: “Triền tư, triền tư, việc cũ đã trôi qua, ngoảnh đầu lại thấy đều thành không cả. Nếu có thể quên hết mọi nỗi nhi nữ tư tình, dùng thủ pháp tột cùng cương mãnh chặt đứt mọi gút thắt trong tim, vậy thì còn đâu ưu tư để mà bị triền miên đeo bám nữa?” Hắn không đợi Thủy Nhu Sơ phản bác, đã lại nhìn qua phía Vật Thiên Thành. “Cái đạo chơi cờ vốn dĩ gần với tôn chỉ võ học nhất, Cuồng Vũ Loạn Vân thủ của Anh Hùng chủng mạnh mẽ, dữ dội, tràn đầy bá khí, Khí Quán Phích Lịch công thì lại càng có cái khí thế của một bậc vương giả, hoàn toàn khác biệt với sự cổ hủ, cứng nhắc của Điểm Tình các, sự nhu nhược giả tạo của Phiên Thiên lâu, sự hẹp hòi, nhỏ nhen của Ôn Nhu hương, vốn là thứ võ công khó đối phó nhất trong bốn đại gia tộc. Chỉ tiếc rằng nó quá xem trọng việc giành phần thắng, lúc nào cũng tính toán chi li, nếu đối phương một lòng phòng thủ, không để tâm tới sự được mất nhất thời, thế công của nó sẽ khó mà duy trì lâu được. Tựa như trong bàn cờ, dù một bên có chiếm ưu thế về sức quân nhưng nếu đối phương một lòng muốn đổi quân cầu hòa thì cũng khó mà dựa vào lối tấn công như vũ bão để giành phần thắng trong thời gian ngắn...”
Lý luận này kỳ thực ngầm hợp với tâm pháp của Dịch Thiên quyết, ngay đến Ngu đại sư cũng thầm chấn động.
Những lời này được nói ra rành rọt khi hai bên đang đối đầu với nhau, lại kết hợp với phong thái tràn đầy sức mê hoặc cùng tài ăn nói hiếm có trên đời của Thanh Sương lệnh sứ, quả thực rất dễ làm lay động lòng người.
Hắn có thể lần lượt nói ra những chỗ mạnh yếu trong võ công của bốn đại gia tộc, hơn nữa những lời đó đều là ý kiến mà tiền nhân chưa nhắc đến bao giờ, nếu không có vài năm tỉ mỉ nghiên cứu thì thực khó mà đưa ra kết luận chuẩn xác như vậy. Bốn đại gia tộc và Ngự Linh đường đã đối đầu với nhau mấy trăm năm nhưng các loại kỳ công dị thuật chỉ sáu mươi năm mới thể hiện một lần, hắn làm sao mà biết được? Vừa nghĩ đến đây, các đệ tử của bốn nhà Cảnh, Hoa, Thủy, Vật đều cảm thấy như có sấm nổ trong đầu, lòng thầm kinh sợ.
Ngu đại sư cố kìm nén cơn chấn động trong lòng, cất tiếng cười vang. “Ngự Linh đường đã nghiên cứu kĩ càng về võ công của bốn đại gia tộc ta như vậy, cần gì phải tranh hơn thua miệng lưỡi, cứ ra tay là biết ai hơn ai kém ngay thôi.”
Thanh Sương lệnh sứ vẫn thản nhiên cất tiếng: “Tiền bối chớ nên nôn nóng, vãn bối còn một vấn đề muốn xin được chỉ dạy.”
Ngu đại sư đương nhiên không chịu tỏ ra yếu thế. “Ngươi một lời vãn bối, hai lời vãn bối, nếu lão phu không để ngươi hỏi thì thực là có phần quá đáng.”
Thanh Sương lệnh sứ khẽ cười khà khà, nói: “Võ công trong thiên hạ đều có nguồn gốc từ Thiếu Lâm, tại sao phái Thiếu Lâm có thể đứng vững ngàn năm mà không đổ?”
Hơn hai mươi người của bốn đại gia tộc ở đây đều là tinh anh trong môn phái, vừa nghe vậy liền biết ngay ý của hắn: Đệ tử Thiếu Lâm trải khắp thiên hạ, có thể nói ngoài mười mấy môn tuyệt học bí truyền của Thiếu Lâm, về mặt võ công không có gì bí mật. Vậy nhưng trong thiên hạ, có môn phái nào dám buông lời rằng có thể phá được một đường La Hán quyền bình thường nhất của phái Thiếu Lâm...
