Kế Hoạch Hoàn Hảo

Chương 19:




Cuộc họp bất thường diễn ra ở phòng Bầu dục mới chỉ bắt đầu được vài phút màkhông khí dường như đã rất căng thẳng bì các mối bất hòa mang sẵn trong mỗi người tham dự.
Bộ trưởng quốc phòng lên tiếng: “Tình hình sẽ ngày càng vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng ta nếu ta vẫn trì hoãn hành động. Nó sẽ là quá muộn để ngăn chặn sự việc.”
“Chúng ta không thể hành động vội vã được.” Nói đoạn, tướng Stephan Gossard quay sang hỏi giám đốc CIA. “Ông đã có trong tay những thông tin gì?”
“Rất khó nói. Chúng tôi chỉ chắc hắn là Libya đang mua một số lượng lớn vũ khí từ Iran và Trung Quốc.” Tổng thống Oliver nhìn về phía ngoại trưởng hỏi. “thế Libya phủ nhận việc đó à?”
“Vâng đúng vậy. Cả phía Trung Quốc và Iran cũng thế.”
Tổng thống hỏi tiếp. “Còn phía các nước Ả rập thì sao?”
Giám Đốc CIA đáp: “Thưa tổng thống, theo những thông tin mà tôi có được, nếu Israel tấn công, thì đó sẽ là cái cớ mà các nước Ả rập đang mon đợi. Họ sẽ tham gia vào việc loại bỏ Israel.”
Tất cả cùng nhìn Tổng thống. “Ông có những nguồn tin đáng tin cậy ở Libya phải không?” Tổng thống hỏi.
“Vâng, thưa tổng thống.”
“Tôi muốn những tin mới nhất. Nếu có, hãy báo cho tôi ngay. Xuất hiện bất kỳ dấu hiệu nào của sự tấn công, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài hành động.”
Cuộc họp đến đây phải hoãn lại. Giọng của thư ký tổng thống vang lên qua nội đàm “Thưa tổng thống, có ngài Tager xin gặp.”
“Mời ông ta vào.”
“Cuộc họp diễn ra như thế nào?” Vừa vào Peter Tager đã hỏi.
“Ồ, đây chỉ là một cuộc họp bình thường.” Oliver nói với vẻ thất vọng, “về chuyện sẽ có một cuộc chiến tranh trong nay mai...”
“Và kèm theo cả vấn đề lãnh thổ?” Tager nói vẻ cảm thông.
“Đúng vậy.”
“Nghe chừng có vẻ hay đấy.”
“Xin mời ngồi.”
Peter Tager vừa ngồi xuống vừa hỏi. “Vậy anh có biết chuyện gì về cái tiểu vương quốc Ả rập thống nhất không?”
“Không nhiều lắm, “Oliver trả lời. “cách đây 20 năm, có 5 hay 6 nước Ả rập gì đó đã tập hợp nhau lại để thành lập một liên minh.”
“Có tất cả 7 nước. Họ thành lập vào năm 1971. Đó là các nước Abu Dhabi, Fujaira, Dubai, Sharjah, Rasal-Khaimah, Unim al-Auaiwan và Ajman. Khi chưa liên minh với nhau thì họ chẳng là gì cả. Nhưng khối liên minh này đã phát triển một cách không thể hình dung nổi. Hiện nay, họ là một trong những nước có mức sống cao nhất. Tổng sản phẩm quốc nội đã vượt hơn 39 tỉ đôla vào năm ngoài.”
Oliver nói với vẻ sốt ruột. “Tôi đoán là có một tin gì đó phải không, Peter?”
“Đúng vậy. Người đứng đầu của hội đồng các tiểu cường quốc Ả Rập muốn gặp anh.”
“Được thôi. Vậy tôi sẽ gọi cho Bộ trưởng bộ quốc phòng...”
“Nhưng ông ta chỉ muốn gặp riêng anh, và ngay hôm nay.”
“Anh nói nghiêm túc không đấy? Tôi không chắc là mình...”
“Oliver này, dòng họ Majlis là một trong những thế lực lớn của khối Ả rập và còn được các quốc gia Ả Rập khác rất kính nể. Cuộc gặp này có thể mở ra nhiều triển vọng tốt cho ta. Tôi biết điều này là không tuân thủ qui định quốc gia nhưng tôi nghĩ là anh nên gặp họ.”
“Một cuộc gặp gỡ chính thức sẽ thuận tiện hơn nếu như tôi...”
“Tôi sẽ sắp xếp mọi việc.”
“Vậy họ muốn gặp ở đâu?”
“Họ có du thuyền đang đậu ở vịnh Chesepeake, gần Annapolis. Tôi sẽ đưa anh đến đó một cách kín đáo.”
