Lola Chạy Trốn

Chương 11:




Lola đến trung tâm y tế quần đảo nam Florida vào một lúc nào đó tầm hai giờ sáng. Đó là lần đầu tiên trong nhiều ngày trời cô biết chính xác giờ giấc. Cô được phân cho một phòng riêng để được quan sát qua đêm. Tay và chân cô đều thấy quá nặng nề để nhấc lên, và cô tự hỏi sao mình lại không hề cảm thấy muốn hò reo nhảy múa. Cô đã chờ giây phút này từ tối thứ bảy. Cô đã đi qua địa ngục, tranh đấu để sinh tồn, và tất cả những gì cô cảm thấy là tê liệt. Lần này, không chỉ đầu ngón tay ngón chân cô râm ran với thứ cảm xúc ít ỏi.
Cảm giác lịm người đã bắt đầu ngay sau khi cô và Max chạy khỏi đảo, và mỗi g iờ trôi đi cảm giác ấy chỉ càng tệ hơn. Cô đoán nó chắc có liên quan tới dòng adrenaline đang gặm nhấm dần từng mẩu năng lượng cuối cùng của cô. Cả điều đó lẫn việc cô có đúng một bữa ăn đúng nghĩa trong vài ngày qua.
Cô không chắc họ đã ở trên con thuyền của lũ buôn lậu bao lâu, nhưng khi cô, Max, và Bé Cưng sang tàu của đội bảo vệ bờ biển, cô đã được đội cứu thương khẩn cấp trên tàu kiểm tra, và ông bác sĩ đã quyết định rằng cô mắc chứng mất nước, hạ thân nhiệt nhẹ, và kiệt sức. Phần kiệt sức cô cũng có thể tự mình chẩn đoán được. Phần đó thực sự là ngu ngốc, nhưng chứng hạ thân nhiệt và mất nước thì làm cô ngạc nhiên. Đặc biệt là chứng mất nước, khi mà quần áo lót của cô vẫn ướt đẫm do chuyến bơi trong biển của cô.
Trong khi cô được truyền máu và bị ép nằm thẳng đờ trên lưng trong khu y tế, Max đã ở đâu đó trên phòng chỉ huy, chuyện phiếm với sĩ quan trưởng. Cô chỉ có một mình, nhưng ít nhất lúc đó cô cũng vẫn còn Bé Cưng đi theo.
Đến lúc họ tới được cục Bảo vệ bờ biển Key West, cô cảm thấy tệ hơn chứ không phải khá lên. Cô kiệt sức đến nỗi không thể nghĩ được gì. Một xe cấp cứu đã chờ cô sẵn, và cô được đặt lên một cáng cứu thương, vẫn choàng cái chăn Max đã đưa cô.
Có ai đó đã lấy Bé Cưng khỏi cánh tay cô, và cô tranh cãi để giữ nó ở cùng mình, nhưng vô ích. Cô được bảo đảm rằng nó sẽ được ăn được uống và được chăm sóc y tế tuyệt vời ở khu nhốt động vật địa phương.
Max hẳn có thể làm gì đógiữ Bé Cưng ở cùng cô. Anh hẳn có thể hăm dọa họ chỉ bằng một cái quắc mắt, nhưng chẳng thấy anh ở đâu hết. Lola yếu ớt khủng khiếp và mất hết phương hướng, và khi cô nhìn mọi thứ diễn ra xung quanh mình, cô cũng không thể kết nối các hành động lại với nhau.
Mắt cô đáp xuống nhân viên y tế và sĩ quan quân đội, nhưng chẳng gì mang chút quen thuộc. Cô nhìn qua ánh sáng rực rỡ đang chiếu xuống và phản chiếu quanh trụ sở cục. Cô chẳng kiểm soát được những gì đang diễn ra với mình, và cô tìm Max. Chắc chắn rằng chỉ cần cô có thể tìm ra anh thôi, anh cũng sẽ làm mọi thứ ổn lại. Nhưng cô chẳng thấy anh ở đâu cả.
Cuối cùng, khi Lola được nâng vào xe cứu thương, cô thoáng thấy bóng dáng Max lần cuối cùng. Đứng ở rìa một bể ánh sáng, anh nâng tay lên vẫy chào ngắn gọn trước khi trèo lên một chiếc xe đang đợi. Các ô kính đen nuốt chửng lấy anh và rồi anh đi mất. Cảm giác hoảng loạn bất thình lình thít chặt dạ dày cô, và cô tự nhắc mình rằng đến giờ cô đã ổn. Cô an toàn, và cô không phải dựa vào Max nữa. Cô không cần anh nữa.
Thế thì sao cô lại cảm thấy như mình vẫn cần anh? Thậm chí lúc này, khi cô nằm trong một chiếc giường bệnh ấm áp rúc mình lại như một con rệp, cô lại nghĩ mình cần anh đến tuyệt vọng?
“Cô cảm thấy thế nào?” một cô y tá trong chiếc áo màu hoa cà xen ngọc lam hỏi khi xem mạch đập của Lola.
Thấy hỗn loạn, cô nghĩ thầm. “Mệt.” Cô gãi cổ. “Muốn ăn.”
“Tôi sẽ lấy cho cô một ít kem ô xít thoa da,” cô y tá bảo cô khi thả tay cô ra.
Không lâu sau khi Lola đến trung tâm y tế, gia đình cô đã được thông báo và cô được báo lại rằng cha mẹ cô đang trên đường tới Florida. “Tôi có thể đi khi cha mẹ tôi tới đây phải không?”
“Cô sẽ phải hỏi bác sĩ chuyện đó.” Cô ta viết gì đó lên đồ thị của Lola. “Bếp đóng cửa rồi, nhưng chúng tôi có trữ ít bim bim trong tủ lạnh ở hành lang. Nếu cô đói, chúng tôi có bánh pudding, nước ép, và soda.
