Mặt Nạ Hoàn Hảo

Chương 7:




Elissande đã thừa kế vài món đồ từ cha mẹ mình: một bộ lược bạc của mẹ, một chai nước hoa do Parfumerie Guerlain pha chế đặc biệt dành riêng cho Charlotte Edgerton, chổi cạo râu của cha, một tập thư buộc bằng dải ruy băng màu tím hoa cà, và bức tranh sơn dầu nhỏ vẽ một cô gái khỏa thân.
Cô chắc rằng ngài Frederick sẽ cảm kích khi nhìn thấy bức tranh. Cô đã không cho anh xem bức tranh này vì một lý do rất quan trọng. Cô sợ rằng người mẫu trong tranh là mẹ cô, và người ta đơn giản là không thể để một quý ông nhìn mẹ mình trong một tình trạng phơi bày như thế.
Nhưng bây giờ cô đang quẳng tất cả ngần ngại vào trong gió.
“Chúa tôi, nhưng nó là một tác phẩm của Delacroix!” ngài Frederick thốt lên.
Cô không quen thuộc với cái tên đó: cuốn sách viết về nghệ thuật hội họa trong thư viện đã từng có trong nhà này chỉ nói về những tác phẩm nghệ thuật cổ điển và Phục Hưng. Nhưng dựa theo biểu hiện vui sướng và trân trọng của ngài Frederick, một tác phẩm của Delacroix không phải là thứ bị khinh bỉ.
“Ngài thật sự nghĩ thế sao, ngài Frederick, nó đúng là một tác phẩm của Delacroix?”
“Tôi gần như chắc chắn một trăm phần trăm”. Anh đưa bức tranh đến gần mắt hơn nữa. “Chữ ký, phong cách, cách sử dụng màu sắc, tôi sẽ sốc nếu nó không phải là của Delacroix”.
Sự nồng nhiệt của anh lan sang cô. Nó hẳn là một dấu hiệu từ thiên đường. Làm thế nào mà chiếc hộp quý giá của cô, không chứa đồ vật gì có giá trị, ngoại trừ giá trị tình cảm, lại đang tỏ ra hữu ích đến mức giật mình như vậy?
“Nó thật tuyệt vời”, ngài Frederick lẩm bẩm với vẻ mê mẩn.
Cô nhìn anh chằm chằm, cũng mê mẩn như thế bởi sự may mắn bất ngờ của mình.
“Làm thế nào cô có được một bức tranh của Delacroix?” Ngài Frederick hỏi.
“Tôi hoàn toàn không biết. Tôi nghĩ chắc hẳn cha tôi đã mua nó. Ông sống ở Paris vào đầu những năm 70”.
“Tôi không nghĩ thế”, ngài Vere đùa cợt.
Quý bà Kingsley phải viết thư. Quý bà Avery và cả quý cô trẻ đã đi đến Ellesmere. Hầu hết các quý ông đã đi săn bắn những con gà gô còn lại của dinh thự Woodley. Ngài Frederick đã từ chối với lý do là không thích quấy nhiễu những con chim tội nghiệp. Ngài Vere, người vốn đã tuyên bố là sẽ đi, sau đó lại đổi ý định để ở lại với em trai mình trước sự tức tối phải kìm nén của Elissande.
Kết quả là, anh ta ngồi chơi bài ở phía bên kia phòng khách suốt buổi sáng. Elissande nỗ lực hết sức để phớt lờ sự hiện diện của anh ta, nhưng bây giờ cô không có lựa chọn nào khác ngoài việc quay đầu về phía anh ta. Anh ta không ngẩng lên từ những lá bài đang bày ra, và đó cũng chẳng phải là một trò chơi bài, chỉ đơn giản là anh ta xếp một hàng bài dài và bây giờ đang lật những lá bài lên một cách ngẫu nhiên.
“Xin thứ lỗi, thưa ngài? Ngài không nghĩ cha tôi sống ở Paris?”