Oliver ngồi bất động, nhìn trân trân lên trần nhà. Cuối cùng ông vươn về phía trước và ấn nút nội đàm. “Hãy hoãn tất cả các cuộc hẹn chiều nay cho tôi.”
Chiếc du thuyền tuyệt đẹp dài tới 212 ft (~60m) đang neo ở vịnh. Tất cả mọi người trên thuyền đều đang chờ đợi tổng thống Mỹ. Toàn bộ thủy thủ là người Ả Rập.
“Xin chào mừng ngài đến đây, thưa tổng thống.” Ali Al-Fulani, thư ký thứ nhất của các tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất lên tiếng. “Xin mời ngài lên thuyền.”
Khi Oliver bước du thuyền, viên thư ký ra hiệu cho thủy thủ đoàn. Vài phút sau, thuyên đã lướt đi.
“Chúng ta sẽ đi xuống tầng dưới phải không?” Tổng thống hỏi viên thư ký.
“Phải.”
Ta có thể bị giết hoặc bị bắt cóc ở một nơi nào đùó. Đây là việc ngu xuẩn nhất từ trước đến nay mà ta đã làm. Có lẽ chúng “điệu” ta tới đây để có thể dễ dàng bắt đầu cuộc tấn công vào Israel trong khi ta không thể đưa ra mệnh lệnh nào hòng trả đũa lại. Tại sao ta lại đồng ý với Tager đi gặp bọn chúng cơ chứ?
Nhưng Oliver vẫn theo Ali Al-Fulani xuống cầu thanh, đến một căn phòng lộng lẫy được bài trí theo kiểu Trung Đông. Ở đó có 4 gã Ả Rập lực lưỡng canh gác. Một người đàn ông đang ngồi trên tràng kỉ vội đứng dậy khi Oliver bước vào.
Ali Al-Fulani nói: “Xin giới thiệu với tổng thống, đây là Quốc Vương Hamad đáng kính.”
Hai người bắt tay nhau. “Rất hân hạnh được gặp Quốc Vương.”
“Cám ơn ngài đã đến, thưa tổng thống. Xin mời ngài dùng trà.”
“Cám ơn quốc vương, tôi xin được không dùng.”
“Tôi cho rằng cuộc gặp gỡ này không quá đường đột với ngài,” Quốc Vương Hamad bắt đầu. “Thưa tổng thống, từ hàng trăm năm nay, rất khó khăn, nếu nhhư không nói là không thể được, trong việc giải quyết các vấn đề giữa 2 nước chúng ta; những mâu thuẫn về chính trị, ngôn ngữ, đạo giáo và văn hóa. Đó là lý do của rất nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra giữa 2 phía. Nếu người Do Thái có chiếm đất của người Palestine, thì cũng không ai ở Omaha hay Kansas bị ảnh hưởng. Họ vẫn sống bình thường như đang họ sống. Nếu có một giáo đường Do Thái ở Jerusalem bị đánh bom, thì những người Ý ở Rome và Venise cũng chẳng phải bận tâm tới.”
Oliver tự hỏi không biết bài diễn văn này sẽ dẫn đến đâu đây. Liệu đó có phải là một lời cảnh báo cho cuộc chiến tranh sắp tới không?
“Chỉ có một nơi duy nhất trên thế giới phải chịu những tổn hại do các cuộc chiến tranh ở Trung Đông gây ra, chính là Trung Đông.” Ông ta vươn người về phía Oliver. “Và bây giờ là lúc chúng ta chấm dứt sự điên rồ này.”
Bắt đầu rồi đây. Oliver nghĩ.
“Những người lãnh đạo của các vương quốc Ả Rập và dòng dọ Majlis đã trao cho tôi một sứ mệnh là trình lên ngài một yêu cầu.”
“Tôi xin được nghe.”
“Một yêu cầu hòa bình.”
Oliver kinh ngạc “Hòa bình?”
“Chúng tôi muốn giải hòa với đồng minh của các ngài, Israel. Lệnh cấm vận của các ngài đối với Iran và các nước Ả Rập đã làm chúng tôi thiệt hại hàng tỉ đôla mỗi năm. Chúng tôi muốn chấm dứt tình hình này. Nếu Mỹ đứng lên như một trung gian hòa giải; các nước Ả Rập, bao gồm Iran, Libya, Syria, sẽ sẵn lòng ngồi xuống và bàn bạc về một hiệp định hòa bình vĩnh viễn với Israel.”
Tổng thống quá dỗi ngạc nhiên về đề nghị này.
“Các ông làm chuyện này là vì...”
