Nghe Quân Về

Chương 1:




1
Lần đầu tiên gặp hoàng thái tôn ta chỉ mới mười tuổi, khi ấy ta là một tiểu cung tỳ được lão ma ma trong lãnh cung nuôi lớn.
Lãnh cung ở lối giữa của Tây Lục Viện, là một nơi hoang vu tràn đầy âm u và trầm lặng.
Năm ấy ta vẫn đang múc nước giặt quần áo trong Nghi Môn Viện như thường lệ, chợt thấy trong hành lang mọc đầy cỏ dại kia có một vị tiểu công tử đang từ xa đi tới.
Tuổi tác của tiểu công tử không lớn, người mặc áo gấm, thân như trúc xanh.
Mà ở đằng sau hắn, có một con chó ngao to khổng lồ đang hung dữ đuổi theo.
Khoảnh khắc nhìn thấy hắn, nửa xô nước ta vất vả lắm mới kéo lên được lại đột nhiên rơi cái bịch vào đáy giếng theo chuyển động của chiếc trục cán bánh xe cũ kĩ.
Sau đó ta quát to một tiếng, cầm chiếc gậy gỗ trong chậu ra rồi chạy qua đánh chó.
Hôm đó là tết Thượng Tị.
Dân gian có tục chơi xuân và tắm rửa trừ tà bên bờ sông, vị Trương quý phi trong cung kia còn cử hành thêm cả yến tiệc tế thần.
Thái tôn bị chó cắn một phát, ta cũng xui xẻo bị nó cắn cho một miếng, sau đó nó đã bị thủ lĩnh của đội thị vệ tuần sát trong cung chạy đến bắn chết.
Đó là một con chó ngao, nghe nói nó được tộc phiên ở phía bắc mang đến cống nạp, xưa nay vẫn luôn được nuôi dưỡng ở Khu Vạn Sinh. Con có ngao có bộ lông dài đen nhánh, ngoại hình dũng mãnh, hung ác hơn mấy con chó được nuôi trong kinh kỳ nhiều.
Càng quan trọng hơn là răng nanh của nó có độc. Hoàng thái tôn không bị sao cả, bởi vì hắn mặc áo giáp phòng thân ở bên trong. Ta thì không được như thế, suýt chút nữa đã đi tong một cái mạng.
Lúc sau mãi mới nhặt được một cái mạng về, ta vừa tĩnh dưỡng được hơn một tháng thì đã bị gọi đến Điện Trọng Hoa ở Đông Cung.
Năm đó hoàng thái tôn mười hai tuổi, hắn ngồi ngay ngắn trên cao đường, mặt mày bén nhọn, khí thế khiếp người.
Ta dựa theo lời ma ma đã dặn trước đó, hai tay xếp lại trên mặt đất, quỳ xuống dập đầu không dám nhìn hắn.
Cung điện cao lớn, nguy nga túc mục, chỉ nghe thấy thiếu niên lạnh lùng đầy uy nghiêm kia trầm giọng hỏi ta:
"Tại sao lại muốn cứu cô?"
Ta vốn định dựa theo lời ma ma đã dặn, trả lời hắn một câu [Thái tôn điện hạ là chủ tử, nô tỳ hộ chủ là việc nên làm.]
Nhưng hết lần này tới lần khác do lo lắng quá nên ta lỡ quên béng hết lời bà ấy dặn. Thái tôn thấy ta không đáp lời, giọng nói không khỏi lại nghiêm khắc vài phần: "Ngẩng đầu lên, cô đang tra hỏi ngươi đấy!"
Ta vội vàng ngẩng đầu, bất chợt bắt gặp đôi mắt đen nhánh kia của hắn, cả người bỗng nhiên sửng sốt cực kỳ.
Hoàng thái tôn là hậu duệ quý tộc, khí phách trên người sinh ra đã có. Trông hắn còn tuấn tú đẹp trai như thế, làn da trắng như tuyết, ngũ quan đoan chính, mặt mày sắc bén, sống mũi cao thắng, màu môi hơi nhạt.
Ta nhìn hắn, đầu óc đột nhiên quay cuồng, chợt buột miệng nói: "Điện hạ trông xinh đẹp."
"Cái gì cơ?"
"Điện hạ trông xinh đẹp."