“Ồ, tôi chắc chắn là ông ấy có sống ở Paris, nhưng tôi không dám chắc ông ấy có được bức tranh của Delacroix một cách hợp pháp”, ngài Vere thản nhiên nói. “Quý bà Avery nhai nhải bên tai tôi suốt bữa tối hôm qua. Bà ấy nói với tôi rằng ông nội cô là một người rất yêu nghệ thuật và cha cô đã trộm một vài tác phẩm của ông ấy trước khi bỏ trốn cùng mẹ cô”.
Elissande choáng váng trong một phút. Chú cô đã nói rất nhiều điều không hay về cha mẹ cô, nhưng ít nhất ông ta chưa bao giờ buộc tội cha cô ăn trộm.
“Xin đừng nói xấu người đã khuất, thưa ngài”, cô nói, giọng sít lại vì phẫn nộ.
“Nói chuyện gì thực sự xảy ra không phải là nói xấu người khác. Hơn nữa, đó là một câu chuyện thú vị, và cả sự thật mẹ cô đã từng là một nhân tình. Cô có biết chuyện bà ấy là nhân tình của chú cô trước khi kết hôn với cha cô không?”
Tất nhiên cô biết điều đó. Chú cô đã chắc chắn rằng cô hiểu rõ về nỗi nhục nhã của cha mẹ mình. Nhưng nói công khai với vẻ bất cần đến hậu quả như ngài Vere là hành vi xúc phạm tồi tệ nhất.
Lần đầu tiên, ngài Frederick, đỏ mặt tía tai, phê bình anh trai mình. “Penny, thế đủ rồi”.
Vere nhún vai và thu lại những lá bài để tráo.
Một khoảng im lặng dài và kỳ quặc. Ngài Frederick phá vỡ nó - ngài Frederick đáng mến, rất đáng mến. “Tôi thực xin lỗi”, anh khẽ nói. “Thỉnh thoảng anh trai tôi lẫn lộn các câu chuyện với nhau. Tôi chắc chắn là anh ấy đã sai về gia đình cô”.
“Cảm ơn,” cô lẩm bẩm đầy vẻ biết ơn.
“Không, tôi mới là người nên cám ơn vì cô đã cho tôi cơ hội được thưởng thức một tác phẩm của Delacroix mà tôi không dám mong chờ”. Anh đưa bức tranh lại cho cô. “Niềm vui do cái đẹp như thế này mang đến thật lớn lao”.
“Tôi tìm thấy thứ này giữa những đồ vật của cha tôi tối hôm qua. Chúng tôi có rất nhiều rương đồ của cha tôi. Có lẽ tôi có thể tìm được vài thứ nữa”.
“Tôi thực lòng muốn được xem những thứ cô có thể tìm thấy, cô Edgerton”.
“Cô ấy không mặc gì”, ngài Vere nói, đột nhiên xuất hiện bên cạnh cô. Cô không hề nghe thấy tiếng anh ta đứng dậy khỏi ghế.
“Đây là tranh khỏa thân, Penny”, ngài Frederick giải thích.
“À, ừ, anh có thể nhìn thấy rằng cô ấy không mặc gì cả”. Ngài Vere nghiêng lại nhìn gần hơn. “Ngoại trừ một đôi tất trắng, đó”.
Cánh tay anh ta thực sự đã chạm vào tóc cô. Cô đã mong đợi quần áo của anh ta bốc mùi sốt cà chua - anh ta đã gặp một rắc rối với món lá lách bê ở bữa trưa. Nhưng anh ta chỉ có mùi mát mẻ và sạch sẽ.
“Nó là một công trình nghiên cứu về hình dáng phụ nữ. Không phải là dâm dục”, ngài Frederick nói, “Nó không bị cho là dâm dục”.
Kỳ lạ là ngài Frederick đỏ mặt. Nhưng anh nhanh chóng lấy lại vẻ điềm tĩnh. “Và cảm ơn lần nữa, cô Edgerton, vì đặc quyền này. Tôi hy vọng cô tìm thấy thêm những báu vật được cất giấu. Tôi nóng lòng được nhìn chúng”.