“Tôi xin trân trọng nói với ngài rằng đề nghị này của chúng tôi hoàn toàn không xuất phát từ lòng quí mến với Israel hay với nước Mỹ các ngài, mà chính vì quyền lợi của chúng tôi. Biết bao chàng trai của chúng tôi đã chết vì sự điên rồi này. Chúng tôi muốn kết thúc. Thế là đủ. Chúng tôi muốn lại được tự do bán dầu cho các nước trên thế giới . Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn muốn hòa bình hơn.”
Oliver hít một hơi thật sâu. “Tôi cho là mình cần một chút nước trà.”
“Giá mà anh ở đó,” Oliver nói với Peter Tager, “thật không thể tả nổi. Họ đã sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng họ lại không muốn xảy ra chiến tranh. Đúng là dòng máu thương gia. Họ muốn tự do bán dầu ra thị thường thế giới nên họ cần hòa bình.”
“Kỳ diệu thật,” Peter hào hứng, “giải quyết xong vụ này, anh sẽ trở thành một vị anh hùng đấy.”
“Tôi sẽ tự bàn chuyện đó,” Oliver nói với Peter Tager, “Không cần phải thông qua quốc hội. Tôi sẽ nói chuyện với thủ tướng Israel. Chúng ta sẽ giúp ông ấy thương lượng với các nước Ảrập.” Oliver ngừng lại rồi nói với Tager bằng giọng khàn khàn. “Mấy phút đầu tôi cứ lo mình bị bắt cóc.”
“Họ không có cơ hội đó đâu,” Peter mỉm cười. “Tôi đã cho một chiếc tàu và một máy bay trực thăng đi theo anh.”
“Nghị sĩ Davis đang chờ được gặp ngài, thưa tổng thống.
Ông ấy không hẹn trước nhưng bảo đây là chuyện khẩn cấp.”
“Hủy bỏ cuộc hẹn tiếp theo của tôi rồi mời Nghị sĩ Davis vào.”
Cửa mở và Todd Davis bước vào phòng bầu dục.
“Thật là một điều ngạc nhiên lý thú, Todd ạ. Mọi việc đều ổn chứ?”
Ngài nghị sĩ ngồi xuống. “Ổn cả, Oliver. Tôi vừa nghĩ đến anh và cho là nên tới đây chuyện phiếm với anh một chút.”
Oliver mỉm cười. “Lịch làm việc của con đã kín vào ngày hôm nay, nhưng với cha thì...”
“Chỉ vài phút thôi. Tôi vừa chạy qua chỗ Peter. Anh ta có kể cho tôi nghe chuyện anh gặp phía Ả Rập.”
Oliver cười. “Thế có được không cha? Có vẻ như cuối cùng chúng ta cũng có hòa bình ở Trung Đông đấy nhỉ?” Ông gõ nhè nhẹ lên bàn. “sau biết bao nhiêu thập kỷ! Ít nhất thì nhiệm kỳ này của con cũng có cái gì đó để nhớ đấy, phải không Todd?”
Nghị sĩ Davis hỏi nhỏ:”Anh đã nghĩ kỹ chưa, Oliver?”
Tổng thống hơi cau mày. “Cái gì? Cha bảo sao?”
“Hòa bình là một từ rất đơm giản, nhưng lại có nhiều ý nghĩa. Hòa bình không bao giờ đem lại bất kỳ lợi nhuận nào bằng tiền. Khi có chiến tranh, nhữnng nước này mua vũ khí do chính ta sản xuất, trị giá hàng tỉ đôla. Khi hòa bình, họ chẳng cần đến vũ khí làm gì. và nếu Iran không bán được dầu, giá dầu lên, thì chính chúng ta , nước Mỹ, sẽ có lợi.”
Oliver nghe mà cứ ngớ người ra. “Todd, nhưng đây là chuyện sinh mệnh con người.”
“Đừng có ngây thơ như thế. Oliver. Nếu chúng ta thực sự muốn có hòa bình giữa Israel và các nước Ả Rập thì chúng ta đã làm điều đó từ lâu rồi. Israel bé như cái kẹo ấy. Bất kỳ vị tổng thống tiền nhiệm nào cũng có thể ép họ thương lượng với phía Ả Rập, nhưng tại sao lại cứ thích để nguyên trạng như vậy? Đừng hiểu lầm tôi nhé. Người Do thái là một dân tộc tốt. Tôi cũng có công chuyện cùng vài người bọn họ trong nghị viện.”
“Con không thể tin rằng cha...”
“Tin hay không tùy anh. Oliver ạ. Hiệp định hòa bình chẳng đem lại lợi lộc gì cho đất nước này cả. Tôi không muốn anh đương đầu với chuyện đó.”
“Con phải đương đầu với chuyện đó?”
“Đừng có bảo với tôi là anh phải làm gì, Oliver ạ.” Nghị sĩ Davis ngồi thẳng dậy. “Tôi sẽ bảo cho anh. Đừng quên là ai đã đưa anh ngồi vào cái ghế này.”