Thanh Sương lệnh sứ thở dài, than: “Do đó, vừa rồi vãn bối nói bừa một phen về võ công của bốn đại gia tộc, thực chất chỉ là nói suông mà thôi. Khi thật sự qua chiêu, biến hóa biết bao nhiêu mà kể, hơn nữa các loại chiêu thức cũng tương sinh tương khắc, muốn nắm bắt được cái sơ hở chỉ lộ ra trong khoảnh khắc của đối phương há lại là chuyện dễ dàng? Vậy nên nếu tiền bối đích thân ra tay, trận chiến lần này thực khó phân thắng bại. Huống chi, hơn hai trăm năm nay, bản đường đâu có lúc nào không lưu tâm tới việc nghiên cứu võ công của bốn đại gia tộc nhưng vẫn bị thua liền bốn trận. Do đó, mỗi lần nghĩ tới đây vãn bối đều biết rằng, nếu dùng võ công mà lấy cứng chọi cứng, chỉ e sẽ lại giẫm vào vết xe đổ của các vị tiền bối bản đường trong hơn hai trăm năm qua, đến lúc ấy, cho dù có thể chịu nhục thì cũng khó mà hoàn thành được trọng trách!”
“Nói mãi lời thừa cũng chẳng để làm gì, ngươi muốn thế nào đây?” Ngu đại sư thầm kinh hãi, nhìn vóc dáng của tên Thanh Sương lệnh sứ thì cùng lắm cũng chỉ chừng ba mươi tuổi, vậy mà lại có thể liên tiếp nói ra những lời bất ngờ khiến người ta không cách nào nắm bắt được tâm ý. Hơn thế, hắn còn rất hiểu các nhân vật trong bốn đại gia tộc, chỉ dựa vào điều đó cũng đã đủ để coi là tay đại địch đáng gờm nhất của bản thân kể từ khi xuất đạo tới nay, thật chẳng rõ Ngự Linh đường làm thế nào mà bồi dưỡng được một nhân vật đáng sợ đến thế?
Thanh Sương lệnh sứ ngẩng đầu nhìn trời. “So đấu về võ công, vãn bối khó mà nắm chắc được mười phần thắng, nhưng nếu chọn những môn khác, đầu tiên là có Điểm Tình các với học thức uyên thâm, lại có Phiên Thiên lâu với tài vẽ đứng đầu thiên hạ, còn có Ôn Nhu hương với tiếng đàn làm xao động bốn phương...” Nói tới đây, hắn liền lắc đầu lia lịa, dường như không có chút chủ kiến nào.
Ngu đại sư đoán chừng Thanh Sương lệnh sứ ắt còn nói tiếp, do vậy im lặng không nói gì.
Thanh Sương lệnh sứ đưa tay khẽ vỗ đầu mình một cái. “Vãn bối nhất thời hồ đồ, tuyệt kỹ của Anh Hùng chủng là gì không làm sao nhớ ra được, đúng là thất lễ...”
Trong lòng máy động, Ngu đại sư đã mơ hồ đoán ra đối phương có ý đồ gì nhưng lại không thể nhìn thấu tại sao hắn muốn làm như thế.
Vật Thiên Thành đứng bên cạnh thấy Thanh Sương lệnh sứ cố ý bày trò như vậy, rốt cuộc không kìm nổi nỗi khó chịu trong lòng, cất tiếng cười hào sảng. “Tài đánh cờ của Anh Hùng chủng ta cũng vang danh thiên hạ, ngươi rốt cuộc muốn thế nào đây? Chẳng lẽ lại định đấu cờ với ta?”
Thanh Sương lệnh sứ làm bộ ngây người. “Sở hà Hán giới, cờ tranh Trung Nguyên, ấy thực là một việc tao nhã biết chừng nào! Nếu Vật chủng chủ có ý này, ta xin được hầu một ván.”
Tới lúc này mọi người mới biết dụng ý của Thanh Sương lệnh sứ, đều cảm thấy hết sức ngạc nhiên. Tổ thượng của Anh Hùng chủng từng là người hầu đánh cờ của Thiên Hậu, kỳ thuật thiên hạ vô song, tạm chưa nói tới sức cờ của Ngu đại sư, ngay đến Vật Thiên Thành cũng được coi là tay cờ bậc nhất thiên hạ hiện nay, Ngự Linh đường chọn đấu cờ chẳng lẽ là đã phát điên?