“Tôi chắc chắn sẽ đưa cho ngài xem ngay bất kỳ thứ gì tôi tìm thấy”, cô nói, mỉm cười và đứng lên. Vẫn còn rất nhiều, rất nhiều việc phải làm.
Ngài Vere nói với theo cô, “Tôi cũng thích xem xem chúng có như bức này không, chỉ đi tất!”
Cô đã không ném một cái bình hoa vào đầu anh ta. Giờ đây cô chắc chắn mình sẽ được phong thánh.
Hành động và cử chỉ của cô Edgerton cuốn hút Vere. Cách cô thỉnh thoảng nghịch những đường diềm xếp nếp ở tay áo. Cách cô chạm vào tóc mình, như thể chủ tâm lôi kéo sự chú ý của người khác đến mái tóc bóng mượt, mềm mại đó. Cách cô lắng nghe Freddie, ngón tay trỏ đặt cạnh cằm, thân trên hơi ngả về phía trước một chút, mang đến một ấn tượng rõ ràng nhưng vẫn kín đáo rằng cô muốn lại gần hơn.
Nhưng không có gì kích động Vere làm anh khó chịu nhiều như nụ cười của cô. Khi cô mỉm cười, bất chấp mọi thứ, trái tim anh lại nhảy nhót.
Có cả một ngành khoa học và nghệ thuật sản xuất nụ cười. Anh cũng khá thành công với việc cười, bất kể anh đang cảm thấy như thế nào. Nhưng cô… cô là bức trần nhà của nhà thờ Sistine, đạt đến một trình độ cao ngất ngưởng, bất diệt và không thể vượt qua được.
Cô đã tìm được sức quyến rũ ngây thơ và rạng rỡ đầy kỹ thuật đó ở đâu? Làm thế nào cô có thể duy trì được vẻ ngây thơ chân thành đó trong đôi mắt và thả lỏng chiếc cằm? Những nụ cười của cô rạng rỡ đến mức đôi khi anh không thể nhớ được nếu không cười thì cô trông như thế nào.
Nhưng cô đã không mỉm cười khi cô phát hiện ra mình đang ngồi trên lòng anh.
Cô đã không mỉm cười suốt chín mươi phút anh diễn trò say xỉn để giữ cô tránh xa khỏi phòng dì cô. Cô đã không mỉm cười với anh ngay lúc này khi anh phơi bày thân thế không mấy-tự-hào của cô. Và với cô, không mỉm cười giống như một cô gái ra khỏi nhà mà không mặc váy lót.
Anh muốn thế, đúng không, chọc tức cô để cô gào lên như điên? Thế thì tại sao anh lại bực tức như thế này? Anh thậm chí còn khó chịu với Freddie, mục tiêu của tình cảm lộ liễu của cô, bởi vì Freddie không hề quan tâm đến tình cảm đó cho dù theo cách này hay cách khác, trong khi Freddie hầu như chưa bao giờ giày vò anh.
“Penny, em sẽ lên lầu một lúc”, Freddie nói, đứng dậy từ chiếc bàn anh đang viết thư kể từ khi cô Edgerton rời khỏi. “Em cần lấy hộp danh thiếp”.
“Anh sẽ đi với em”, Vere trả lời. “Anh không có việc gì hay hơn để làm”.
Anh đã làm việc nhiều giờ để giải mã mật mã sử dụng trong hồ sơ của Douglas, anh đã sắp xếp đi sắp xếp lại những lá bài có đánh dấu chữ cái ở góc, xem xét các kiểu sắp xếp khác nhau. Hoặc ít nhất đó là mục tiêu của anh. Anh không đạt được kết quả gì, sự tập trung của anh đã mềm nhũn cả ngày nay.
Bên cạnh đó, cô Edgerton vẫn còn ẩn nấp đâu đó trong nhà.