Cảm giác hỗn loạn và cơn đói đang gặm nhấm dạ dày cô nhắc cô nhớ rằng tất cả những gì cô đã ăn hôm đó là ít pho mát và bánh quy. Tay chân cô đều lạnh và cô cảm thấy rỗng không, như thể cô sắp xì hơi. Những cảm xúc chẳng này chẳng có gì mới với cô, chúng đã cũ và rất quen thuộc, nhưng lần đầu tiên trong một thời gian dài, cô mới lại nghe thấy tiếng hối thúc quen thuộc vừa to vừa rõ ràng. Giọng nói quyến rũ bảo cô rằng nếu tối nay cô không ăn, mai cô sẽ giảm được một cân rưỡi. “Tôi thực sự đang rất đói, nên tôi sẽ nhận lấy bất kỳ thứ gì cô có thôi.”
“Tôi sẽ xem xem mình có thể vơ vét được gì cho cô nhé.” Cô y tá mỉm cười và quay ra cửa.
“Có ai đang chờ để gặp tôi không?” Lola hỏi, ngăn cô ta lạ.
Cô y tá thò đầu ra ngoài và nhìn ngang dọc hành lanh. “Không. Lúc trước có cảnh sát trưởng ở đây, nhưng xem ra ông ta đã đi rồi.”
Lola biết về viên cảnh sát trưởng. Ông ta muốn hỏi cô vài câu hỏi về mấy ngày vừa qua, nhưng cô đã hoãn ông ta lại tới sáng. Đầu tiên ông ta rất kiên trì, nhưng cuối cùng cũng dịu lại. Cô cho là vì trông cô cũng tệ như những gì cô đang cảm thấy, nhưng thật lòng mà nói thì cô không quan tâm đến lý do nữa. Cô thực sự rất mệt, nhưng hơn cả cảm giác kiệt quệ, cô muốn nói chuyện với Max trước khi nói gì đó. “Cô có thấy một người đàn ông cao tóc đen mắt đen không?”
“Không. Tôi nghĩ mình sẽ nhớ một người như thế,” cô y tá nói, và đôi dép cao su trắng của cô ta nện lên vải lót sàn nhà khi cô ta rời phòng.
Lola gãi một vết côn trùng đốt trên cổ, rồi cô chạm vào mẩu băng dính đang dính lên mũi kim truyền trên mu bàn tay cô. Cô y tá mang đến cho cô ít súp rau, một mẩu bánh mỳ, bánh pudding, và một lon Coca. Khi cô ăn xong, cô đẩy bàn gấp sang một bên và nghĩ về Max. Cô tự hỏi anh đã được đưa đi đâu và khi nào thì cô sẽ gặp lại anh. Cô không chút nghi ngờ rằng anh sẽ đến xem cô trước khi rời bang. Họ đã cùng nhau trải qua quá nhiều chuyện để cho phép anh rời đi mà không nói gì với cô. Anh đã cứu mạng cô, và họ đã làm tình. Và phải, cô biết không phải là tình yêu đối với ai trong hai người họ, nhưng nó cũng là một sự gắn kết thân mật mà cô sbao giờ hối tiếc. Hay sẽ quên, đặc biệt là khi anh là người đàn ông duy nhất cô từng phải nài xin tình dục theo đúng nghĩa đen. Chậc, nếu không phải xin, thì cô chắc chắn cũng đãphải thuyết phục anh, vì Chúa.
Lola cố tỉnh táo, chắc chắn rằng anh sẽ sớm đến chỗ cô, nhưng tình trạng kiệt sức đã nuốt chửng cô. Khi ngủ, cô mơ thấy mình đến khu nhốt động vật để giải phóng Bé Cưng và cả hai bọn họ cùng bị kẹt lại bên trong. Trong giấc mơ của cô, cô đập cửa và gọi Max, nhưng anh chẳng bao giờ đến.
Giọng miền nam quen thuộc, êm dịu đánh thức cô khỏi giấc mơ. “Lola Faith?”
Mi mắt cô choàng mở và cô nhìn về hướng cuối giường bệnh. Cô nhìn vào đôi mắt đỏ ngầu trũng xuống của cha cô. Chúng đỏ và đẫm nước, như thể đã nhiều ngày trời ông không ngủ. Đôi má hồng hào thường ngày của ông trắng bệch, những nếp nhăn lo lắng trên trán ông hằn sâu hơn.
Mẹ cô đứng cạnh ông, một chiếc khăn lụa che trên mái tóc vàng bồng bềnh hoàn hảo thường ngày của bà. Một bên bồng bềnh bẹp dí và vài sợi xơ xác chọc thẳng ra từ trán. Bọng mắt trĩu nặng dưới mắt bà, và môi bà bạc phếch.
Lola òa ra khóc, và cũng không phải những giọt nước mắt rơm rớm. Mà là những tiếng nức nở đau đớn – như cái lần cô mới có tám tuổi và cha cô đã vô tình bỏ cô lại Texaco. Cô đã sợ tới chết đi được khi phát hiện ra ông đã đi mất, và tràn ngập nhẹ nhõm khi ông quay lại mười phút sau. Cô cũng cảm thấy y như vậy lúc này, ở tuổi ba mươi, chỉ là nhìn thấy bao nhiêu đau khổ cô đã gây ra cho họ càng làm mọi chuyện tệ hơn. Cả hai người đều trông như đã già thêm mười tuổi kể từ lúc cô gặp họ một tuần trước.
Mẹ cô lao tới thành giường cô và quệt nước mắt Lola khỏi hai má cô. “Lúc này con sẽ ổn thôi. Cha và mẹ con đã đến đưa con về nhà đây.”
“Họ đã lấy Bé Cưng khỏi chỗ con,” cô khóc. “V... và cho nó vào trại nhốt động vật.”
“Chúng ta sẽ lấy Bé Cưng về.” Cha cô vỗ đầu gối cô qua tấm chăn bệnh viện. “Rồi con sẽ về nhà ở với chúng ta vàingày.”
Lola có đến cả một tỷ thứ phải làm. Cô có một doanh nghiệp phải điều hành. Đúng là cô có những con người giỏi giang có thể điều hành nó khi cô vắng mặt, nhưng Lola Wear, Inc. thuộc về cô. Cô muốn nói chuyện với bộ phận bán hàng và marketing và lấy những số liệu sớm trong quyển catalog mới. Họ đang chuẩn bị cho một buổi trình diễn thương mại diễn ra sau ba tháng nữa và cô muốn xem các phác thảo sơ bộ cho gian hàng của họ. Nhưng khi cô nhìn cha mẹ cô và thấy các vết nhăn hằn trên mặt họ, cô cho rằng họ cần phải nuông chiều cô để trấn an bản thân rằng cô vẫn ổn. Và có lẽ cô cũng cần điều đó nữa. “Mẹ sẽ làm món mỳ Ý đặc biệt trộn bơ và thịt cắt nhỏ chứ?”