Ta lặp lại một lần nữa, vô cùng nghiêm túc: "A Ôn cũng xinh đẹp, hồi còn bé mỗi lần tổ chức tế thần vào ngày lễ Thượng Tị, mẹ ta đều sẽ mặc cho ta bộ quần áo nhìn hệt như long nữ để đi hội chùa. Chính là long nữ và đồng tử ở dưới tòa của Bồ Tát đó, được rất nhiều người khiêng lên đi trên phố, mẹ ta nói chỉ có người nào xinh đẹp thì mới được ngồi ở trên đó thôi."
Trong lời nói không dấu được vẻ đắc ý.
Thái tôn nghe vậy thì lại mím môi, hồi lâu sau mới lên tiếng hỏi ta: "Ngươi là con gái út nhà quận trưởng của huyện Tiêu ở Dự Châu sao?"
"Đúng vậy, cha ta tên là Văn Túc, ta tên là Văn Sênh, nhưng sau khi vào cung bọn họ nói ta không thể lại dùng tên cũ nữa, cho nên bây giờ ta tên là A Ôn." Ta thành thật trả lời.
Văn Sênh vào cung năm sáu tuổi, trước đó cũng là tiểu thư cành vàng lá ngọc được nuông chiều của nhà quan lại nơi quê quán.
Năm Cảnh Thọ thứ năm, Hoàng đế đi tuần ở phía nam, lúc đi ngang qua huyện Tiêu ngắm đèn thì bị ám sát dẫn đến việc Hiếu Văn hoàng hậu tạ thế. Hiếu Văn hoàng hậu là vợ cả của Cảnh đế, hai người tình cảm thâm hậu, khi ấy hoàng đế cực kỳ bi ai, huyện Tiêu máu chảy thành sông.
Thích sử của Dự Châu và các quan viên địa phương đều bởi vì không kịp thời hộ chủ nên cả nhà đều bị lưu đày, duy chỉ có mấy cô bé còn nhỏ thì bị bắt vào cung làm nô.
Ta từng tên là Văn Sênh, ngay từ ngày thơ bé đã không giống với người khác, đến ba tuổi rưỡi rồi mà còn không thể mở miệng nói chuyện.
Cha ta thường gọi ta là bé ngốc.
Ông ấy thờ phụng đạo Năm đấu gạo (*), từng mời một đạo sư tới đoán mệnh cho ta.
(*) Thiên sư Đạo, còn gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo Năm đấu gạo), Chính Nhất Đạo, Chính Nhất Minh Uy Chi Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng sáng lập. Ban đầu, tôn giáo này không có tên gọi chính thức, thường được gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo do khi các tín đồ nhập giáo đều phải nộp 5 đấu gạo, do đó mà thành tên.
Đạo sư nói mệnh của ta là đồng nữ mạng quý, tuy rằng tâm trí trẻ con nhưng lại cao quý hơn người thường.
Cái miệng lưỡi dẻo quẹo của ông ta dỗ dành đến nỗi cha ta lại giao thêm vài chục đấu gạo nữa.
Tội nô thì có mạng quý gì chứ. Trên đường bị áp giải về kinh ta lại ngã bệnh một hồi, sau đó bọn họ phát hiện ra rằng ta chỉ là một kẻ ngốc nên vừa vào cung thì vú già quản sự đã lập tức ném ta cho mấy lão ma ma trong lối giữa của lãnh cung.
Chỉ để lại một câu ----
"Có sống được hay không thì phải xem mệnh của nó, nếu chết thì thông báo cho Lưu Xuân một tiếng, cuốn vào cái chiếu rồi ném ra bên ngoài chôn đi."
Các ma ma đều đã lớn tuổi, thiện tâm.
Ta còn nhỏ tuổi, mạng cứng.
Cứ như vậy, ta sống trong lãnh cung đến năm mười tuổi.
Hoàng thái tôn hỏi ta có bằng lòng ở lại Cung Trọng Hoa không.
Ta trả lời không hề do dự: "Bằng lòng."
Ta nghĩ sở dĩ hắn lên tiếng để cho ta ở lại Cung Trọng Hoa thế này, một là bởi vì ta cầm gậy đánh chó, còn hai nhất định là bởi vì gương mặt ta trông giống đứa bé ở trên bức tranh tết bằng gỗ trong đào hoa ổ ở dân gian.
Các ma ma luôn nói như vậy, họ còn nói do hoàng thái tôn thấy ta ngoan ngoãn, lại còn trông xinh đẹp đáng yêu nên mới cố gắng giữ ta lại.
Quế Hoa ma ma nói: "Nếu thái tôn bằng lòng giữ con lại thì con phải đồng ý ngay."
"Sao phải thế ạ?"