“Tại sao em lại cần hộp danh thiếp? Chúng ta đến thăm ai à?” anh hỏi khi họ đi lên cầu thang.
“Không”, Freddie nói. “Em đang viết thư cho Leo Marsden. Cậu ấy đang trên đường trở về từ Ấn Độ”.
“Ai cơ?”
“Anh nhớ cậu ấy không - lúc ở trường Eton chúng ta đã ở cùng nhà. Em ghi địa chỉ của cậu ấy trong hộp danh thiếp”.
Trong phòng, Freddie mở ngăn kéo chiếc bàn cạnh giường và xoa cằm. “Lạ thật. Hộp danh thiếp của em không có ở đây”.
“Lẩn cuối em nhìn thấy nó là lúc nào?”
“Sáng nay”. Preddie cau mày. “Có lẽ em nhớ không chính xác”.
Freddie rất tốt bụng. Hấu hết các quý ông sẽ nghi ngờ người hầu. Vere giúp Freddie tìm kiếm khắp phòng mà không thấy.
“Em nên nói với cô Edgerton là nó bị mất”.
“Em cũng nghĩ thế”.
Tuy nhiên, họ không gặp lại cô Edgerton cho đến khi mọi người trở về nhà uống trà và tán gẫu về những sự kiện trong ngày. Cô Edgerton tỏ ra sửng sốt, biểu hiện phù hợp khi có một chuyện như thế xảy ra trong nhà mình và hứa sẽ làm đủ mọi cách nằm trong khả năng để tìm hộp danh thiếp và trả lại cho ngài Frederick.
Nhưng khi cô thể hiện sự trấn an đầy quan tâm, ngây thơ như con cừu non và ngọt ngào như con mèo, Vere đột nhiên nghi ngờ cô. Anh không biết cô có thể làm gì với hộp danh thiếp của Freddie. Anh chỉ biết rằng khi cô không mỉm cười, trong mắt cô có một sự cứng rắn, gần giống với một sự dứt khoát không thể lay chuyển nổi.
Và bản năng của anh hầu như luôn chính xác.
Thái độ của quý bà Avery trong bữa tối làm tâm trạng bất an của Vere chuyển sang báo động thực sự. Anh biết rất rõ quý bà Avery. Người có nghề nghiệp như anh mà không tranh thủ một nguồn tin như thế thì đúng là ngốc nghếch. Và anh nhận ra cái nhìn do thám của bà ta: mắt láo liên, lỗ mũi gần như rung rung, sẵn sàng vồ lấy một vụ tai tiếng béo bở nếu như bà ta có thể bám theo mùi hương để lần đến nguồn gốc của tội lỗi hấp dẫn.
Chuyện gì đó đang xảy ra. Có chuyện xảy ra không có gì là lạ, nhưng chuyện này lại đột ngột xảy ra. Vì quý bà Avery đã không thể hiện dấu hiệu săn mồi nào ở bữa tiệc trà, mãn nguyện với một việc đơn giản là trêu ngươi cô Melbourne và cô Duvall bằng những câu chuyện phiếm không phù hợp chút nào với đôi tai trong trắng của họ.
Chuyện gì có thể khiến quý bà Avery ở trong tình trạng háo hức như thế? Những cô gái, bất chấp tuổi trẻ và niềm ham mê những trò vui vẻ, không phải tuýp người có thiên hướng gây tai tiếng đặc biệt. Mối quan tâm chính của cô Melbourne nằm ở vóc dáng của mình; cô Duvall quan tâm đến âm nhạc. Cô Beauchamp nuôi dưỡng tình cảm mạnh mẽ với người anh con bác không có mặt. Và cô Kingsley, bất kể cuộc tán tỉnh với Conrad, vẫn dành nhiều quan tâm đến giáo dục hơn là hôn nhân, cô sắp trở lại trường Girton vào tháng Mười.
Vậy chỉ còn chủ nhà của họ.