Oliver nói nhỏ nhưng rõ ràng. “Todd, cha có thể không tôn trọng con, nhưng cha phải tôn trọng cái văn phòng (chức vụ) này. Không bàn tới chuyện ai đưa con vào đây, nhưng con đang làm tổng thống.”
Nghị sĩ Davis đứng dậy. “Tổng thống ư? Anh chỉ là một con rối chết tiệt thôi, Oliver ạ. Anh là con bù nhìn của tôi. Anh nắm quyền trong tay, nhưng anh không phải là người ra lệnh.”
Oliver chằm chằm nhìn ông ta một lúc lâu. “Cha và các bạn của cha sở hữu bao nhiêu mỏ dầu hà Todd?”
“Đó không phải là việc của anh. Nếu anh dám làm việc kia, thì coi như anh kết thúc luôn. Anh có nghe tôi nói không đấy? Tôi cho anh 20 giờ để biết nên làm thế nào là khôn ngoan.”
Vào bữa tối hôm đó, Jan nói. “Cha bảo em nói chuyện với anh, Oliver ạ, ông thất vọng lắm.”
Oliver ngẩng lên nhìn vợ và thầm nghĩ. ‘mình rồi cũng sắp phải đương đầu với cả cô ấy đây.’
“Cha đã kể cho em nghe chuyện xảy ra giữa 2 người.” Jan nói tiếp.
“Thế à?”
“Vâng,”bà vươn ngừơi qua bàn hôn nhẹ lên má ông, “và em thấy việc anh sắp làm thật tuyệt vời.”
Phải mất một lúc ông mới hiểu được điều bà nói. “Nhưng cha em phản đối việc đó.”
“Em biết. Và có nghĩa là cha sai. Nếu họ sẵn sàng giải hòa với nhau, anh phải giúp họ nhé.”
Oliver nghe như nuốt từng lời của Jan, ông ngắm bà thật kỹ. Lần đầu tiên ông thấy là một Đệ nhất Phu Nhân xứng đáng biết chừng nào. Bà tham gia vào các hoạt động từ thiện và đứng tên trong một loạt các quỹ cứu trợ, bảo trợ khác. Bà thật đáng yêu, thông minh và cần mẫn; và cũng là lần đầu tiên ông ngắm bà, lòng tự hỏi. Tại sao mình lại cứ đi ngoại tình nhỉ? Tất cả những gì mình cần đễu chẳng đang ở Jan hay sao?
“Anh có một cuộc họp tối nay phải không?”
“Không,” Oliver đáp chậm rãi. “Anh sẽ hủy bỏ nó. “Tối nay anh ở nhà.”
Đêm đó, Oliver đã làm tình với Jan sau một thời gian rất lâu ngưng nghỉ, và cả hai đều thấy tuyệt diệu. Sáng hôm sau, khi ngủ dậy, ông nghĩ. ”Mình phải bảo Peter bỏ cái căn hộ bí mật kia đi mới được.”
Bức thư nằm trên bàn của hắn vào sáng hôm sau:
“Tôi muốn ngài biết rằng tôi là người thực sự ngưỡng mộ ngài, và tôi không muốn làm gì tổn hại tới ngài. Tôi ở trong gara của khách sạn Monroe Arms vào đên ngày 15 ấy và tôi thực ngạc nhiên khi thấy ngài cũng ở đó. Ngày hôm nay tôi đọc được tin về vụ cô gái trẻ bị giết, tôi đã hiểu tại sao ngài quay lại để xóa đi dấu tay trên nút bấm của thang máy. Tôi biết là tất cả báo chí sẽ rất quan tâm tới câu chuyện này của tôi và sẽ trả tiền hậu hĩnh. Nhưng, như đã viết ở trên, tôi là một trong những người ngưỡng mộ ngài. Thực là tôi không muốn làm gì tổn hại đến ngài. Tôi đang cần một chút trợ giúp về mặt tài chính, và nếu ngài có lòng, thì chuyện này sẽ chỉ chúng ta biết mà thôi. Tôi sẽ liên lạc với ngài sau mấy ngày nữa, khi ngài có đủ thời gian để suy nghĩ thấu đáo.
Xin trân trọng chào ngài
Một người bạn”
“Chúa ơi,” Sim Lombardo khẽ kêu lên. “Thật không thể tin được. Bức thư đến đây bằng cách nào?”
“Bằng đường bưu điện” Peter nói, “gửi cho Tổng thống,” Trên bì ghi rõ chữ “Thư riêng.”
Sim Lombardo nói. “Có thể là một kẻ điên rồ nào đó đang định...”
