Kẻ Tầm Xương

Chương 31:




Ba chiếc xe tuần tra chậm rãi chạy dọc theo những con phố của Lower East Side. Hai tên cớm trong một xe. Ánh mắt tìm kiếm.
Một lát sau, hai chiếc xe độc mã đen xuất hiện… ý hắn là hai chiếc sedan. Không được đánh dấu, nhưng ánh đèn tìm kiếm dưới gương chiếu hậu bên trái đã không để lại chút nghi ngờ nào về việc họ là ai.
Hắn biết họ sẽ thu hẹp vùng tìm kiếm, tất nhiên là như vậy, chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ tìm thấy nhà hắn. Nhưng hắn bị sốc khi thấy họ ở gần như vậy. Và đặc biệt hắn khó chịu khi mấy tên cớm đã ra khỏi xe và kiểm tra chiếc Taurus màu bạc đỗ trên phố Canal.
Làm thế quái nào mà chúng tìm được xe ngựa của hắn? Hắn biết rằng ăn trộm xe có rủi ro rất lớn nhưng hắn nghĩ phải mất vài ngày Hertz mới biết đến chiếc xe bị mất cắp. Mà kể cả họ có phát hiện được thì hắn chắc chắn rằng cớm sẽ không bao giờ liên kết hắn với kẻ trộm. Chà, họ giỏi đấy chứ.
Một trong những tên cớm có ánh mắt độc ác liếc nhìn chiếc xe của hắn.
Nhìn thẳng về phía trước, Kẻ Tầm Xương chậm rãi rẽ vào Phố Houston, biến mất trong một đám đông xe taxi khác. Nửa tiếng sau, hắn bỏ rơi chiếc taxi, chiếc Hertz Taurus, đi bộ về nhà.
Maggie bé nhỏ ngước nhìn hắn.
Con bé đang hoảng sợ, nhưng nó đã không khóc nữa. Hắn băn khoăn không biết có nên giữ con bé hay không. Kiếm cho mình một đứa con gái. Nuôi nấng nó. Ý nghĩ này xuất hiện trong đầu hắn chỉ một khoảnh khắc rồi biến mất.
Không, sẽ có quá nhiều câu hỏi. Ngoài ra, còn có điều gì đó ghê rợn trong cái cách con bé nhìn hắn. Trông con bé có vẻ già trước tuổi. Nó sẽ luôn nhớ hắn đã làm những gì. Ồ, nhưng có thể nó sẽ nghĩ đó chỉ là giấc mơ. Nhưng rồi một ngày nào đó, sự thực sẽ lộ ra. Luôn luôn là vậy. Có giấu thế nào chăng nữa, sự thực vẫn sẽ lộ ra.
Không, hắn không thể tin con bé nhiều hơn hắn tin bất cứ ai khác. Cuối cùng thì bất cứ linh hồn tội nghiệp nào cũng có thể làm hại hắn. Mày có thể tin tưởng sự căm thù. Mày có thể tin tưởng xương cốt. Tất cả những thứ còn lại chỉ là sự phản bội.
Hắn quỳ xuống cạnh Maggie và bóc miếng băng dính khỏi miệng cô bé.
“Mẹ ơi!” Con bé gào khóc. “Cháu muốn mẹ!”
Hắn không nói gì, chỉ đứng đó và nhìn xuống con bé. Nhìn vào hộp sọ mỏng manh của nó. Những cánh tay mỏng manh của nó.
Nó la hét như còi báo động.
Hắn lấy đôi găng tay. Những ngón tay của hắn lơ lửng trên đầu con bé trong giây lát. Sau đó hắn vuốt ve mớ tóc mềm mại của nó. (“Có thể lấy được dấu tay trên da thịt, nếu lấy trong vòng chín mươi phút sau khi tiếp xúc (Xem KROMEKOT) nhưng chưa có ai lấy được và tái tạo lại dấu vân tay từ tóc người.” Lincoln Rhyme, Vật chứng, xuất bản lần thứ tư, New York: Forensic Press, 1994.)
Kẻ Tầm Xương chậm rãi đứng dậy và leo lên cầu thang, vào một phòng khách lớn trong tòa nhà, đi qua những bức vẽ trên tường – những người công nhân, những người phụ nữ và trẻ em đang nhìn chằm chằm. Hắn nghiêng đầu lắng nghe tiếng động mờ nhạt phía bên ngoài. Sau đó lớn dần – tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng. Hắn vơ vũ khí và vội vã chạy ra phía sau tòa nhà. Mở chốt cánh cửa rồi bất thình lình đẩy nó mở tung, hắn đã ở tư thế hai tay giương súng.