Vere dính sát sạt với Freddie. Không có chuyện gì xảy ra. Bữa tối đến và kết thúc. Những trò giải trí buổi tối yên ả và thích hợp. Những quý cô đi nghỉ hết sức đúng giờ. Khi đồng hồ điểm mười một giờ rưỡi, anh bắt đầu tin rằng, có lẽ, ít nhất một lần, anh đã phản ứng thái quá; rằng những gì anh cho là sự nhạy cảm của bản năng khiến anh cảm thấy những chuyện ngấm ngầm đang xảy ra trong cuộc tụ tập này chỉ là biểu hiện dữ dội của chứng hoang tưởng.
Nhưng hai phút sau, một người hầu ngái ngủ bước vào phòng khách mang theo một chiếc khay bạc với hộp danh thiếp của Freddie và một lá thư niêm phong.
Vere đứng vụt dậy, chạy vèo qua phòng khách, dừng lại vừa đúng lúc để không xô tên người hầu ngã ngửa nhưng cũng không quá sớm để hắn ta không làm đổ khay bạc xuống sàn nhà.
“Xin lỗi!” anh kêu lên, và ngồi xổm xuống để lấy những thứ mang cho Freddie. Sau đó anh đứng thẳng lên và vỗ vai tên người hầu. “Ta xin lỗi, anh chàng chăm chỉ. Ta quá phấn khích. Chúng ta đã tìm cái hộp danh thiếp này cả ngày. Ta bảo anh này: Anh đi ngủ đi, và ta sẽ mang cái hộp này đến cho em trai ta. Nó là của cậu ấy, đúng không?”
Anh chỉ Freddie.
“Vâng, thưa ngài. Nhưng tôi được ra lệnh là phải đưa đến tận tay ngài Frederick”.
“Không sao”. Vere đi đến chỗ Freddie và đưa đưa hộp danh thiếp. “Thấy chưa, đã đưa tận tay ngài Frederick”.
“Cám ơn, thưa ngài”, tên người hầu nói và bỏ đi.
Freddie kiểm tra bên trong chiếc hộp. “Em tự hỏi cô ấy tìm thấy nó ở đâu”.
“Hỏi cô ấy vào ngày mai”, Vere nói. “Ít nhất bây giờ em có thể ghi địa chỉ gửi thư cho Marsden”.
Anh đợi vài phút rồi rời khỏi phòng để đọc lá thư niêm phong anh đã khéo léo nhét vào trong túi.
Ngài Frederick thân mến,
Đây là hộp danh thiếp của ngài, một cô hầu gái đã tìm thấy nó trên cầu thang của người làm.
Và liệu tôi có thể mượn một chút thời gian của ngài được không, tôi vừa mới phát hiện một bức tranh phác họa rất đẹp và tinh xảo giữa những đồ vật của cha mình, được ký bởi một cái tên mà tôi không dám viết ra vì sợ rằng sẽ tự biến mình thành kẻ ngốc.
Phiền ngài xem qua nó được không? Tôi không đợi được vì quá háo hức. Nếu ngài có thể vui lòng gặp tôi ở phòng khách màu xanh trong mười lăm phút nữa, tôi sẽ rất cảm tạ.
Elissande Edgerton.
Elissande Edgerton. Một cái tên đẹp. Gần như sắc bén, giống như ngậm một miệng đầy những viên ngọc có mặt cắt sắc lẻm. Và Elissande đáng yêu, thông minh muốn gặp Freddie vào lúc gần nửa đêm, rất lâu sau khi các quý cô đã đi ngủ, rất xa phòng khách và phòng bi-a nơi các quý ông vẫn còn lai vãng.
Một cuộc hẹn hò đơn độc, trong góc xa xôi nhất của ngôi nhà - với quý bà Avery đang ở trong trạng thái quá phấn khích vì chờ đợi.
Dường như anh đã hoàn toàn đánh giá thấp sự quan tâm đến Freddie của cô Edgerton.
Elissande run rẩy. Việc này làm cô hồi hộp. Dì cô là người run rẩy, không phải cô. Cô có bàn tay vững vàng và đôi mắt trong trẻo không hề chớp cho dù hoảng sợ đến đâu.