“Không được chủ quan thế, Sim ạ. Tôi cũng chẳng mảy may tin vào chuyện này, nhưng nếu chiû cần một lời thì thào lọt ra ngoài thì Tổng Thống coi như thân bại danh liệt. Chúng ta phải bảo vệ ngài.”
Peter Tager đang ở trụ sở FBI, số 10, phố Pennsylvania, nói chuyện với nhân viên mật vụ Clay Jacobs.
“Anh bảo đó là chuyện quan trọng, đúng không?” Jacobs hỏi.
“Phải” Tager mở chiêc cặp da đen lấy ra một tờ giấy, và đẩy qua bàn cho Clay Jacobs, Ông ta cầm lên và đọc to.
“Tôi muốn ngài biết rằng tôi là người thực sự ngưỡng mộ ngài... Tôi sẽ liên lạc với ngài sau mấy ngày nữa, khi ngài có đủ thời gian để suy nghĩ thấu đáo.”
Tất cả những chữ ở giữa 2 dòng này đều đã bị đè lên bằng băng bút xóa.
Jacobs ngảng lên. “Cái này là gì vậy?”
“Nó liên quan đến việc an toàn của tổng thống. Ngài yêu cầu tôi phải tìm ra ai là người viết bức thư này. Ngài muốn anh hãy tìm dấu vân tay.”
Clay Jacobs lật qua lật lại tờ giấy, chau mày suy nghĩ. “Điều này thật không bình thường chút nào, Peter ạ.”
“Tại sao?”
“Tôi thấy nó có cái gì rất lạ lùng.”
“Tất cả những gì tổng thống muốn anh làm là tìm ra tên của tác giả bức thư.”
“Cứ cho là dấu tay của hắn còn ở trên này.”
Peter gật đầu. “Cho là vậy.”
“Anh chờ chút nhé.” Jacobs đứng dậy và đi sang một phòng khác.
Peter ngồi đó và nhìn qua cửa sổ, nghĩ đến bức thư và hậu quả xấu nhất mà nó có thể đem lại. Đúng 7 phút sau, jacobs quay lại.
“Anh may mắn đấy.”
Tim Peter đập rộn lên. “anh tìm thấy gì chứ?”
“Có,” Jacobs đưa cho Peter một tờ giấy. “Người mà anh tìm có liên quan đến một vụ tai nạn giao thông khoảng một năm trước đây. Tên anh ta là Carl Gorman, làm việc tại khách sạn Monroe Arms.” Ông ta dừng lại, nhìn Peter thật kỹ. “Anh còn cần hỏi gì nữa về chuyện này không?”
“Không,” Peter đáp thật lòg. “Không còn gì nữa.”
“Frank Lonergan đang ở đường dây số 3, thưa bà Stewart. Anh ấy bảo có chuyện khẩn.”
“Tôi sẽ cầm máy cám ơn.” Leslie bấm nút. “Frank?”
“Bà ở đó một mình chứ?”
“Đúng vậy.”
Nàng nghe thấy tiếng anh ta hít một hơi rất sâu. “Ok, chúng ta có việc rồi.” Sau đó, Lonergan trình bày liền một hơi trong suốt 10 phút không nghỉ.
Leslie chạy như bay đến văn phòng của Matt Baker.
“Chúng ta phải nói chuyện, Matt,” nàng thở hổn hển và ngồi xuống chiếc ghế trước mặt ông. “Ông thấy thế nào nếu tôi bảo với ông là tổng thống có liên quan đến vụ Chloe Houston?”
“Ăn khách đấy. Nhưng tôi cho là bà đã đi quá xa.”
“Frank vừa gọi điện đến., Anh ấy đã nói chuyện với bà thống đốc Houston, bà ta không tin là Paul Yerby giết con gái mình. Frank cũng đã nói chuyện với bố mẹ của Paul, Họ cũng không tin là như vậy.”
“Tôi cũng không chờ việc họ tin,” Matt thủng thẳng, “Nếu đó là điều duy nhất bà muốn nói...”
“Mới chỉ là bắt đầu thôi. Frank đến gặp nhân viên khám nghiện thử thi. Chị ta bảo rằng chiếc thắt lưng mà cậu bé dùng để tự tử quấn vào cổ chặt đến nỗi người ta đã phải cắt đứt nó mới tháo ra được...”
Matt nghe chăm chú hơn. “Và...?”
“Frank đến nơi lưu giữ đồ đạc còn lại của Yerby. Chiếc thắt lưng lành nguyên không hề bị cắt xén gì hết.”
Matt thở dài. “Ý bà muốn nói là thằng bé đã bị giết trong nhà giam nhằm bịt miệng chứ gì?”