"Tiểu A Ôn, con nhìn khu vực lối giữa này mà xem, trừ mấy bà lão như chúng ta thì chỉ toàn là những phi tần bị phế kia, người bị điên, kẻ bị bệnh, chết thì cũng chết cả rồi. Còn có cả cái loại dơ bẩn như Lưu Xuân ở đây, chúng ta có thể che chở con mấy năm nữa đâu, bị nhốt ở nơi này thì vĩnh viễn sẽ không có đường ra. Nếu có thể đến chỗ của thái tôn thì đó chính là mệnh của con."
"Tại sao nhất định phải đến chỗ của thái tôn, không phải Tần ma ma nói con cũng có thể đến Cung Chiêu Thuần sao?"
Cả hoàng cung đều biết, trong lãnh cung có một tiểu cung tỳ đã cứu hoàng thái tôn, hoàng thượng cho ngự y đến chẩn trị cho ta, Trương quý phi của Cung Chiêu Thuần còn ban thưởng cho ta cả một chuỗi ngọc bảo châu.
Tần ma ma bên cạnh Trương quý phi nói rằng đợi đến khi vết thương của ta khỏi hẳn thì có thể đến Cung Chiêu Thuần làm mấy việc vặt.
Ta nghĩ Trương quý phi là người tốt, nhưng Quế Hoa ma ma không nghĩ như vậy. Bà ấy nhất quyết nói rằng chỉ có đến bên cạnh thái tôn thì mới là đường ra tốt nhất của ta.
Ta nghĩ, đây chắc chắn là bởi vì ta có ơn cứu mạng với thái tôn.
Ta ở lại Cung Trọng Hoa, được Ngọc Xuân cô cô dạy quy củ suốt mấy ngày rồi mới bắt đầu sắp xếp vào trực trong thư phòng.
Hoàng thái tôn Chu Thừa Dực là con trai trưởng của đương kim thái tử, là cháu đích tôn của Cảnh đế, ngay từ khi ra đời đã được sách phong là "thái tôn", là người kế vị của hoàng thất.
Cảnh đế đang trong tuổi tráng niên sung sức, ông ấy có quá nhiều đứa con trai thông minh đa tài, vậy nên lại càng khiến sự bình thường của thái tử nổi bật hơn.
Thái tử ngồi ổn trên vị trí này không những bởi vì y là con trai duy nhất do Hiếu Văn hoàng hậu sinh ra, mà còn bởi y có một cậu con trai trưởng vô cùng xuất sắc.
Chí ít hoàng đế đã nói như thế.
Những năm gần đây thái tử xử sự ngày càng vô năng, đã phạm sai lầm rất nhiều lần khiến cho Cảnh đế dần mất kiên nhẫn, thậm chí ông ấy còn mắng mỏ thái tử ngay trước mặt thái tôn: "Ngu xuẩn! Nếu không phải có đứa con trai trưởng như Thừa Dực thì ngôi vị thái tử này ngươi cũng không cần ngồi nữa đâu!"
Cho dù có là ai thì khi bị cha mình mắng nhiếc như thế trước mặt con trai, ít nhiều đều sẽ cảm thấy mất hết mặt mũi. Thái tử cũng chẳng quá gần gũi với cậu con trai này, dù là hắn rất được thánh tâm.
Vì hoàng thái tôn trời sinh cảm tình đã đạm bạc, đối với ai cũng trưng ra bộ mặt lạnh lùng cứng nhắc, không thân chẳng quen. Hơn nữa thái tử phi mất sớm, thái tử vốn dĩ cũng không thích thái tử phi, y lập biểu muội yêu quý của mình lên làm trắc phi, thậm chí còn sinh ra đứa con thứ chỉ nhỏ hơn thái tôn gần một tuổi.
Thái tử thích trắc phi, cũng thích con thứ nên bao nhiêu sự dịu dàng ấm áp của tình cha đều dành hết cho đứa con này.
Thái tôn không quan tâm, Cung Trọng Hoa của hắn cách chủ điện của Đông Cung rất xa, hắn vẫn luôn bình tĩnh tự chủ. Hoàng thái tôn sinh ra là để đứng ở vị trí cao, làm người kế vị của hoàng thất.
Lời của Cảnh đế đồng thời cũng nhắc nhở các vị hoàng tử trẻ tuổi ẩn sâu đầy mưu mô kia rằng, thay vì trăm phương ngàn kế kéo thái tử xuống ngựa thì không bằng trực tiếp ra tay với thái tôn, nhổ cỏ tận gốc, đẹp cả đôi đàng.