Một đàn chó hoang đang nhìn hắn. Chúng nhanh chóng quay trở lại với cái thùng rác vừa bị chúng lật đổ. Hắn đút súng vào túi và quay lại phòng khách.
Hắn lại thấy mình đứng cạnh ô cửa sổ kính chai, nhìn ra bãi tha ma cũ. Đúng rồi. Đằng kia! Lại có một người đàn ông mặc đồ đen đứng trong nghĩa địa. Phía xa, bầu trời bị đâm thủng bởi cây cột buồm của những con thuyền cao tốc và thuyền buồm đang đậu trên sông Đông dọc theo bờ Out Ward.
Kẻ Tầm Xương cảm thấy một nỗi buồn nặng trĩu. Hắn băn khoăn không hiểu có phải vừa xảy ra thảm kịch gì hay không. Có thể là đám cháy lớn năm 1776 vừa mới phá hủy hầu hết những tòa nhà ở Broadway. Hay dịch sốt vàng da năm 1795 đã tàn sát cộng đồng người Ireland. Hay đám cháy trên du thuyền tướng Slocum năm 1904 vừa giết chết hơn một nghìn phụ nữ và trẻ em, tàn phá khu kiều dân Đức ở Lower East Side.
Hoặc hắn đang cảm thấy những thảm kịch sắp diễn ra.
Sau vài phút, tiếng la hét của Maggie đã lắng xuống, thay vào đó là những âm thanh của thành phố xưa, tiếng gầm của động cơ hơi nước, tiếng chuông leng keng, tiếng súng nổ, tiếng vó ngựa cộng hưởng trên những con đường trải sỏi.
Hắn tiếp tục nhìn, quên đi những tên cớm đang theo dấu hắn, quên đi Maggie, chỉ còn nhìn hình ảnh ma quái đang trôi trên phố.
Ngày đó và bây giờ.
Mắt hắn tập trung ra ngoài cửa sổ một lúc lâu, lạc lối vào một thời đại khác. Vì thế hắn không nhận thấy những con chó hoang, chúng đã đi qua cánh cửa hậu hắn để mở tung. Chúng nhìn hắn qua ô cửa phòng khách và chỉ dừng lại một thoáng trước khi quay lại và lặng lẽ nhảy ra phía sau ngôi nhà.
Mũi hếch lên ngửi mùi, tai lắng nghe những tiếng động của một nơi chốn xa lạ. Nhất là tiếng khóc lóc yếu ớt vang lên từ đâu đó bên dưới chúng.
Đó là dấu hiệu của sự tuyệt vọng, khi mà những Chàng trai Dũng cảm cũng phải tách nhau ra.
Bedding tìm kiếm khoảng nửa tá khu nhà quanh Delancey, Saul ở xa hơn về phía nam. Sellitto và Banks, ai cũng có khu vực tìm kiếm của mình, cùng với hàng trăm sĩ quan, đặc vụ FBI và quân nhân khác. Họ đang tìm kiếm từng nhà, hỏi về một người đàn ông nhỏ bé, một đứa trẻ kêu khóc, một chiếc Taurus màu bạc, một tòa nhà kiểu liên bang bị bỏ hoang, mặt tiền là đá cẩm thạch, phần còn lại là đá cát kết nâu.
Hả? Ý anh muốn nói cái gì, kiểu liên bang?... Có nhìn thấy đứa bé không à? Anh hỏi tôi có nhìn thấy một đứa bé ở Lower East Side không ư? Này Jimmy, cậu có nhìn thấy đứa bé nào quanh đây không? Ít nhất là không phải trong sáu mươi giây vừa qua?
Amelia Sachs đang thả lỏng người. Cô đòi được tham gia nhóm của Sellitto, nhóm đi đến cửa hàng ShopRite ở Đông Houston, nơi đã bán chân bê cho thủ phạm 823. Và đến trạm xăng đã bán xăng cho hắn. Thư viện nơi hắn chôm cuốn Crime in Old New York.
Nhưng họ không tìm thấy manh mối gì ở đây và tản ra như những con sói ngửi thấy quá nhiều mùi. Mỗi con chọn lấy một lãnh địa để tự nhận là của mình.