“Tôi chẳng định suy tưởng gì cả. Tôi chỉ đang tìm kiếm sự thật mà thôi. Đã một lần Oliver Russell thuyết phục tôi dùng Ecstasy dạng lỏng. Hồi ông ta đang tranh cử chức thống đốc bang, một cô gái đã chết trên sông Kentucky vì chất lỏng đó. Khi Oliver đã là thống đốc, người ta tìm thấy nữ thư ký của ông ấy bị nhiễm độc Ecstasy và bất tỉnh trong công viên. Lonergan biết rằng chính tổng thống, sau nhiều lần gọi điện đến thăm hỏi, cuối cùng đã chính thức gợi ý bệnh viện chấm dứt sự sống của cô gái ấy.” Leslie ngập ngừng một chút. “Có một cú phôn từ dẫy phòng Đế vương, hiện trường vụ án, đến Nhà Trắng, đúng vào đêm Chloe Houston bị giết. Trang của ngày 15 tháng 10 đã bị mất. Còn nữ thư ký chuyên trách xếp lịch làm việc cho tổng thống nói với Lonergan rằng ông ta có một cuộc gặp với tướng Whitman vào tối hôm Dó. Nhưng thực ra không hề có cuộc gặp ấy. Frank đã nói chuyện với thống đốc Houston, bà ta nói rằng nhân dịp Chloe đi tham quan Nhà Trắng, bà đã sắp đặt cho con gái gặp Tổng thống vào chiều hôm đó.”
Cả 2 cùng im lặng khá lâu. “Frank Lonergan bây giờ ở đâu?” Matt hỏi.
“Anh ấy đi tìm Carl Gorman, người nhân viên đã tiếp vị khách đặt phòng Đế Vương.”
Jeremy Robinson từ chối.”Xin lỗi, chúng tôi không được phép tiết lộ thông tin cá nhân của các nhân viên ở đây.”
“Thì tôi chỉ xin địa chỉ nhà riêng của anh ấy để...” Frank nài nỉ.
“Thật không may cho anh, Gorman đang đi nghỉ.”
Lonergan thở dài. “Ồ, thế thì tệ thật. Tôi cứ hy vọng anh ấy sẽ có điều kiện giúp tôi một số thông tin thiếu.”
“Thông tin gì?”
“À vâng. Chúng tôi đang viết về vụ con gái bà thống đốc Houston bị chết ở khách sạn này. Tôi chỉ định trao đổi tí chút với Gorman.” Anh lấy ra một quyển sổ, một cây bút. “Khách sạn này có từ khi nào nhỉ? Tôi muốn biết chút ít về lịch sử của nó, các khách hàng...”
Jeremy chau mày. “Chờ chút! Chắc chán là không cần đâu. Ý tôi là... cô ấy có thể bị sát hại ở đâu đó chứ...”
Frank nói vẻ đồng tình. “Tôi hiểu, nhưng chuyện đó lại xảy ra ở đây. Khách sạn của ông sắp nổi danh chẳnng kém gì vụ Watergate đâu.”
“Anh...?”
“Lonergan.”
“Anh Lonergan này. Tôi sẽ rất... rất cám ơn nếu anh có thể... ý tôi muốn nói là cái kiểu quảng cáo này sẽ rất bất lợi cho khách sạn chúng tôi. Liệu có cách nào khác...?”
Lonergan ra vẻ nghĩ ngợi một lát. “Ừ nhỉ, nếu gặp được Gorman, tôi cho là mình có thể tìm ra hướng đi mới đấy.”
“Quý hóa quá. Để tôi đi lấy địa chỉ cậu ta cho anh.”
Frank Lonergan thực sự lo lắng. Theo như những thông tin mà anh thu lượm được, vấn đề ngày càng trở nên sáng tỏ, hé lộ ra một vụ giết người cố ý và một vụ xóa dấu vết ở trình độ cao.
Trước khi đến gặp Gorman anh quyết định rẽ qua nhà một lát. Vợ anh Rita, đang trong bếp chuẩn bị bữa tối. Rita là một phụ nữ mảnh dẻ, tóc đỏ, mắt xanh long lanh và làn da thật mịn màng. Rita ngạc nhiên nhìn chồng bước vào.
“Frank, sao hôm nay anh lại về nhà vào giờ làm việc thế?”
“Thì em cứ coi như anh vừa từ trên trời rơi xuống và hãy chào anh đi.”
Cô nhìn anh. “Không, đã xẩy ra chuyện gì vậy?”
Anh ngập ngừng. “Đã bao lâu rồi em không gặp mẹ?”
“Em vừa gặp mẹ tuần trước. Nhưng sao cơ?”
“Em nên đi thăm mẹ lần nữa, ngay hôm nay. Bây giờ.”
“Có chuyện không ổn hả anh?”