Tựa như vào buổi yến tiệc tế thần do Trương quý phi tổ chức, chó ngao trong Khu Vạn Sinh chạy tới lối giữa rồi phi đến chỗ thái tôn như thế nào, rồi tại sao thái tôn lại đến khu vực Tây Lục Viện ở lãnh cung hẻo lánh này làm chi, những thứ này sẽ mãi không có ai biết được.
Năm đó ta mười tuổi, chỉ biết thủ lĩnh của đội thị vệ đúng lúc xuất hiện bắn chết chó ngao kia chính là đại công tử của phủ Bình Tây tướng quân, là anh trai của thái tử phi đã qua đời và cũng là cậu ruột của hoàng thái tôn.
Nếu ta đủ thông minh thì sẽ phát hiện ra rằng thái tôn vốn cũng chẳng cần ta tới cứu hắn.
Hoàng thái tôn mười hai tuổi từ nhỏ đã sống trong vòng xoáy quyền mưu, âm mưu quỷ kế đã là chuyện thường thấy, hơn nữa còn ứng phó được một cách thuận buồm xuôi gió.
Nói hắn trời sinh tính tình hờ hững, tâm tư thâm trầm thực ra cũng chỉ bởi thuở nhỏ đã trải qua vô số chuyện như thế mà thôi.
Vào lúc ta cầm gậy gỗ đi đánh chó, hơn nữa còn tự cho rằng mình là ân nhân cứu mạng của hắn thì cái mạng này của ta đã nằm trọn trong tay hắn, treo lơ lửng trên chút nhân từ còn xót lại ở đáy lòng hắn rồi.
Nhưng ta hoàn toàn không hề biết gì về những thứ đó, ta chỉ là một người có suy nghĩ đơn giản, là một đứa ngốc lớn lên trong lãnh cung xa xôi.
Thái tôn cũng nói y như vậy.
Dù cho Ngọc Xuân cô cô đã dặn dò quy củ vô số lần, ta vẫn sẽ quên sạch sành sanh.
Trong điện đốt rất nhiều địa long, làn khói lượn lờ trên lư hương, thái tôn chăm chú đọc sách, tập trung không rời mắt.
Ta buồn ngủ đến nỗi không mở mắt ra nổi, thật sự không thể ráng chống được nữa, mơ màng ngồi bệt cả ra đất.
Vậy nên lúc Ngọc Xuân cô cô tới đưa điểm tâm đã nhìn thấy cảnh tượng hiếm có như thế này ---
Trước án thư làm bằng hoàng hoa lê, thái tôn mặt mày lạnh lùng đang hờ hững lật sách.
Ta ôm chân bàn, cúi đầu ngủ gật.
Cung Trọng Hoa là nơi quy củ nghiêm ngặt, thái tôn chỉ mới mười hai tuổi nhưng lại vô cùng nghiêm khắc, ngày thường đám cung nhân ngay cả thở mạnh cũng không dám.
Ngọc Xuân cô cô nhìn thấy thì thì vô cùng kinh ngạc, sắc mặt hơi thay đổi, cô cô đang muốn đi tới lay tỉnh ta thì lại chợt nghe thấy giọng nói trong trẻo lạnh lùng của thái tôn vang lên, hắn nói một câu: "Không sao, nhóc con (*) mà thôi."
(*) Nguyên văn là 竖子: là một thuật ngữ tiếng Trung Quốc, có nghĩa là đầy tớ trẻ em; đứa trẻ (có ý nghĩa khinh miệt)
Trong điện yên tĩnh, hắn vừa lên tiếng thì ta đã giật mình tỉnh dậy.
Sau đó Ngọc Xuân cô cô lui ra ngoài, ta ngoan ngoãn đứng một bên nhìn hắn luyện chữ, cuối cùng không nhịn được mới tò mò hỏi: "Thái tôn điện hạ, nhóc con nghĩa là gì?"
Thiếu niên ngẩng đầu nhìn ta, ánh mắt đen nhánh kia chứa đầy bình tĩnh: "Nghĩa là ngu yếu."
"Nó có nghĩa là đứa ngốc sao?"
"Ừ."
"À."
Ta hơi khổ sở, cho dù đã quen bị mọi người gọi là đứa ngốc nhưng lời này từ miệng của hoàng thái tôn nói ra lại làm ta cảm thấy vô cùng uể oải.
Trong lòng ta, hoàng thái tôn tuy rằng nghiêm khắc nhưng lại là một người tốt.