Sachs khởi động chiếc RRV mới để đến một khối nhà khác, cô cảm thấy sự bất ổn quen thuộc khi khám nghiệm hiện trường trong mấy ngày qua: quá nhiều chứng cứ, quá nhiều sân phải bao. Cảm thấy sự vô vọng của nó. Ở đây, trên những con phố nóng bức, khó chịu, rẽ nhánh thành hàng trăm con phố và ngõ khác, chạy qua hàng nghìn ngôi nhà – tất cả đều đã cũ – việc tìm kiếm nơi ẩn nấp cũng có vẻ bất khả thi như tìm kiếm một sợi tóc như Rhyme đã kể với cô, bị dính lên trần nhà do sức giật của khẩu ổ quay .38.
Cô định đến từng con phố, nhưng thời gian trôi đi và khi cô nghĩ đến đứa bé bị chôn dưới hầm sắp chết, cô bắt đầu tìm kiếm nhanh hơn, lao trên các con phố, nhìn sang hai bên để tìm tòa nhà bằng đá cẩm thạch hồng. Sự hoài nghi làm cô đau đớn. Cô có bỏ qua tòa nhà nào vì quá vội vàng không? Hay cô cần lái xe nhanh như chớp và qua nhiều phố hơn?
Tiếp tục. Một khối nhà, thêm khối nữa. Vẫn chẳng có gì.
Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những trang viết của hắn có một điều chắn chắn là (nếu như những tuyên bố của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình những ân huệ.
Ngón tay trái của Lincoln Rhyme động nhẹ và chiếc khung lật trang giấy màu vỏ hành của cuốn Crime in Old New York, cuốn sách được hai nhân viên liên bang đem tới mười phút trước, dịch vụ này được cung cấp nhờ phong cách không thể bắt chước của Fred Dellray.
“Thịt da tan biến và cơ thể yếu đuối – (tên tội phạm viết bằng nét chữ thô thiển nhưng đều đặn) – xương cốt là phần mạnh nhất của cơ thể. Có thể thịt da chúng ta già cỗi, nhưng xương cốt chúng ta luôn tươi trẻ. Đó là mục đích cao quý của tôi, nó vượt qua tôi và làm sao mà ai đó lại có thể tranh luận về nó được. Tôi ban ơn cho họ. Tất cả bọn họ giờ đã bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi chiếm hữu họ đến tận xương.”
Terry Dobyns đã đúng. Chương Mười: “James Schneider: Kẻ Tầm Xương”, là bản thiết kế cho hành vi của Đối tượng 823. MO giống hệt nhau – lửa, động vật, nước, luộc sống. 823 lảng vảng ở những nơi Schneider đã đến. Hắn nhầm một khách du lịch người Đức với Hanna Goldschmidt, một người nhập cư đầu thế kỷ, và hắn đã bị lôi kéo đến khu dân cư người Đức để tìm kiếm nạn nhân. Và hắn gọi Pammy Ganz bé nhỏ bằng một cái tên khác – Maggie. Rõ ràng hắn nghĩ rằng cô bé là O’Connor, một trong những nạn nhân của Schneider.
Trong cuốn sách có một bức tranh khắc acid rất tệ, được bọc bằng giấy, minh họa James Schneider ma quái đang ngồi trong tầng hầm, ngắm nghía cái xương chân.
Rhyme nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ Randel Survey của thành phố.
Xương cốt…
Rhyme nhớ lại một hiện trường vụ án mà anh đã một lần khám nghiệm. Anh được gọi đến một công trường xây dựng ở Lower Manhattan, nơi máy xúc phát lộ ra một cái sọ người nằm cách mặt đất vài feet trong một khu đất trống. Ngay lập tức Rhyme thấy rằng cái sọ đã rất cũ và anh mời nhà pháp y nhân chủng học tham gia vào vụ này. Họ tiếp tục đào và phát hiện thêm một số xương và sọ người nữa.
Một nghiên cứu nhỏ cho thấy năm 1741 có một cuộc nổi loạn của nô lệ ở Manhattan, một số nô lệ – và những người da trắng theo chủ nghĩa bãi nô – đã bị treo cổ trên một hòn đảo nhỏ ở Collect. Hòn đảo này trở thành một pháp trường treo cổ. Một vài nghĩa địa không chính thức và mỏ đất sét đã được tìm thấy trong khu vực.