Anh cười. “Chỉ không ổng ư?” rồi đến bên lò sưởi. “Có lẽ em sắp phải lau quét sạch sẽ cái lò sưởi này đấy. Chúng ta sẽ đặt giải thưởng Pulitzer (giải thưởng cao nhất về văn xuôi Mỹ) ở đây và cả một chiếc huy chương Peabody nữa.”
“Anh đang nói gì vậy?”
“Anh đang thu tập tài liệu để thổi bay một vài nhân vật. Ý anh là những nhân vật cỡ chóp bu ấy. Đây quả là câu chuyện thú vị nhất mà anh được tham gia vào.”
“Thế tại sao anh lại muốn em đi thăm mẹ?”
“Có chút nguy hiểm em ạ. Một số người sẽ không thích anh làm vụ này. Anh thấy sẽ tốt hơn nếu em đi xa khoảng vài ngày cho đến khi mọi việc kết thúc.”
“Nhưng anh đang bị nguy hiểm...”
“Anh sẽ không bị nguy hiểm. Anh chỉ bị nguy hiểm khi chúng dùng em để ra điều kiện.”
“Anh chắc chắn không có gì xảy ra với mình chứ?”
“Chắc chắn. Em hãy soạn đồ đi. Anh sẽ gọi điện cho em tối nay.”
“Thôi được.” Rita trả lời, vẻ miễn cưỡng.
Lonergan nhìn đồng hồ. “Anh sẽ đưa em ra ga.”
Một giờ sau, Lonergan dừng xe trước ngôi nhà gạch khiêm nhường nằm rong khu Wheaton. Anh ra khỏi xe, bước tới bên cửa và bấm chuông. Không có ai đáp lại (mở cửa). Anh lại bấm chuông lần nữa và đợi. Cánh cửa nặng nề bất chợt mở ra và một người phụ nữ to béo, tuổi trung niên nhìn anh với đôi mắt dò xét.
“Anh hỏi ai?”
“Tôi là người của ban theo dõi thuế thu nhập – IRS.” Lonergan nói và đường hoàng rút ra một tấm thẻ. “Tôi muốn gặp Carl Gorman.”
“Em trai tôi không ở đây.”
“Chị có biết anh ấy đang ở đâu không?”
“Không!” Câu trả lời tuột ra quá nhanh.
Lonergan gật gù. “Tiếc thật, thôi cũng không sao. Chị có thể thu xếp đồ đạc của anh ấy. Tôi quay về Sở và cho xe tải đến ngay bây giờ đây.” Lonergan làm ra vẻ bỏ đi.
“Chờ chút đã! Xe tải nào cơ? Anh nói chuyện gì vậy?”
Lonergan dừng lại. “Em trai chị không nói gì à?”
“Nói gì cơ?”
Lonergan xoay mình nhìn thẳng vào người phụ nữ. “Anh ấy đang gặp rắc rối.”
Chị ta nhìn anh lo lắng. “Rắc rối gì ạ?”
“Xin lỗi, tôi không được tự tiện nói về chuyện này,” anh lắc đầu, “anh ấy có vẻ là một chàng trai dễ thương đấy nhỉ?”
“Phải,” chị ta nói vẻ thiết tha, “Carl là người rất tuyệt vời.”
Lonergan gật đầu. “Đấy cũng là cảm giác của tôi khi tôi thẩm tra cậu ta.”
Chị gái Carl lo lắng. “Thẩm tra nó về chuyện gì?”
“Gian dối trong khai báo thuế thu nhập. Thật tội quá. Tôi muốn đến mách cho cậu ấy cách giải quyết vụ này, nhưng...” Anh nhún vai, “Đành vậy, nếu cậu ấy không có ở đây...” anh lại quay đi.
“Chờ đã! Nó... nó đang ở khu câu cá. Tôi ... tôi được dặn là không nói với bất cứ ai.”
“Thậm chí cả với tôi?”
“Không, anh lại là chuyện khác. Nó đang ở trại câu cá Sunshine bên hồ Richmond, bang Virginia.”
“Thôi được, tôi sẽ đến đó tìm cậu ấy.”
“Thế thì hay quá. Anh dám chắc là chuyện của nó sẽ ổn thỏa chứ?”
“Hoàn toàn chắc,” anh quả quyết, “tôi sẽ giúp cậu ấy giải quyết chuyện này.”
Lonergan cho xe chạy thẳng về phía nam. Richmond nằm cách đó khoảng 100 dặm. Trong những kỳ nghỉ hè, cách đây vài năm, Lonergan thường về đấy nghỉ ngơi, câu cá, và thường gặp may. Hy vọng lần này anh cũng gặp may như vậy.