Cơm nước ở Cung Trọng Hoa rất không tồi, mỗi lần các cung nhân ăn xong mà để thừa bánh bao và đồ ăn lại thì ta đều sẽ gói mang về cho Quế Hoa ma ma và mọi người ở lãnh cung.
Hành động này của ta Ngọc Xuân cô cô đều biết, thái tôn cũng rõ ràng.
Ngọc Xuân cô cô nói, thái tôn chưa nói có thể hay không, thôi thì tùy ta muốn làm thì làm.
Thái tôn tốt như vậy lại cũng nói ta là đứa ngốc.
Ta tủi thân cắn môi một cái, nghiêng đầu sang bên với vẻ mặt hốt hoảng, ánh mắt chợt rơi vào hộp điểm tâm sơn son thếp vàng trên bàn, đột nhiên lấy lại tinh thần, lắp bắp nói ----
"Thái tôn điện hạ, em, em có thể ăn một miếng sao?"
Hộp cơm hình lục giác tinh xảo bày biện sáu loại điểm tâm và mứt trái cây khác nhau, là do Ngọc Xuân cô cô vừa đưa tới.
Đại khái là chưa từng có người xin thái tôn một miếng điểm tâm nên hắn hơi bất ngờ, sau đó mím môi, chau mày giơ tay đẩy hộp đồ ăn về phía ta.
Ta lập tức vươn tay ra lấy, chọn một miếng thoạt trông rất ngon miệng.
Một miếng vào bụng rồi mà chưa kịp nhấm nháp ra mùi vị gì, ta lại trông mong nhìn hắn: "Em ăn một miếng nữa có được không?"
Mỗi khi luyện chữ thái tôn không thích nhất là bị người khác quấy rầy, nếu là ai khác, cùng lắm thì kéo ra ngoài là được.
Nhưng hắn vừa bực mình ngẩng đầu thì lại bắt gặp ánh mắt của ta, đang định nổi giận lại chợt nghĩ tới ta chỉ là một con nhóc con, lập tức không nói gì nữa, chỉ phất tay ra hiệu ta mau cầm luôn cái hộp điểm tâm đấy đi chỗ khác đi.
Thế là ta mặt mày hớn hở, ôm hộp đồ ăn ngồi xổm cạnh chân bàn.
2
Từ lúc ta tới thư phòng của thái tôn, Ngọc Xuân cô cô ngạc nhiên phát hiện ra có một khoảng thời gian đồ ăn trong bữa tối của thái tôn chợt nhiều hơn hẳn ngày trước.
Mãi cho đến một lần ta đưa chiếc bánh đào được bọc trong khăn cho cô cô ăn thì bà ấy mới biến sắc nói nếu còn có lần sau nữa thì sẽ đuổi ta ra khỏi cung ngay.
Ta giật mình, từ lúc ấy không dám lại đòi ăn điểm tâm của thái tôn nữa.
Nhưng ta không kìm được cơn thèm ăn, nhân lúc thái tôn không để ý, ta vừa lén lút nhìn hắn vừa lặng lẽ giơ tay mò điểm tâm trong hộp đồ ăn.
Mò một lần, sau đó mò suốt ba năm.
Đương nhiên thái tôn biết rõ ta đang làm gì, nhưng hắn chưa bao giờ vạch trần ta dù chỉ một lần, có lẽ là do hắn chẳng muốn so đo với một đứa ngốc làm gì cũng nên.
Có một lần ta vừa mới lén lút nhét miếng bánh ngọt vào miệng, thậm chí còn chưa kịp nuốt xuống thì thái tôn lại đột nhiên nổi hứng rồi gọi ta đến lấy cho hắn miếng mực đỏ tốt nhất tới, hắn nói rằng mình muốn vẽ tranh.
Ta bị nghẹn tới nỗi trợn trừng cả mắt, vừa chạy đi lấy thỏi mực trong hộp vừa ra sức vỗ ngực bôm bốp, vỗ mấy lần mới khó khăn lắm nuốt được miếng bánh kia xuống bụng.
Khuôn mặt bị nghẹn đến đỏ bừng thoáng khôi phục vẻ bình thường, ta đứng cạnh thái tôn mài mực cho hắn, chỉ thấy hắn nâng bút thành thạo, mặt mày chuyên chú, chỉ hai ba nét trên giấy đã xuất hiện một con chuộ nhỏ.