Khóe miệng mẹ cô run run khi bà mỉm cười. “Và mẹ sẽ làm cho con một cái bánh nhân hạch.”
Qua làn nước mắt, Lola cũng mỉm cười. Mẹ cô là một trong số ít những người cô biết gọi bánh hồ đào là bánh nhân hạch. Lần đầu tiên kể từ khi cô rời đi, cuối cùng cô cũng cảm thấy như mình đang ở nhà, nhưng có một thứ khiến cô không thực sự tận hưởng chuyến trở về của mình. Một thứ bị mất.
Max. Cô chẳng mảy may biết anh ở đâu hay vì sao anh lại không liên lạc với cô.
“Bọn ta đều phát ốm vì lo lắng,” mẹ cô nói. “Cuộc sum họp nhà Carlyle diễn ra vào tuần này, nhớ chứ? Mẹ biết tất cả mọi người đều sẽ phấn khích để gặp con.”
Lola đột nhiên cảm thấy nhưng nhức giữa hai lông mày. Cô đã sống sót qua một cơn bão ở biển và lũ buôn lậu thuốc phiện, chỉ để đối mặt với nỗi kinh hoàng từ món thịt hầm đậu Hà Lan của cô Wynonna. Và lần này cô sẽ phải đối mặt với nỗi kinh hoàng ấy một mình, bởi vì Max đã biến mất tăm.
Tại đài phát thanh hải quân ở Key West, Max được cung cấp một đường dây điện thoại an toàn nối tới Washington. Việc tổng tư lệnh Winter nghe điện là gợi ý đầu tiên cho Max về rắc rối anh vướng vào. Gợi ý thứ hai là việc trực thăng Pavehawk đón anh ngay lập tức và đưa anh từ đài phát thanh tới Lầu Năm Góc.
Ở Lầu Năm Góc, nhân viên an ninh dẫn anh tới một văn phòng ở lầu. Trong ánh sáng ban ngày, anh biết nó có tầm nhìn rất đẹp ra sông Potomac và Đài Tưởng Niệm Jefferson. Khung cảnh đài kỷ niệm được chiếu sáng rực rỡ cũng không tệ về đêm.
Thường thì Max gặp tổng tư lệnh trong một phòng lập kế hoạch nhỏ trong khu hẻo lánh tối tăm ở tầng hầm. Đây mới là lần thứ hai Max được mời vào văn phòng này. Cân nhắc đến điều đó và cả giờ giấc muộn mằn này, anh biết mình đang gặp rắc rối và tự chuẩn bị mình cho một trận đay nghiến long trọng.
Tổng tư lệnh Richard Winter ngồi sau chiếc bàn bằng gỗ gụ to đùng của ông, một màn hình máy tính nằm một góc, một bức tượng đại bàng bằng đồng nằm ở góc bên kia. Max đứng trước tổng tư lệnh với tư thế nghiêm trang. Trong nửa giờ, trong lúc các đốt xương mệt mỏi của anh nối lại với nhau, anh giải thích những gì đã diễn ra kể từ khi anh rời Nassau thứ Bảy tuần trước. Chậc, có lẽ không phải tất cả . Anh đã bỏ qua vài chi tiết riêng tư liên quan đến hành vi của anh với Lola.
Tổng tư lệnh lắng nghe, rồi bổ ra một tràng chỉ trích. Tổng tư lệnh Winter hói trụi lủi như một quả bowling, có hàng lông mày sâu róm rậm rạp, và đeo kính hai tròng. Ông là người duy nhất Max từng gặp có thể rỉ ra một giọt nước mắt giận dữ mà không chớp mắt. Thật huyền bí và được thiết kế để gợi lên nỗi sợ hãi trong lũ đàn ông.
“Chuyện này đáng lẽ phải theo đúng luật, Max. Lời chỉ dẫn cho anh rất rõ ràng!”
“Khi tin tức tôi được trao sai bét, thì không có luật nào hết. Theo quan điểm của riêng tôi, chỉ có một chỉ dẫn duy nhất. Làm xong việc và thoát ra, thưa ngài. Tôi đã không thất bại. Tin chỉ điểm tôi được trao đã làm tôi thất bại.”
Liệu viên đại tướng có đồng ý hay không, Max không bao giờ biết được. Dù vậy ông ta tiếp tục tra tấn lỗ tai Max, gọi anh bằng mọi cái tên có trong sách vở. Vài từ anh thích nhiều đến mức anh lặp đi lặp lại. Từ yêu thích nhất của anh là ngu như lợn và thằng đần . Khi đã xong, ông ta mong Max sẽ co rúm lại, như phần lớn những người khác sẽ làm khi đối diện với sự đe dọa bằng ngôn ngữ khủng khiếp đến vậy. Ông ta đáng lẽ phải thông minh hơn.
“Đó là những gì tôi ở ông, Tổng tư lệnh Winter,” Max nói qua một nụ cười. “Ông dành thời gian nói chuyện ngọt ngào trước khi nổi cáu lên với tôi.”
Từ sau cặp mắt kính hai tròng, viên đại tướng chớp mắt. “Nghỉ đi, Zamora,” ông ra lệnh, và Max ngồi đối diện bàn trên một cái ghế bất tiện – anh cho đó chính là mục đích của viên đại tướng. “Đây không phải một vấn đề đùa cợt được đâu,” ông ta tiếp tục, nhưng giọng đã thấp xuống vài phần. “Anh đã trưng dụng một con thuyền cùng một công dân trên boong.”
“Tôi đã giải thích rằng thị lực của tôi không được rõ, và tôi đã tưởng mình là người duy nhất trên tàu.”
“Sự thật vẫn là anh đã cưỡng ép một người mẫu đồ lót nổi tiếng và không liên lạc gì trong bốn ngày trời. Bị mắc kẹt trong Đại Tây Dương, như anh nói.”
“Vâng, thưa ngài.”