Trời hơi mưa, nhưng Carl Gorman chẳng hề quan tâm. Đây là lúc cá sắp đớp mồi. Anh ta đang săn loại cá vược vằn. Mấy chiếc cần câu đã mắc sẵn mồi đặt ở phía sau con thuyền có mái chèo. Sóng vỗ nhè nhẹ vào mạn thuyền đang lênh đênh giữa hồ. Hình như mồi câu vẫn chưa đủ sức hấp dẫn với lũ cá. Chúng có vẻ không vội vàng. Anh ta cũng chẳng sốt ruột gì cả. Chưa bao giờ Gorman vui hơn bây giờ. Anh ta sắp sửa giàu to. Giàu hơn cả những gì hằng mơ đến. Đúng là một may mắn không ngờ. Mình đã ở đúng nơi, đúng lúc.
Anh ta quay lại khách sạn Monroe Arms để lấy chiếc áo jacket bị bỏ quên và vừa định rời bãi đậu xe thì cửa thang máy riêng dẫn lên dẫy phòng Đế Vương bật mở. Khi nhìn thấy người đàn ông bước ra, Carl Gorman ngồi chết lặng trong xe, không động cựa nổi. Rồi Carl thấy ông ta quay lại, lấy khăn tay lau chuì kỹ lưỡng các nút bấm của thang máy rồi ra xe và lái đi.
Song chuyện này cũng sẽ bị quên đi nếu sáng hôm sau Carl không đọc tin một cô gái bị chết trên dãy phòng Đế vương của khách sạn Monroe Arms đăng trên báo. Anh ta sắp xếp các chi tiết lại với nhau. Phần nào, Gorman thấy tiếc cho người đàn ông kia. Mình thực sự ngưỡng mộ ông ấy. Rắc rối là ở chỗ, khi bạn là một người nổi tiếng, bạn sẽ không thể giấu mặt vào đâu được. Dù bạn đi bất cứ đâu thì cả thế giới cũng nhận ra bạn. Ông ta sẽ phải trả tiền mình để mình im lặng. Ông ta không còn cách nào khác. Mình sẽ bắt đầu với 100 000 đôla. Ông ta đã trả một lần thì sẽ phải trả mãi mãi. Có thể mình sẽ mua 1 lâu đài ở Pháp hay 1 biệt thự ở Thụy Sĩ...
Carl cảm thấy dây câu bị giật mạnh và tiếng vặn răng rắc của cần. Anh ta có thể cảm nhận được sự cố gắng thoát ra của con cá. Mày không chạy được đâu. Mày đã cắn câu rồi.
Trong khoảnh khắc, Carl nghe thấy tiếng động cơ của xuống máy đang tiến lại gần. Họ đâu có cho phép thuyền gắn động cơ vào hồ nhỉ. Chúng sẽ làm bọn cá chạy mất thôi. Chiếc xuồng máy chạy phăng phăng về phía Carl.
“Này, đừng lại gần như thế,” Carl la lên.
Chiếc xuồng máy vẫn không có vẻ muốn đổi hướng hoặc dừng lại.
“Này, cẩn thận đấy. Có mắt không hả? Mẹ kiếp...” Chiếc xuồng máy chồm thẳng vào con thuyền câu, chẻ nó ra làm đôi và hất tung Carl xuống.
Ngột thở quá! Carl gắng nhô đầu lên khỏi mặt nước. Chiếc xuồng máy vòng lại và nhằm thẳng vào Carl lao tới . Điều cuối cùng cùng Catrl Cảm nhận được trước khi chiếc xuống húc vào đầu anh ta là con cá vẫn đang cố giật ra khỏi lưỡi câu.
Khi Frank Lonergan đến nơi, vùng hồ đã chật kín xe cảnh sát. Có cả một xe cứu thương đang nhấp nháy chạy đi. Frank ra khỏi xe và hỏi người đứng bên. “Có chuyện gì mà nhộn nhạo lên thế?”
“Một chàng trai khốn khổ nào đấy bị tai nạn trên hồ. Anh ta chẳng còn gì nhiều...”
Lonergan hiểu ra ngay mọi chuyện.
Đúng nửa đêm , Frank Lonergan vẫn một mình cần mẫn làm việc trên máy vi tính.Anh đang viết câu chuyện có thể lật nhào tổng thống Hoa Kỳ. Bài báo sẽ đem lại cho anh giải Pulitzer. Không còn nghi ngờ gì nữa. Sự kiện này sẽ giúp anh nổi tiếng hơn cả Woodward và Bernsters. Đây chắc chắn sẽ là câu chuyện của thế kỷ.
Tiếng chuông cửa cắt ngang luồng suy nghĩ của anh. Anh đứng dậy và đi ra. “Ai đấy?”
“Có bưu phẩm của bà Leslie Stewart gửi cho anh đây.”
Bà ta có tin mới đây. Anh mở cửa. Một tia sáng kim loại ánh lên và xẻ đôi giữa ngực anh.
Mọi sự sau đó lại chìm trong yên tĩnh.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.