Ngu đại sư chợt thở dài một tiếng. “Đề nghị này của Thanh Sương lệnh sứ vốn rất tốt, chỉ có điều Thiên Hậu từng nói rõ rằng hai bên giao đấu nên lấy võ công làm căn bản, năm xưa tuy từng có việc giao đấu bằng tiếng đàn nhưng ấy cũng là lấy âm nhiếp hồn, lấy vận chế địch, không lọt ra ngoài phạm trù võ công. Còn việc đánh cờ này thì dường như không hợp với quy củ...” Không phải ông không tự tin với sức cờ của mình, chỉ là thấy Thanh Sương lệnh sứ vốn có thể trực tiếp nói ra yêu cầu đấu cờ nhưng lại bày lắm trò như vậy, hiển nhiên là đã có sự chuẩn bị, trong lòng sớm đã đề phòng. Người này tâm kế quả thực quá sâu, mỗi hành vi, cử chỉ đều chứa đầy thâm ý, do đó Ngu đại sư mới quyết định không đồng ý với đề nghị đấu cờ để làm nhiễu loạn kế hoạch của đối phương.
Thanh Sương lệnh sứ cười lạnh, nói: “Tiền bối nói vậy là sai rồi, có câu rằng kỹ nghệ thì có điểm dừng, còn đạo thì không bờ bến. Tranh đấu bằng võ công chẳng qua là đấu trí đấu dũng, hạng tài đức tầm thường cho dù có nghĩ đủ mọi cách thì cũng khó mà vượt ra khỏi cái giới hạn tiềm lực của cơ thể con người. Huống chi mấy trăm năm nay, Ngự Linh đường và bốn đại gia tộc vốn tranh đấu với nhau vì thiên hạ, nếu nhất quyết sử dụng vũ lực thì thực có phần lẫn lộn đầu đuôi, trở thành trò cười. Chẳng lẽ thiên hạ đệ nhất cao thủ thì có thể thống nhất thiên hạ, làm chủ Trung Nguyên sao? Một lòng chỉ biết dùng vũ lực thì có khác gì sự đấu đá tầm thường của các bang phái trên giang hồ?” Hắn chợt đổi hẳn giọng, khẽ thở dài, than: “Hơn nữa, hai phe chúng ta vốn đều vâng theo di huấn của Thiên Hậu, muốn phò tá hậu nhân của người đoạt lại giang sơn, qua bao nhiêu năm liều mình sống chết, gần như đã không đội trời chung, thực là hoàn toàn đi ngược với ý đồ ban đầu của Thiên Hậu. Vãn bối đã có cơ may tham gia cuộc chiến sáu mươi năm một lần này, ắt phải định ra quy tắc thật công bằng để hai bên đều tâm phục khẩu phục, do đó tuy biết rõ Anh Hùng chủng kỳ nghệ thiên hạ vô song nhưng vẫn không tự lượng sức mình mà muốn đấu cờ một phen với chư vị...” Hắn ngẩng đầu nhìn Ngu đại sư, trong giọng nói ẩn chứa vẻ giễu cợt. “Nếu tiền bối còn định dùng danh nghĩa Thiên Hậu để ngăn cản điều này, há chẳng phải là quá cứng nhắc, không hiểu sự linh hoạt ứng biến ư?”
Những lời này của Thanh Sương lệnh sứ vừa đúng mực lại vừa hợp tình hợp lý, được nói ra một cách đĩnh đạc, đường hoàng, lại kết hợp với giọng nói biến hóa bất định dường như có ẩn chứa sự cám dỗ tà dị kia, nếu không phải vì hắn có đeo một chiếc mặt nạ hình thù dữ tợn, bất kể là ai cũng sẽ cho rằng hắn là một vị công tử đầy phong độ giữa chốn thế gian ô trọc. Dù là với kiến thức uyên bác của Ngu đại sư, tài học phi phàm của Cảnh Thành Tượng, tính tình thanh đạm của Thủy Nhu Sơ, sự cương nghị, dũng cảm của Vật Thiên Thành, sau khoảnh khắc cũng không khỏi bị lời của hắn đánh động, tuy biết trong việc đánh cờ này nhất định có ẩn chứa hậu chiêu cực kỳ lợi hại nhưng vẫn không biết nên ứng phó thế nào.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.