“Anh vừa gây ra một vụ bất ngờ phải gió mà chính phủ sẽ khó mà phủ nhận được.”
“Sao lại thế thưa ngài?” anh hỏi, dù anh cũng đoán được.
“Ngay phút cô Carlyle được xác nhận mất tích, sự biến mất của cô ta đã được tất cả các phương tiện truyền thông trong cả nước và nửa châu Âu tường thuật lại.”
Đúng rồi, đó chính là suy đoán của anh.
“Giờ thì tất cả họ đều muốn câu chuyện của cô ta. Cô ta chắc sẽ được mời xuất hiện trên chương trình Letterman khỉ gió.” Đại tướng rướn người tới trước và nhìn thẳng vào mắt. “Anh đã ở cùng cô ta. Chúng ta sẽ dùng cách tiếp cận nào để giữ cô ta im lặng?”
“Cô ấy là một phụ nữ thông minh. Cô ấy biết về bè lũ Cosella, và tôi sẽ nhắc cho cô ấy nhớ rằng cô ấy không muốn bị dính líu tới bất kỳ chuyện gì đã xảy ra ở Bahamas. Tôi sẽ nói chuyện
“Không tốt, Max ạ.”
“Cô ấy sẽ nghe tôi,” anh nói với nhiều quả quyết hơn anh cảm thấy. Vì sự thực là, giờ khi cô đã có thời gian tránh xa anh để suy nghĩ, anh cũng không dám chắc là cô sẽ không muốn đâm đơn kiện anh nữa.
“Tôi muốn anh tránh xa cô Carlyle và hoàn toàn rời khỏi vụ này, Max. Chính phủ sẽ giải quyết vụ này.” Tổng tư lệnh Winter đứng dậy. Câu chuyện đóng lại. Cuộc họp mặt kết thúc. “Tôi tin rằng anh có gì đó cho tôi?”
Max đứng dậy và với tay ra sau lưng. Từ hõm lưng, anh rút ra một tờ bản đồ và quyển sổ anh tìm thấy trên thuyền phản lực và ném bản đồ lên bàn. “Ông sẽ tìm thấy bốn tên buôn lậu thuốc phiện trong bè lũ André Cosella ở tọa độ này.”
“Đã chết sao?”
“Tôi không tin là thế.” Kế tiếp, anh ném quyển sổ lên bàn. Anh đã xem xét kỹ nó khi còn ở trên tàu tốc độ. Anh không mất lâu để đoán ra mình có những gì và nó ám chỉ điều gì. Quyển sổ ghi lại ngày tháng, thời gian, vị trí các thùng thuốc phiện, mô tả kích cỡ và số lượng, lẫn tên các con thuyền hẹn gặp. Tất cả đều được viết bằng tiếng Tây Ban Nha đơn thuần, và anh chọn cách làm tổng tư lệnh nguôi giận bằng thông tin này thay vì đưa nó cho đội bảo vệ bờ biển.
Sau những hình ảnh xấu mà quân đội gần đây đã phải hứng chịu, đây là một cơ hội mỡ màng để bù đắp lại trước dân Mỹ. Nếu họ không làm loạn nó lên – điều vẫn luôn có khả năng xảy ra khi xử lí công việc với những tên bàn giấy. “Tôi nghĩ ngài sẽ thấy thứ này khá thú vị.”
Tổng tư lệnh Winter ngó qua quyển sổ bìa da, rồi nhìn lên. “Đây là lý do tôi dung thứ cho anh, Max,” ông ta nói khi ấn một nút trong máy liên lạc nội bộ. “Anh có nhiều mạng hơn cả một con mèo chết tiệt và may mắn hơn cả người Do Thái. Giờ thì ra khỏi đây và đưa mình đi kiểm tra đi.”
Max không nghe theo mệnh lệnh kiểm tra y tế của viên đại tướng và được nhân viên an ninh tháp tùng ra khỏi . Anh đi thanh máy tới khu đỗ xe VIP, nơi một chiếc Cadillac đen đang chờ anh. Khi đã ở ghế sau của xe, anh ngửa đầu ra sau và cuối cùng cũng giãn ra lần đầu tiên tính từ sau lần ngồi trong phòng ăn của tàu Dora Mae, ăn cá hanh đỏ cùng Lola. Dù vậy anh không cho phép bản thân hoàn toàn thư giãn, sợ rằng anh sẽ ngủ gục nếu làm vậy. Ánh đèn của thành phố Washington D.C lao vùn vụt qua các ô cửa sổ, và tiếng lốp xe trên mặt đường ướt lấp đầy không gian bên trong ô tô, cho anh biết rằng trời vừa mưa. Cảnh vật và âm thanh là những thứ quen thuộc và khiến anh nhớ lại rằng mình đã về nhà. Gần như thế.
Sau chuyến lái xe ngắn mười lăm phút, chiếc Cadillac dừng lại trước cửa ngôi nhà thành phố hai trăm năm tuổi ở Alexandria của Max. Max bước xuống khỏi ô tô và gõ lên nóc xe. Chiếc Cadillac phóng đi, lốp của nó tóe lên vô số giọt nước đen như mực. Ánh sáng ở ngoài ngôi nhà sáng lên như chúng đã được thiết kế, nhưng có bốn số Journal quăng trên hiên nhà anh. Vì anh không định đi lâu hơn một ngày, anh đã không hoãn dịch vụ lại.
Anh không có chìa khóa. Anh cũng không cần. Khi anh mua ngôi nhà này ba năm trước, anh đã thiết kế và lắp đặt hệ thống an ninh của riêng mình.
Một bàn phím trong và ngoài kiểm soát hệ thống dò chuyển động, ánh sáng khu vực ngoài, và khóa cửa. Max đi lên các bậc thang tới cửa trước, mở bàn phím, và ấn mã của mình. Anh nhặt các tờ báo sũng nước và băng qua căn nhà tối om vào phòng bếp. Dưới bồn rửa, anh rút thùng rác nhựa ra và nhét hết đống báo vào túi rác trống không.