Có lẽ cô có thể sử dụng sự run rẩy này làm lợi thế. Một quý cô gặp một quý ông vào giờ giấc nhạy cảm như thế này nên run rẩy một chút, không phải sao? Nó sẽ khiến cho niềm say mê buông thả đột ngột của cô có một chút thành thật, và điều đó có thể xui khiến ngài Frederick phản ứng chân thành hơn.
Cô chạm tay vào vai. Cô đã tháo đường chỉ trên cùng của chiếc váy ngủ. Dưới chiếc áo choàng, chiếc váy ngủ thực ra chỉ còn dính vào nhau bằng một mũi chỉ. Một cái giật bất kỳ sẽ tách nó làm hai và khiến hai nửa váy không còn gì níu giữ trượt xuống sàn nhà.
Lần này cô đã tìm thấy gì thế, cô Edgerton? Ngài Frederick sẽ hỏi.
Và cô sẽ nhìn vào anh như thể anh là sự trở lại của Chúa Giê-su lúc Phán Quyết cuối cùng. Ôi, tha lỗi cho tôi, thưa ngài. Tôi biết tôi không nên làm thế này, nhưng kể từ khi chúng ta gặp nhau, tôi không thể ngừng nghĩ về ngài.
Ít nhất, những lời nói cuối là có thật.
Cô thở sâu, thở ra, hít vào, thở ra, hít vào. Đã đến lúc. Cô kéo chiếc áo choàng chặt lại, cầu nguyện sẽ không tuột chiếc váy ngủ trước khi đến lúc, và rời phòng ngủ đi đến phòng khách màu xanh.
Ánh sáng vẫn còn trong phòng khách. Giấy dán Nhật Bản miêu tả bốn mùa. Những bình hoa và lư trầm hương màu ngọc bích ánh lên màu xanh lá sen của giấy dán tường lụa. Những chiếc lọ trong, cao lớn đến ngang ngực trên giá chứa những con tàu mẫu thủ công phức tạp, như những tù nhân, giống cô.
Và cô đang ở trong phòng một mình.
Cô chớp mắt. Cô đã định đến chậm vài phút sau ngài Frederick. Lẽ ra anh đã ở đây, có lẽ hơi giật mình trước tình trạng trang phục thiếu trang trọng của cô, nhưng bồn chồn và nóng vội để xem chính xác đồ vật quá-đáng-giá-để-tin mà cô vừa phát hiện ra.
Trong lò sưởi không có lửa. Sau khoảng hai phút đi lại điên cuồng quanh phòng, cô nhận ra cô đã run rẩy tệ hơn rất nhiều, vì sự lạnh lẽo trong không khí cũng như sự tấn công đột ngột của sợ hãi, kế hoạch của cô không có giá trị gì nếu như không có ngài Frederick.
Bàn tay cô nhích lại gần ngọn lửa trên cây nến, khao khát sức nóng mỏng manh của nó. Cô thở nhanh và nông. Không khí có mùi dầu thông được các cô hầu gái dùng để đánh bóng đồ nội thất.
Chiếc đồng hồ trên lò sưởi điểm giờ khiến cô nhảy lên. Đã đến giờ cô viết trong lá thư không ký tên, và dấu niêm phong bằng sáp đã vỡ mà cô cố ý để lại ngoài cửa phòng quý bà Avery. Nửa đêm. Phòng khách màu xanh. Trái tim em thao thức vì anh. Và cô biết quý bà Avery đã phát hiện ra lá thư như là tình cờ bị rơi, bởi vì suốt buổi tối, bà ta đã không ngừng dò xét đám đông, cố gắng tìm ra đôi tình nhân quẫn trí nào dám hẹn hò ngay trước mũi bà ta.
Và bây giờ tất cả chỉ là một trò đùa.