Collect là ở chỗ nào nhỉ? Rhyme cố nhớ lại. Gần nơi giao nhau giữa Chinatown và Lower East Side. Nhưng khó nói được chắc chắn vì cái ao đã bị lấp rất lâu rồi. Nó đã là…
Đúng rồi! Anh nghĩ, tim đập mạnh. Collect bị lấp đi vì nó đã ô nhiễm tới mức ủy ban thành phố coi nó là nguy cơ lớn đối với sức khỏe. Một số nơi gây ô nhiễm chính là những xưởng thuộc da phía Đông.
Đã khá thuần thục với bộ quay số, Rhyme không quay nhầm số nào và chỉ cần một lần anh đã gọi được cho Thị trưởng. Tuy nhiên, người thư ký nói hiện giờ ông ta đang ăn sáng với Liên Hiệp Quốc. Nhưng khi Rhyme xưng tên, người thư kí nói. “Xin chờ một phút, thưa ngài.” Không phải chờ lâu đến thế, anh đã được nói chuyện với một người đàn ông vừa nói miệng vừa đầy thức ăn: “Nói đi, thám tử. Công việc của các anh có cái mẹ gì hay không?”
“5885, nghe rõ.” Amelia Sachs trả lời máy bộ đàm. Rhyme nghe thấy sự bực dọc trong giọng nói của cô.
“Sachs.”
“Không hay rồi.” Sachs nói với anh. “Chúng ta không gặp may.”
“Anh nghĩ anh đã tóm được hắn rồi.”
“Cái gì?”
“Khối nhà sáu trăm, East Van Brevoort. Gần Chinatown.”
“Làm sao anh biết?”
“Thị trưởng vừa giúp anh liên lạc với giám đốc Hội Sử học. Ở đó có một khu khai quật khảo cổ. Một nghĩa địa cũ. Đối diện với chỗ trước đây từng là một xưởng thuộc da. Ở đó trước đây đã có mấy ngôi biệt thự kiểu liên bang. Anh nghĩ hắn ở gần đấy.”
“Em đi đây.”
Anh nghe thấy tiếng lốp xe rít lên, sau đó là tiếng còi hụ.
“Anh đã gọi cho Lon và Haumann”, anh nói thêm. “Họ cũng đang trên đường tới đó.”
“Rhyme”, giọng nói khẩn cấp của cô vang lên. “Em sẽ cứu cô bé ra.”
À, em có một trái tim nhân hậu của một cảnh sát, Amelia, một trái tim chuyên nghiệp, Rhyme nghĩ. Nhưng em vẫn chỉ là lính mới. “Sachs?” Anh nói.
“Vâng?”
“Anh đã đọc cuốn sách ấy. 823 đã chọn một kẻ xấu xa làm hình mẫu cho hắn. Một kẻ thực sự xấu xa.”
Cô không nói gì.
“Điều anh định nói là”, anh tiếp tục, “bất kể cô bé có ở đó hay không, nếu em tìm thấy hắn và hắn phản ứng, em phải hạ hắn ngay.”
“Nhưng ta có thể bắt sống hắn, hắn có thể dẫn ta đến chỗ cô bé. Ta có thể…”
“Không, Sachs. Nghe anh này. Em hạ hắn. Khi có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy hắn lấy vũ khí, bất kỳ thứ gì… em hãy hạ hắn.”
Tiếng tĩnh điện loạt xoạt. Sau đó anh nghe thấy giọng nói bình thản của cô. “Em đang ở East Van Brevoort, Rhyme ạ. Anh đã đúng. Trông giống như chỗ của hắn.”
Mười tám chiếc xe không số, hai xe thùng ESU và chiếc RRV của Sachs tụ tập gần một con phố ngắn, hoang vắng ở Lower East Side.
East Van Brevoort trông như ở Sarajevo. Các tòa nhà bị bỏ hoang, một vài tòa nhà đã bị đốt trụi. Phía đông con phố là một bệnh viện đổ nát, mái của nó đã trũng xuống. Bên cạnh là một cái hố lớn trên mặt đất, không có dây chắn, với tấm biển Cấm vào có đóng dấu của Tòa án Quận – một khu khai quật khảo cổ mà Rhyme đã nhắc đến. Một con chó gầy giơ xương đã chết nằm trong ống máng, bị chuột gặm.