Ánh trăng mờ nhạt, và ánh đèn từ hiên sau, tràn vào qua ô cửa sổ trên bồn rửa, rọi các vệt sáng lên quầy bếp màu đỏ đun, giấy dán tường màu hồng lai, và máy pha cà phê bằng crôm của anh. Ngoại trừ hệ thống an ninh và các ống nước mới mà anh đã lắp đặt trong hai phòng tắm, anh vẫn chưa có thời gian để cách tân lại ngôi nhà như anh đã lên kế hoạch.
Không bật đèn, anh đi lên cầu thang tới phòng ngủ của anh ở tầng hai. Sàn nhà gỗ kêu cót két dưới trọng lượng của anh, và anh ngồi xuống mép giường để cởi dây giày. Anh đã thức suốt bốn mươi tám tiếng, và tự động, những ký ức về Lola trỗi dậy trong đầu anh. Những hình ảnh cô tắm trên bục tắm của tàu Dora Mae . Hôn cô ở đuôi tàu. Ôm cô trong vòng tay anh khi cơn bão đe dọa sẽ nuốt chửng con thuyền. Chạm và hôn bầu ngực trần của cô, rồi làm tình với cô khi mặt trời lặn trên một hòn đảo nhiệt đi không được đánh dấu trên bản đồ đâu đó ở Đại Tây Dương. Những ký ức và hình ảnh nóng bỏng ùa qua anh và anh quá mệt mỏi để chống cự lại chúng.
Anh cởi quần áo và đứng hoàn toàn trần truồng. Ánh sáng từ bên ngoài lẻn vào quanh màn che che cửa sổ. Nó tạo sọc trên sàn nhà và rọi lên một bên mép tủ. Max bước qua đống quần áo và với lấy một huy chương thánh Christopher trầy xước treo trên một góc gương. Anh nâng cánh tay lên và đeo huy chương vàng quanh cổ. Nó đã từng thuộc về cha anh, và lớp kim loại mát lạnh quen thuộc áp vào lồng ngực anh.
Drap trải giường khô rang chạm vào da anh khi anh trượt vào giữa đống gối, và tự hỏi ở một nơi nào đó cô đang ở, Lola ngủ có ngon hay không. Hình ảnh cuối cùng anh thấy về cô, cô trông trắng bệch và kiệt sức, và anh hình dung rằng cô sẽ bị giữ lại quan sát ở bệnh viện.
Anh nghĩ đến việc gọi trung tâm Key West để kiểm tra tình trạng của cô. Rồi anh nghĩ kỹ lại. Tốt nhất là chặt đứt một cách rõ ràng. Rời khỏi đời cô. Không phải vì tổng tư lệnh Winter đã bảo anh thế, mà bởi vì thậm chí khi trách nhiệm với Lola và chú chó của cô đã đè nát anh và khiến họng anh ho sặc sụa, anh đã bắt đầu nhung nhớ nó. Có thứ gì đó về hơi ấm nơi mắt cô. Cách cô nhìn anh. Cách cô chia sẻ cuộc đời và cơ thể cô. Có thứ gì đó nở rộng trong ngực anh. Một nơi sâu thẳm bên trong mà anh còn không chắc có tồn tại trong linh hồn anh. Một thứ thật khinh suất khiến anh trật bánh khỏi lý trí cẩn trọng và làm tình với cô cùng lúc lờ đi mối nguy hiểm từ hành động hấp tấp hoang dã đó. Một thứ gì đó choán hết lý trí, cẩn trọng, và khiến anh khao khát nó thêm lần nữa.
Anh đã cứu cô khỏi chết chìm, và anh đã cứu thoát cô khỏi lũ buôn thuốc phiện. Anh thì không may mắn đến thế. Anh đã không thể cứu mình khỏi cô.
Chắc chắn là tốt nhất cho cả hai bọn họ nếu anh tránh xa. Cô không thuộc về đời anh, và chắn chắn là anh không tương thích trong đời cô.
Một trong những điều tuyệt vời nhất sinh ra từ vụ mất tích của Lola là lượng tin tức mà nó tạo ra. Cùng ngày tin tức về vụ mất tích của cô lên báo, dòng Lola Undercover gồm những đồ lót thêu tinh xảo và áo ngủ lụa với hình hoa hồng và quần lọt khe đồng bộ đã bán cháy hàng và giờ lại được đặt hàng lại. Suốt bốn ngày đó, lượng hàng bán qua cata đã vượt ngưỡng đề ra tới sáu mươi ba phần trăm.
Công việc kinh doanh đang phát đạt lên. Cuộc đời thật tươi đẹp, và thậm chí tờ Enquirer cũng tạm ngừng gọi cô là nặng cân. Giờ thì dòng tít viết, Cuối Cùng Cũng Tìm Thấy Lola Đẫy Đà . Lúc nào cô cũng coi trọng đẫy đà hơn nặng cân hoặc Lola Phục Phịch.
Tờ Enquirer đã vẽ ra một câu chuyện rằng cô bỏ chạy theo một người đàn ông lạ mặt mà cô đã gặp ở Casino Cung Điện Pha Lê. Một tờ báo khác nghi ngờ rằng cô đang trốn đi vì phẫu thuật thẩm mỹ hỏng, nhưng chuyện Lola ưa thích nhất là bài báo nói rằng cô bị người ngoài hành tinh bắt cóc và đang sống trong một ngôi làng hoang sơ nhỏ bé ở Tây Bắc.
Tất cả những suy đoán đó đã đem lại cho cô số lượng tin nhiều hơn hẳn số lượng cô có thể mua, và họ đã phải tăng sản xuất dòng Khởi Động Khe Ngực để đáp ứng đủ nhu cầu.
Văn phòng Lola Wear, Inc. trải rộng trong không gian hơn ba nghìn mét ở một trong năm phân xưởng sản xuất thuốc lá cũ được nâng cấp lên tại trung tâm Durham. Quận từng có lần sụp đổ này đã được cải tạo thành một tổ hợp thượng lưu đa dạng toàn những doanh nghiệp bán lẻ, các văn phòng, và các căn hộ. Lola đã chọn thuê chỗ này không chỉ vì nó hợp với nhu cầu của cô, mà còn vì nó là một phần trong câu chuyện lịch sử của cô. Cô có liên kết ở nơi đây. Rất nhiều họ hàng của cô đã từng làm việc trong nhà kho này, luôn tay sản xuất thuốc lá Chesterfields cho tới thời kỳ thất nghiệp cuối những năm bảy mươi. Thi thoảng, trong những ngày nồm, Lola gần như có thể ngửi thấy mùi hương lá thuốc lá.