Đờ đẫn, Elissande tắt đèn phòng khách và tiến về phía phòng làm việc của chú cô để tránh đụng phải quý bà Avery, người gần như chắc chắn sẽ đi đến từ hướng hành lang trước. Đi qua phòng làm việc là cầu thang của người làm. Cô sẽ trở về phòng theo lối đó.
Cô khựng lại bên ngoài phòng làm việc. Cô đã đặc biệt thông báo với các vị khách rằng phòng làm việc là khu vực cấm. Nhưng cánh cửa phòng làm việc đang hé mở và đèn đang sáng.
Cô đẩy cửa mở toang. Ngài Vere đứng trước những chiếc tủ nhiều ngăn, mở hết ngăn kéo này đến ngăn kéo khác, và đang ngâm nga hát.
“Ngài Vere, ngài đang làm gì ở đây?”
“Ô, này, cô Edgerton”, anh ta vui vẻ trả lời. “Tôi đang tìm một cuốn sách. Tôi thích đọc trước khi đi ngủ, cô biết đấy. Tốt hơn cồn thuốc phiện nhiều. Hai trang, thỉnh thoảng là hai đoạn, và tôi sẽ ngủ say như một đứa bé. Không có gì hiệu quả bằng việc này, đặc biệt là những bài thơ La-tinh. Chỉ một đoạn thơ La-tinh và tôi sẽ không rời khỏi giường trước mười giờ sáng mai”.
Cô ngạc nhiên là anh ta có thể đọc, đừng nói là đọc tiếng La-tinh. “Tôi xin lỗi, thưa ngài, nhưng ngài đang ở nhầm chỗ rồi. Sách ở thư viện không phải ở đây”.
“À, thảo nào. Tôi nghĩ đây là thư viện, tôi vừa mới nói với mình rằng nó là một thư viện kỳ lạ”. Anh ta bước ra hành lang. “À này, cô Edgerton, cô đang làm gì ở đây? Không phải các quý cô đã đi ngủ rồi hay sao?”
“Tôi bỏ quên đồ”.
“Cái gì thế? Tôi có thể giúp cô tìm được không?”
Cô định nói là cô đã tìm thấy rồi thì cô nhận ra rằng cô không có gì trong tay ngoài cây nến.
“Tôi có thể tự tìm nó, cảm ơn, thưa ngài”.
“Xin hãy để tôi giúp”.
Đây là điều cuối cùng cô cần, nguy cơ bị quý bà Avery bắt gặp với anh ta. Nhưng quý bà Avery vẫn chưa đến. Không có tiếng bước chân gần đây, bà ta sẽ không đến trong một hoặc hai phút nữa, khá đủ thời gian cho Elissande quay trở lại phòng khách màu xanh bên cạnh, nhặt lấy bất kỳ vật gì đó, tuyên bố là tìm thấy nó và thoát khỏi ngài Vere.
Vậy là cô làm thế, với ngài Vere bám theo. Khi đã ở trong phòng khách màu xanh, chỉ với ánh sáng mờ ảo của cây nến, cô tiến thẳng đến lò sưởi, túm lấy vật gần nhất và nói, “Đây rồi, tôi đã tìm thấy nó”.
“Ồ, một quả cầu tuyết rất đẹp”, ngài Vere nói.
Cô có thể lấy một thứ khác, bất kỳ thứ gì khác. Một cây đèn nến chẳng hạn. Cái lư Trung Quốc đơn giản chứa đóm để nhóm lò sưởi. Nhưng cô đã không làm vậy; cô lấy quả cầu tuyết với một ngôi làng thu nhỏ ở bên trong: nhà thờ, đường phố, những mái nhà phủ tuyết - món quà Giáng sinh cuối cùng dì Rachel đã tặng cô, tám năm trước.