Con chuột nhỏ béo núc màu xám trắng, ngây thơ đáng yêu, đảo mắt nhìn quanh, sinh động như thật. Con chuột nhỏ này đang ngấu nghiến một trái lựu bị nứt đôi ở trên bàn.
Thái tôn vẽ vô cùng đẹp, ngay cả mấy sợi lông chuột mềm mại cũng được phác họa cực kỳ sống động, khiến cho con chuột béo này trông có vẻ rất hài hước đáng yêu.
Cuối cùng thái tôn đặt tên cho bức tranh này là "Chuột nhắt".
Năm đó ta mười ba tuổi, thấy thái tôn vẽ tranh đẹp như vậy, không khỏi vui mừng cực kỳ, mi mắt cong lên giơ một ngón cái với hắn.
Thái tôn nhướn mày liếc nhìn ta, bật cười hơi khẽ rồi lại cầm bút lên chấm một hạt lựu nhỏ không đáng chú ý lên hàm râu của chuột béo.
Ta vui vẻ cực, lại tiếp tục giơ ngón cái lên nịnh hót hắn ----
"Điện hạ thật là giỏi! Giỏi quá giỏi quá!"
Thái tôn mặc kệ mấy lời tâng bốc của ta, ra lệnh cho ta cất tranh cho kỹ vào. Ta liên tục gật đầu, đang định cầm tranh rời đi thì lại nghe thái tôn gọi ta một tiếng.
Ta hơi nghi hoặc, đành quay đầu lại nhìn hắn một cái, sau đó bỗng thấy hắn đưa tay ra hiệu cho ta. Ta bước lên vài bước tới trước mặt hắn, hắn nhíu mày, giơ tay lau một cái trên khóe môi ta với vẻ mặt đầy ghét bỏ.
Sau khi xem xét kỹ càng ta mới phát hiện thì ra điểm tâm ban nãy ta ăn vụng còn dính một miếng ở khóe miệng.
Thái tôn rất ít nói, hơn nữa còn cực kỳ thích yên lặng ngồi đọc sách trong thư phòng. Mà ta thì bởi có thân phận là đứa ngốc ở đây nên càng ngày càng không sợ hắn.
Buồn ngủ thì cứ ôm chân bàn ngồi ngủ, đói bụng thì ăn vụng điểm tâm trong hộp thức ăn, cùng lúc đó tay nghề mài mực của ta cũng ngày càng tinh thông. Từ một kẻ mặt mũi khi nào cũng bị dây đầy mực cho tới lúc luyện ra tay nghề thành thạo thì cũng phải tốn một khoảng thời gian dụng tâm học hỏi mới có.
Tình cờ ta còn phát hiện ra mực tùng yên mà thái tôn thường dùng ăn khá là ngon, mỗi lần mài mực xong ta đều nhịn không đặng dùng ngón tay dính tí mực rồi đặt lên lưỡi nếm thử một miếng, chép miệng hồi tưởng lại mùi vị của loại mực này.
Thoạt đầu vẻ mặt của thái tôn rất kỳ lạ, hắn nhướn mày khịt mũi một tiếng, nhưng sau này lại cảm thấy có hứng, mỗi lần trước khi viết hắn đều phải đợi ta nếm mực xong thì mới chậm rãi nâng bút lên.
Nghĩ lại mới thấy đúng, mọi người luôn khá khoan dung và dễ tha thứ với kẻ ngốc.
Tất cả mọi sự liên quan của ta và thái tôn đều chỉ giới hạn trong dăm ba câu nói ở thư phòng, cũng chỉ giới hạn với việc ta ăn vụng và nếm mực dưới sự dung túng của hắn, lẽ ra thì sau này vẫn sẽ luôn chỉ như vậy mà thôi.
Mãi cho đến buổi yến tiệc trung thu trong năm Cảnh Thọ thứ mười hai, Thước Dương đại trưởng công chúa bưng một chén sữa hạnh đến cho thái tôn. Cung yến năm đó vốn là Bảo Ninh tỷ tỷ và Lăng Thiệu ca ca sẽ đi cùng thái tôn. Bảo Ninh tỷ tỷ là đại cung nữ của Cung Trọng Hoa còn Lăng Thiệu ca ca là võ hầu, thường thì lúc nào cả hai người cũng sẽ ở bên cạnh thái tôn.
Trước khi đi Ngọc Xuân cô cô lại qua tới bẩm rằng trên mặt Bảo Ninh tỷ tỷ nổi sởi nên không tiện đi cùng, định sẽ đổi thành Vân Đài tỷ tỷ thay thế.