Nóng lòng muốn quay lại cuộc sống của mình, cô đã quay về nhà và làm việc ngay hôm thứ Sáu sau khi cô được cứu khỏi Đại Tây Dương. Nhưng đến hai giờ chiều, cô cũng không chắc mình nên đến nữa. Phải mất cả buổi sáng và một phần buổi chiều Lola mới bắt kịp tốc độ với những gì đã diễn ra từ lần cuối cùng cô kiểm tra hôm thứ Bảy trước. Giờ thì cô mệt mỏi đến mức cô chỉ muốn cuộn tròn lại và ngủ một giấc.
Thay vào đó, cô đóng cửa văn phòng mình lại, cho mọi người biết rằng cô muốn chút thời gian cho riêng mình. Mỗi phút một lại có ai đó thò đầu vào văn phòng cô với một lời bào chữa hoặc một câu hỏi ngớ ngẩn. Cô biết họ chỉ đang trấn an mình rằng cô sống và đã quay lại làm việc. Hành động ấy thật ngọt ngào, nhưng hơi thái quá.
Cô đang lên kế hoạch tung ra một dòng đồ lót đúc không gọng mùa xuân này, và cô đã có phác thảo quầy hàng giới thiệu sản phẩm cho triển lãm mùa xuân ở vườn quảng trường Madison để xem xét. Dòng đồ lót bằng sợi tổng hợp đã được thiết kế trưởng, Gina, sáng tạo ra và có tiềm năng thị trường rất lớn. Sợi vải công nghệ cao hít thở và cử động cùng với cơ thể và chỉ có một điểm trừ. Áo lót chỉ có thể nâng được cúp C, mặc dù bên công ty giữ bằng sáng chế chất liệu này quả quyết nâng được tới cỡ D. Chính Lola đã thử nghiệm độ tin cậy của lời quả quyết đó và không hề thấy hài lòng. Lola Wear, Inc. sẽ phải thêm gọng vào tất cả những chiếc áo lót không đường may lớn hơn cỡ C.
Cô ngồi sau bàn trong chiếc ghế da lông và tháo đôi giày mềm Manolo Blahnik màu đỏ của mình ra. Cô xòe rộng các ngón chân trong tấm thảm dày và xem xét các phác thảo. Nhưng càng nhìn chúng lâu, cô càng có cảm giác rằng có thứ gì đó không ổn. Có thứ gì đó hơi trật đường ray mà cô không thể chỉ rõ ra.
Mắt cô nhòa đi và cô xoa thái dương. Cô bị đau đầu, và cô đã bắt đầu kỳ kinh nguyệt sáng nay và bị đau bụng kinh nữa. Có lẽ đó chính là vấn đề của cô. Bất kể nguyên do là gì, cảm giác được một lần nữa quay lại trong văn phòng vẫn thật lạ lẫm, như thể cuộc sống thực sự của cô là cuộc sống lúc trước trên tàu Dora Mae , và cuộc sống ở đây của cô không phải là thực. Trong khi thực sự hoàn toàn ngược hẳn lại. Đây là cuộc sống của cô. Đây mới là thực. Trôi nổi trên một con thuyền hư hại, sống sót qua một cơn bão ở biển, và trốn thoát trên tàu lũ buôn thuốc phiện – đó không phải cuộc sống của cô. Những cảm xúc hỗn loạn khủng khiếp mà cô dành cho Max, cảm giác kinh khủng rằng cô không thể sống sót nếu thiếu anh, vẫn ở đó, ngay đó trong phạm vi ý thức của cô, như một ánh đèn chớp nhoáng mà cô không thể nhìn rõ, hay một mẩu chuyện trò mà cô không thể nghe rõ.
Nhưng cũng vẫn có những lúc cô thức giấc và tự hỏi có phải mình đã mơ thấy quãng thời gian cô ở cùng Max hay không. Không có anh ở cạnh, chẳng có gì cho cô biết rằng quãng thời gian cô ở cùng anh là có thực cả. Chẳng có gì ngoài cành gỗ nhỏ bị xoắn lại vẫn đeo quanh mắt cá chân cô. Những bông hoa tím đã rụng mất, chỉ còn vài chiếc lá ở lại để nhắc cô nhớ về buổi chiều anh buộc nó vào nơi ấy.
Ph n lớn thời gian cô cảm thấy bối rối và lửng lơ trong không khí. Chờ đợi. Chờ đợi được nghe tin tức từ anh, và mỗi lần điện thoại reo, mà lại không phải anh, cô còn lại với đau đớn và thất vọng.
Cô liếc quanh văn phòng, nhìn tất cả mọi thứ mà cô đã chọn. Tất cả mọi thứ từ rèm cửa màu oải hương sọc xanh cho tới những bông anh thảo Anh quốc trồng trong những cái ấm nhỏ đặt ở góc độ chính xác trên chiếc tủ ly quét vôi trắng và trên góc bàn Louis XIII của cô.
Cô đã chọn chiếc quạt trần đang nhẹ nhàng lưu chuyển không khí quanh phòng và bộ ghế Queen Anne bọc vải hoa màu kem. Màu sắc và họa tiết pha trộn và có tác dụng tạo ra một không gian nữ tính mềm mại. Mọi thứ vẫn y xì như cô đã bỏ lại, vậy mà mọi thứ cũng đều khác hẳn.
Chân cô có màu nâu rám nắng xinh đẹp do quãng thời gian cô tìm kiếm tàu cứu hộ trên tàu Dora Mae, và cô đã không thể bắt mình mặc quần tất, một thứ mà trong quá khứ cô vẫn luôn xem là xấu xí. Quần áo của cô cũng mang lại cảm giác xa lạ. Chiếc váy đỏ không tay của cô buông lỏng quanh hông cô hơn, và cô không thể chịu nổi việc đi giày. Nhưng không phải do tình trạng thiếu quần tất hay giày hay chuyện cô đã giảm cân. Mà là một thứ gì đó khác.
Một tiếng cộc nhẹ gõ vào cửa Lola ngay trước khi quản lí hành chính của cô, Rose McGraw, nhòm qua góc cửa.