Ở giữa bên kia phố là một ngôi nhà mặt tiền cẩm thạch, màu hồng nhạt với một nhà xe bên cạnh, trông khả dĩ hơn một chút so với những ngôi nhà đổ nát dọc Van Brevoort.
Sellitto, Banks và Haumann đứng cạnh chiếc xe thùng ESU trong khi một tá sĩ quan khác đang mặc áo giáp chống đạn và kiểm tra những khẩu M-16. Sachs đi cùng họ, không hỏi han, nhét mớ tóc vào mũ bảo hiểm và bắt đầu mặc áo giáp.
Sellitto nói: “Này Sachs, cô không phải là lính chiến thuật.”
Kéo dây chiếc áo khóa dán Velcro xuống, cô nhìn chằm chằm vào viên thám tử, lông mày nhướn cao, cho tới khi anh ta chịu nhượng bộ: “Được rồi, nhưng cô ở hàng chặn hậu. Đó là mệnh lệnh.”
Haumann nói: “Cô sẽ ở Nhóm Hai.”
“Vâng, thưa ngài. Tôi chịu được việc này.”
Một sĩ quan ESU đưa cho cô khẩu súng máy MP-5. Cô nghĩ tới Nick – cuộc hẹn hò của họ ở trường bắn tại Rodman’s Neck. Họ tập bắn súng tự động trong hai giờ, bắn theo hình chữ Z qua cửa, nạp đạn nhanh bằng cái kẹp đạn hình quả chuối và tháo súng M-16 để lau sạch cát. Nick thích bắn từng loạt ngắn nhưng Sachs không thích hỏa lực hỗn loạn của những thứ vũ khí lớn cho lắm. Cô đề nghị một trận đấu giữa chúng với khẩu Glock và đã thắng anh ba lần liên tiếp từ khoảng cách mười lăm feet. Anh cười và hôn cô say đắm khi những vỏ đạn cuối cùng văng ra, nảy trên nền trường bắn.
“Tôi dùng súng của mình thôi”, cô nói với viên sĩ quan ESU.
Những Chàng trai Dũng cảm chạy tới, lom khom như thể sợ xạ thủ bắn tỉa.
“Chúng tôi có tin đây. Chẳng có ai ở đây. Khu này…”
“Hoàn toàn trống rỗng.”
“Cửa sổ nhà hắn đều bị chặn. Lối vào phía sau…”
“Đi theo ngõ. Cửa mở.”
“Mở?” Haumann hỏi, nhìn các sĩ quan của mình.
Saul khẳng định: “Không những không khóa mà mở.”
“Bẫy à?”
“Chúng tôi không nghĩ vậy. Nhưng không có nghĩa là…”
“Không có gì.”
Sellitto hỏi: “Trong ngõ có cái xe nào không?”
“Không.”
“Hai cửa vào. Một cửa chính đằng trước…”
“Trông có vẻ đóng chặt. Cửa vào thứ hai là của nhà để xe. Cửa kép, đủ rộng cho hai xe. Dùng khóa xích.”
“Nhưng đều nằm trên sàn cả.”
Haumann gật đầu: “Như vậy có thể hắn vẫn ở trong nhà.”
“Có thể”, Saul nói, “nói cho anh ta nghe chúng ta nghĩ chúng ta nghe thấy gì.”
“Rất nhỏ. Có thể là tiếng khóc.”
“Có thể là tiếng la hét.”
Sachs hỏi: “Cô bé?”
“Có thể. Nhưng đã ngừng. Làm sao mà Rhyme nghĩ ra chỗ này?”
“Các cậu nói tôi nghe đầu óc anh ta làm việc như thế nào?”, Sellitto nói.
Haumann gọi một chỉ huy của mình lại và ra lệnh. Ngay sau đó, hai chiếc xe thùng của ESU lao tới ngã tư đường và chặn cả hai đầu phố.
“Nhóm Một, cửa trước. Lấy mìn phá cửa. Cửa gỗ nên để mìn thấp xuống, được chứ? Nhóm Hai, vào ngõ. Nghe tôi đếm đến ba, rõ chưa? Vô hiệu hóa nhưng có thể cô bé còn trong đó nên phải nhìn phông trước khi siết cò. Sĩ quan Sachs, cô chắc là cô muốn làm việc này chứ?”
Một cái gật đầu chắc chắn.
“Được rồi, các chàng trai, cô gái. Đi tóm hắn thôi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.