Lúc đó thái tôn đang ở trong thư phòng, đặt bút trong tay xuống rồi thản nhiên nói: "Không sao, để A Ôn đi cùng là được."
Ngọc Xuân cô cô hơi sửng sốt, ta cũng chợt sững sờ.
Cô cô muốn nói lại thôi, có lẽ bà ấy chê ta tuổi nhỏ lại còn vừa khờ vừa ngốc.
Nhưng quyết định mà thái tôn đã đưa ra, trước giờ không có ai dám phản bác. Thế là ta đi theo hắn tới Điện Nghi Nguyên, ghi tạc lời dặn của Ngọc Xuân cô cô trong đầu, dọc đường đi đều cúi đầu nhìn xuống, không dám tò mò quan sát xung quanh.
Yến hội hoàng gia, vàng ngọc rượu thơm, hát hay múa đẹp.
Rượu quá ba ly, hoàng đế đã hơi thấy men say, sau đó ông ấy rời tiệc với Trương quý phi trước.
Ông ấy vừa đi thì bầu không khí nơi đây bỗng trở nên khác thường, Thước Dương đại trưởng công chúa mỉm cười nhìn quanh bằng cặp mắt phượng sáng ngời, đôi bàn tay với mười ngón sơn đỏ kia bưng một bát sữa hạnh tới cho thái tôn.
Thước Dương đại trưởng công chúa chính là con gái của tiên hoàng, là em gái của Cảnh đế. Ngày thiếu thời từng hòa thân xuất giá ở Ô Khương xa xôi. Sau khi Cảnh đế đăng cơ, vì tranh chấp cương thổ nên binh mã của Đại Nghiệp đã đánh thẳng tới Ô Khương.
Nghe nói trong cuộc tranh chấp đó Thước Dương công chúa đã nội ứng ngoại hợp, tự tay giết chết chồng mình là khả hãn của Ô Khương. Cũng chính vì như thế nên sau này khi về tới Đại Nghiệp, Cảnh đế đối xử với bà ta cực kỳ tốt. Về sau bà ta tái hôn với Thái Thường Tự Khanh, còn hạ sinh một cô con gái.
Ngay cả thái tử đều phải cung kính gọi bà ta một tiếng cô mẫu, huống chi là hàng tiếu bối như thái tôn.
Đại trưởng công chúa rất hiền hòa, bà ta nói rằng đây là sữa hạnh do mình tự tay làm. Hoàng thái tôn tuổi nhỏ, vừa mới lại còn uống mấy ly rượu với hoàng tổ phụ và các hoàng thúc nên giờ nhất định phải nếm thử chén sữa hạnh này của bà ta thì mới đỡ nôn nao.
Ánh mắt của mọi người trong điện đều tập trung lên người thái tôn.
Ngay cả thái tử cũng nói cười vui vẻ, nhưng ta có trực giác rằng thái tôn chẳng hề muốn nhận chén sữa này.
Nhưng hắn lại không có lý do gì để từ chối, bởi vì trước khi Cảnh đế rời đi cũng từng uống một chén sữa hạnh của Thước Dương công chúa.
Tuy hắn không nói gì nhưng ta đã ở cạnh hắn suốt ba năm, đương nhiên sẽ cảm nhận được tâm trạng khác thường của hắn.
Sau đó ta bước nhanh về phía trước, nhận lấy chén sữa hạnh của công chúa rồi nâng lên uống cạn. Công chúa vô cùng tức giận, bà ta đang muốn quở mắng ta thì đã thấy ta núp sau lưng thái tôn với vẻ mặt sợ hãi, trông cực kỳ hoảng hốt.
Sẽ không có ai muốn so đo với một kẻ ngốc, nhất là kẻ ngốc này còn từng có ơn với thái tôn.
Hôm đó chúng ta bình an về tới Cung Trọng Hoa.
Ánh đèn chong trong điện dập dờn qua lại, lư hương còn lượn lờ khói bay.
Thái tôn và ta cùng nhau ngồi trên mặt đất, hắn hỏi ta có biết rằng chén sữa hạnh kia có khả năng đã bị hạ độc không.
Ta suy nghĩ một lúc mới chân thành nói: "Không sao, thái tôn điện hạ không bị sao là được, mạng của A Ôn chẳng đáng mấy đồng cả."
Hắn chau mày nhìn ta, lúc sau lại hỏi tiếp: "Cô đáng giá để em đặt mình vào nguy hiểm như vậy ư? Đáng giá để em đánh cược cả tính mạng mình?"