“Chị có thời gian không?”
Lola buông thõng tay xuống. “Tất nhiên rồi.”
“Em cần xin sự đồng ý của chị để mua những thứ này,” cô ta nói, và đặt một tập tài liệu bằng giấy chuối lên bàn.
Lola mở tập tài liệu ra và liếc qua danh sách đồ văn phòng phẩm. Câu hỏi đầu tiên cho chính bản thân cô là, Sao Rose lại phải làm phiền mình với chuyện này? Câu trả lời đến gần như ngay trước khi cô hỏi xong câu hỏi. Bởi vì mày thích kiểm soát mọi mặt công việc, tất cả mọi thứ từ các chiến dịch và mục tiêu cho tới kẹp giấy . Cô đóng tập tài liệu lại trước cả khi bắt đầu đọc lướt nó. Cô đã thuê những con người tài giỏi tử tế, và doanh nghiệp mà cô đã tự mình thành lập không còn cần cô quá nhiều nữa. Phải bị mắc kẹt trên tàu Dora Mae mới thấy được rằng cô không cần kiểm soát tất cả mọi chuyện.
“Trông ổn đấy,” cô nói. Có thời mua đồ văn phòng phẩm phải chặt chẽ, nhưng những ngày đó đã qua lâu rồi. Cô không cần kìm quá chặt nữa. “Em là một phụ nữ tài giỏi. Đó là lý do chị thuê em. Em không cần chị đồng ý mua mực in hay giấy phô tô đâu.”
Một trạng thái khôi hài pha trộn giữa bối rối và nhẹ nhõm quét qua mặt Rose. “Chị có chắc chị không muốn đọc qua nóchứ?”
“Chị chắc mà.”
“Chị cảm thấy khỏe chứ?” Rose hỏi.
“Có, cảm ơn em.”
“Chị đã trải qua một thử thách thật gay go.”
Rose còn không biết đến được một nửa trong số đó đâu. Chẳng ai biết hết. Chẳng ai biết được sự thực. Chẳng ai trừ cô và Max. Những ngày đầu tiên cô ở lại nhà cha mẹ, cô đã kể cho họ một ít. Cô kể cho họ rằng Max đã ở cùng cô trên tàu Dora Mae , nhưng cô đã không kể hết với họ. Cô không đề cập đến việc anh đã bắt cóc cô. Cô đã bỏ qua rất nhiều chi tiết vì cha mẹ cô không hề biết cô đã suýt chết ba lần trong quãng thời gian ba ngày ấy mà cũng đã đủ lo lắng rồi.
Câu chuyện cô trao cho báo chí chỉ là một phiên bản hời hợt của sự thực. Ngày cô được cho ra khỏi bệnh viện, cô đã đứng trước các phóng viên và bảo họ rằng cô đã bị mắc kẹt trên một con thuyền du lịch ở Đại Tây Dương. Chỉ thế thôi.
“Chị khỏe,” cô trả lời Rose, nhưng cô cũng không chắc điều đó là sự thực, hoặc phải nói điều đó đúng là sự thực, chỉ là một sự thực khác với những gì cô đã quen. Điều này thật vô nghĩa và tức là cô rõ ràng đã mất trí rồi. Lần này Lola xoay xở nở ra được một nụ cười chân thật hơn. “Cảm ơn em.”
Tiếng gót già của Rose vang vọng khắp sàn nhà gỗ cứng khi cô ấy rời phòng. Cô ấy đóng cửa lại sau lưng, và Lola tì khuỷu tay lên bàn và ôm hai tay lấy mặt.
Thậm chí trước cả khi cô được cho ra viện ở Key West, cô cũng đã được hai quý ông có vẻ ngoài công chức viếng thăm, họ đã nhấn mạnh với cô tầm quan trọng của yêu cầu giữ bí mật. Họ đòi hỏi cô lòng yêu nước và tự bảo vệ mình. Họ hẳn có thể tiết kiệm chuyến viếng thăm và rất nhiều công sức cho bản thân. Cô không phải đồ ngốc. Cô không cần FBI hay CIA hay bất kỳ ai bảo cô rằng cuộc sống của cô có thể phụ thuộc vào khả năng giữ kín chi tiết nơi cô đã ở, những gì cô đã thấy, và người cô đã cùng nhìn thấy những chuyện đó. Cô biết mình không thể nói chuyện đó cho bất kỳ ai. Không ai trừ Max, nhưng cô không thể nói chuyện với anh bởi vì cô không biết cách liên lạc với anh, và anh thì không hề liên lạc với cô.
Lola thổi phù một hơi và với lấy quyển lịch bàn. Trước khi cô rời đi đến Bahamas, cô đã viết ra kế hoạch cho bốn tháng tới. Mọi ngày đều kín các buổi hẹn và ăn trưa. Một số quan trọng, một số không đáng kể. Chẳng có gì mang tính sinh tử.
Cô ngước lên. Có lẽ chính là lý do đó. Có lẽ đời cô lúc này chỉ là mang lại cảm giác vô vị. Giờ đây khi mà cô không còn gặp nguy hiểm và không cần một anh chàng to khỏe cứu lấy mình, có lẽ đời cô chỉ là mang lại cảm giác tẻ nhạt.
Lúc ba giờ mười, Lola túm lấy giày và cái ví đỏ đồng bộ và hướng đến cuộc hẹn lúc ba giờ ba mươi ở spa, tiệm làm đẹp yêu thích nhất của cô. Khi đã ở đó, cô được massage cơ bắp sâu và đắp thảo mộc, tỉa tót lông mày, tỉa móng tay và được tô bóng, và cô có mấy bông hoa cúc màu vàng màu trắng vẽ trên các móng chân màu hồng bóng loáng.
Khi móng tay móng chân cô đã hoàn thiện, cô nhìn bản thân mình trong gương và yêu cầu cắt tóc – ngắn. Cô chọn thuốc nhuộm màu bơ được nhuộm xuyên suốt, và khi đã xong, những lọn tóc vàng óng chạm đến sau gáy cô và hai đầu tai cô. Kiểu đầu mới làm mắt cô trông to và rực rỡ. Cô cào tay qua các lọn quăn mềm mại và mỉm cười. Vì vài lý do, cô thấy thích bản thân mình, bất kể đó là ai đi nữa.