Tuyết đã rơi vào Giáng sinh năm đó. Trong một tâm trạng khác thường, chú cô đã tự biến mất đi đâu đó. Elissande đã thuyết phục dì Rachel ra ngoài đi dạo dưới tuyết, lúc đó, sức khỏe của dì đã được cải thiện nhiều nhờ sự chăm sóc của cô. Họ đã làm một người tuyết cắm đầu xuống đất. Và rồi, bằng cách nào đó, họ bắt đầu một trận chiến bằng tuyết. Một trận chiến đầy khí thế. Dì Rachel nhắm ném rất tốt, điều này chẳng ai nghĩ đến. Chiếc áo khoác ngoài của Elissande lấm chấm những phần còn lại của những quả cầu tuyết đã được ném thẳng và chính xác vào cô. Nhưng cô cũng không chơi quá dở. Dì Rachel vừa chạy vừa hét lên, rồi sau đó cười một cách kích động khi dì bị ném trúng thẳng vào mông.
Cô có thể nhìn thấy dì cô cúi xuống để nặn một quả cầu tuyết khác, mái tóc vẫn-chưa-bạc thoát ra khỏi búi tóc, khuôn mặt bà hồng lên vì dùng sức. Và rồi đột nhiên bà chết sững, vẫn cúi gập người, khi bà nhận ra chồng mình đã trở về.
Elissande chưa bao giờ quên vẻ mặt của chú cô: giận dữ, theo sau bởi vẻ hài lòng chớp nhoáng đáng sợ. Bằng tiếng cười, đôi má hồng, và sự thật không thể chối cãi rằng bà đang chơi đùa, dì Rachel đã để lộ chính mình. Bà đã không hoàn toàn gục ngã. Bà vẫn còn tuổi trẻ và sức sống. Tất nhiên, chú cô không thể cho phép tội lỗi nghiêm trọng này được bỏ qua mà không trừng phạt.
Dì Rachel đã không rời khỏi nhà kể từ lúc đó.
Elissande liếc nhìn ngài Vere, dường như đang bị cuốn hút bởi quả cầu tuyết mà cô không thể chịu được khi nhìn thấy nó. Anh ta đang đứng rất gần cô. Cô nhận thấy đôi vai rộng, cái cổ mạnh mẽ, và đường cong lông mày hoàn hảo đến mức không thể tin được. Tối nay anh ta không có mùi khói thuốc, mà chỉ có mùi lá cây, cô muộn màng nhận thấy một cành cây trứng cá xanh gắn vào một lá cây linh sam trên khuyết áo của anh ta.
Cô có thể bắt mình lấy anh ta được không, biết rằng anh ta không có gì khác, một sự trống rỗng tuyệt đối đằng sau đôi mắt vốn đã trống rỗng? Cô có thể chịu đựng những chuyện tầm phào và cái nhìn chằm chằm vào ngực cô cả đời được không? Cô có thể mỉm cười với anh ta trong hết phần đời còn lại được không?
Nắm tay cô siết chặt trên quả cầu tuyết. Dì nghĩ là nó sẽ lớn hơn một chút, dì cô đã nói khi Elissande lắc quả cầu tuyết lần đầu tiên. Dì muốn tặng cháu thứ gì đó thật đẹp.
Tuyệt vọng. Cô nghĩ cô đã biết nó cả cuộc đời. Cô chưa bao giờ thực sự biết đến nó cho đến giây phút này.
Tiếng bước chân ở xa xa. Quý bà Avery đang đến.
Cô đặt cả cây nến và quả cầu tuyết xuống, và mỉm cười với ngài Vere. Cô lại đang run rẩy. Tốt. Run rẩy phù hợp với những từ đang nháo nhào chạy ra từ môi cô.
“Ôi, thưa ngài, tha lỗi cho tôi, tôi không nên làm thế này. Nhưng kể từ khi chúng ta gặp nhau, tôi không thể không nghĩ về ngài”, cô nói, tháo chiếc thắt lưng ở eo và thả chiếc áo choàng ngủ xuống sau lưng.
Mắt ngài Vere mở lớn. Cô không để tốn thời gian mà dẫm mạnh vào vạt váy ngủ. Sợi chỉ ở vai cô bục ra. Chiếc váy ngủ thì thầm khi nó trượt xuống theo cơ thể trần truồng của cô.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.