"Đáng giá!"
"Tại sao?"
"Thái tôn đối xử với A Ôn rất tốt."
"Tốt chỗ nào?"
"Thái tôn cho A Ôn ăn điểm tâm, A Ôn thích thái tôn."
Ta cười khúc khích nhìn hắn bằng vẻ mặt chân thành, trái lại thì nét mặt hắn lại cực kỳ nghiêm cẩn, chợt lại hơi giật mình.
Sợ hắn không tin, ta lại nói: "Trước đây lúc còn ở lãnh cung, Lưu Xuân công công cũng từng cho A Ôn điểm tâm nhưng ông ta không tốt chút nào, mỗi lần như thế ông ta đều đòi ôm A Ôn, em không thích ông ta. Thái tôn cho em ăn điểm tâm mà xưa giờ nào có nói yêu cầu gì đâu, cho nên thái tôn là thật lòng đối xử tốt với A Ôn."
Ta nói rất chân thành, sắc mặt hắn lại càng khó coi hơn. Hắn nhếch môi, hồi lâu mới lên tiếng: "En cho hắn ôm?"
"Có ôm một lần."
Ta giơ một ngón tay lên: "Sau đó bị Quế Hoa ma ma phát hiện, ma ma giận lắm. Ma ma nói làm như thế là không đúng, A Ôn cũng thấy vậy nên từ đó về sau em không để ý tới Lưu Xuân công công nữa. Người ông ta thúi hoắc à."
Ta kể xong nhưng sắc mặt thái tôn vẫn chẳng dễ nhìn hơn tí nào, cặp mắt đào hoa sắc bén kia hiện lên chút hung ác, ngay cả hơi thở xung quanh cũng đột nhiên trở nên u ám.
Lòng ta run lên, có hơi chút sợ hãi: "Thái tôn, A Ôn biết sai rồi."
Đôi mắt thâm trầm của thái tôn nhìn chằm chằm vào ta, bỗng hắn lại thở dài, đôi môi khẽ mím lại, lấy một con cua hấp to bằng lòng bàn tay từ trong tay áo ra.
Ta ngạc nhiên mừng rỡ: "Con cua?"
Cái đầu xưa giờ vẫn ngốc nghếch của ta lại bỗng dưng nhớ ra, trước khi tới cung yến ta từng đứng trong thư phòng cẩn thận hỏi thái tôn: "Trong cung yến có cua đúng không?"
Lúc đó thái tôn chỉ "Ừ" một tiếng, vẫn cứ chăm chú đọc sách.
Ta lại hỏi: "Cua có mấy chân?"
Thái tôn chau mày, không kiên nhẫn đặt sách xuống, hắn ghé mắt nhìn ta, ánh mắt kia chứa chút vắng lặng.
Khi ấy bé ngốc đâu còn sợ hắn nữa, đôi mắt vẫn tò mò trừng to lên chờ hắn giải đáp.
Bỗng hắn khẽ cười một tiếng: "Có sáu cái chân, hai cái càng. Tổng cộng là tám cái."
"Tám cái chân luôn á, nó mọc chân giỏi thật đấy!" Ta cực kỳ ngạc nhiên.
Thái tôn khịt mũi, không định để ý đến ta nữa.
Nhưng mà không được mấy phút, ta lại hỏi: "Ăn có ngon không?"
.....
A Ôn sẽ vĩnh viễn nhớ, ngày ấy khi Chu Thừa Dực còn là thái tôn, trên cung yến linh đình người đã giấu một con cua vào trong tay áo mình.
Cung Trọng Hoa vào đêm, đèn đuốc chập chờn lay động, hoàng thái tôn trẻ tuổi dùng những ngón tay thon dài mạnh mẽ của mình bẻ con cua kia ra, gạch cua vàng óng nằm gọn trong lòng bàn tay, hắn giơ tay đưa cho bé ngốc mới mười ba tuổi, người chưa bao giờ nhìn thấy, cũng chẳng từng được ăn cua nếm thử.
Đêm thu nồng nàn, gạch cua thơm nức, bé ngốc khẽ nheo mắt lại, liếm lên bàn tay hắn như một con mèo nhỏ, vẻ mặt tràn đầy thỏa mãn.
Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, hoàng thái tôn lại giơ tay nhéo một cái lên gò má núc ních thịt của nàng.
Xúc cảm của chút thịt được nuôi từ đống điểm tâm trong suốt ba năm qua quả thực vô cùng tốt.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.