Giây phút cô lái chiếc BMW vào gara, Bé Cưng phát ra một loạt tiếng sủa từ trong căn hộ. Nó nhảy tưng tưng khi cô đi vào và bám theo gót chân cô khi cô đặt vài túi hàng hóa và một bó hoa tuy-lip màu đào và hoa hồng trắng lên quầy bếp. Hôm nay, Bé Cưng mặc chiếc áo ba lỗ in chữ HƯ HỎNG TỚI TẬN XƯƠNG CHẬU, và cô bế nó lên tay và gãi gãi giữa hai tai nó. “Mày nghĩ kiểu đầu này thế nào?” cô hỏi. Nó liếm má cô và ngọ nguậy đầy thích thú. “Mày đúng là một chú chó sành điệu, tao biết mày sẽ thích mà.”
Điện thoại reo, và phải đến lúc cô nhận ra giọng mẹ cô một lần nữa nhắc nhở cô về cuộc sum họp của gia đình Carlyle cô mới nhận ra rằng cô lại đang hy vọng đó là Max – lại thế. Nhưng không phải, và cảm giác thất vọng của cô chuyển thành tức giận.
Cơn tức giận đi theo cô suốt năm phút trò chuyện, và khi cuối cùng cô gác máy, cô bước ra khỏi đôi giày đỏ và cẩn thận tháo cành cây ra khỏi gót chân. Cô không muốn gì hơn là quên quách Max Zamora đi, và cô đặt cành cây xoắn lại lên trên nóc tủ lạnh.
Cô cho Bé Cưng ăn thức ăn ít chất béo đặc biệt của nó và đặt khay Wedgwood đặc biệt của nó lên sàn gỗ mà cô đã lắp đặt không lâu sau khi cô ký văn tự thế chấp.
Cô đã mua căn hộ này một năm trước, trả hơn nửa triệu đô la cho nó, và tất cả chỉ vì cô và Bé Cưng đã trót yêu khoảng sân sau. Nó mô phỏng một khu vườn Anh nhỏ, với đài phun với bức tượng nữ thần trên vỏ trai, và có vô số không gian dành cho lâu đài chó mà cô đã xây cho Bé Cưng.
Cô ít thấy ấn tượng hơn với khu vực bên trong và đã bỏ hết toàn bộ rồi trang trí lại bằng cùng các tông màu oải hương, hồng, và xanh lá cây rực rỡ thấy được ở bên ngoài. Giống văn phòng ở trung tâm thành phố của cô, nó rất nữ tính, hơi kiểu cách, nhưng ấm cúng.
Trên đường lên gác để thay bộ váy đỏ ra, chuông cửa trước reo lên và cô quay chân lại. Cô mong sẽ thấy bố cô đang đứng ngoài đó, cảm giác nhẹ nhõm làm dịu đi đôi mắt nâu lo lắng của ông khi tự mình nhìn thấy cô con gái bé bỏng ba mươi tuổi đầu thực sự vẫn ổn.
Cô giật cánh cửa ra và đông cứng lại, một lời chào mừng người cha quá mức bao bọc của cô vừa hình thành đọng lại trên môi. Đó không phải người cô chờ đợi, hay phải nói đó là người cô đã chờ đợi nhiều ngày trước. Nhìn thấy hình ảnh Max đang đứng trên tấm thảm chùi chân chào mừng của nhà cô, cảm giác nhộn nhạo run rẩy khắp dạ dày cô và cả nơi ngay dưới tim cô nữa.
Khuôn mặt quen thuộc của anh nhìn đáp lại cô, chỉ là đã cạo râu sạch sẽ và vết cắt trên trán anh giờ chỉ còn là một vệt đỏ mảnh. Những đường nét quai hàm và xương má nam tính của anh hoàn hảo hơn cô nhớ, có lẽ vì các vết thâm tím đã biến mất và những chỗ sưng đã xẹp lại. Nhưng miệng anh vẫn y như thế. Rộng và hoàn hảo.
Một cặp kính Ray Bans đen che mắt anh, nhưng cô không cần nhìn chúng cũng biết chúng có màu biển Caribbe. Và cô không cần nhìn chúng cũng biết anh vừa lướt ánh mắt dọc cơ thể cô. Cô cảm nhận được nó rõ ràng đến tận gan bàn chân. Nó chạm vào cô nơi này, nấn ná nơi kia, hơi ấm của nó đọng ở khắp mọi nơi. Anh mặc một chiếc áo sơ mi trắng giắt vào một chiếc quần bằng vải bông thô. Ống tay áo anh xắn lên tận bắp tay, và anh đã đeo vào tay một chiếc đồng hồ bạc.
Một tay anh cầm một cái hộp mỏng dài cỡ một chiếc bút chì bọc giấy và nơ hồng. Lần cuối cùng cô thấy anh, anh đã vẫy tay chào cô ngắn ngủi rồi vào một chiếc xe và phóng đi.
Một bên khóe miệng anh nhếch lên. “Anh thích các ngón chân em,” anh nói.
Lola không biết nên cười hay nên khóc nữa. Ôm chầm lấy anh và hôn khắp khuôn mặt điển trai của anh hay đấm thẳng vào quai hàm anh. Từ lúc họ quay lại anh thậm chí còn không thèm gọi điện. Cô đã mong chờ những điều tốt đẹp hơn, đặc biệt khi họ đã làm tình. Nhưng rồi, cô đã phải phỉnh phờ anh làm chuyện đó, và như thể thế còn chưa đủ khó chịu, cô còn không chắc mình sẽ không làm lại chuyện đó nữa kìa.
Hàng năm trời kiềm chế nhẫn nhịn và hàng loạt tư thế chụp ảnh lẫn phép lịch sự miền nam đến giải cứu cô. Cô dựa một vai vào khung cửa, khoanh tay dưới ngực, và nhướn một lông mày lên. “Anh lạc đường à?” cô hỏi, lạnh như một cốc Coca-Cola phủ đầy giá.
Bên miệng kia của anh cũng kéo lên. “Không, thưa quý bà. Tôi không bị lạc, chỉ thi thoảng bị thổi khỏi hành trình thôi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.