Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd

Chương 20:




Tôi nằm trên giường, nhìn lên trần nhà trắng trơn được chiếu sáng bởi ánh đèn đường sáng trắng từ bên ngoài, cảm thấy hoàn toàn tỉnh ngủ. Tôi đang tính toán trong đầu về chi phí cho việc gắn thêm tấm huy hiệu bằng thạch cao trên trần và những cái gờ mái thì một ý nghĩ vụn vặt chợt đến bỗng cắt ngang dòng suy tưởng của tôi. Tôi ngồi dậy, giật mình khi thấy ý nghĩ ấy đến thật gấp gáp và nửa nhận biết rằng ý nghĩ ấy không phải do tôi tự nghĩ đến. Gần như thể có người nào đó đã thì thầm từ sau lưng tôi, giống như một kiểu quảng cáo ngầm. Hãy nhìn vào tấm hình lễ rửa tội trong cuốn album.
Tôi nhanh chóng trượt khỏi giường và chạy ngang phòng trong ánh đèn lờ mờ, chỉ để chợt nhớ ra rằng mình đang ở trong căn hộ cũ với những trần nhà trơn và rằng tôi đã để lại toàn bộ album của Louisa trong ngôi nhà ở phố Tradd. Ðứng ở giữa phòng, tôi nhắm mắt lại, tưởng tượng ra tấm hình chụp Louisa với Nevin trong bộ áo dài mặc cho lễ rửa tội, cố nhớ lại những chi tiết trong ấy. Cả mẹ lẫn con đều sáng ngời, và cả hai đều mặc đồ trắng, sợi dây ren đầy trau chuốt của chiếc áo Nevin đang mặc trải dài lên hai cánh tay của Louisa, che đi hai bàn tay bà ấy. Mái tóc sẫm màu của Louisa được búi cao trên đỉnh đầu, và bà ấy không đeo hoa tai.
Mắt tôi bỗng bừng mở. Bà ấy không đeo hoa tai, nhưng bà ấy có đeo một sợi dây chuyền. Nhảy phóc một bước, tôi với tay định lấy cái điện thoại đặt cạnh giường và cầm ống nghe lên, nhưng lại cúp máy ngay khi tôi nhìn thấy con số điện tử tỏa sáng trên chiếc đồng hồ báo thức, lúc này đã báo ba giờ mười lăm phút sáng. Vốn không phải là người hay tự phân tích cảm xúc của mình, tôi chẳng đắn đo vì sao ý nghĩ đầu tiên của tôi là gọi cho Jack chứ không phải gọi cho ba tôi hay Marc.
Tôi ngồi trên mép giường, toàn bộ ý nghĩ cố ngủ lại giờ đây hoàn toàn biến mất. Tôi nghĩ tôi có thể hoặc là thức trắng đêm và trăn trở, hoặc là sẽ tròng vào người vài món quần áo dài tay rồi hướng ra ngôi nhà trên phố Tradd ngay lúc này. Cuối cùng thì đó là nhà của tôi, và tôi được phép đến hoặc đi bất cứ lúc nào tôi muốn.
Không nghĩ ngợi gì nhiều nữa, tôi chui vội vào quần áo mặc ngoài, đánh răng, rồi trải ga giường lại cho ngăn nắp trước khi bước ra xe. Dòng xe cộ cũng đã vắng, và tôi thấy mình rẽ vào phố Tradd không đầy hai mươi phút sau đó. Ðã có ai đó để đèn sáng cho tôi bên ngoài nhà, cũng như đã bật sáng một ngọn đèn bên cửa sổ dưới nhà để cho ngôi nhà trông không quá tối và như có điềm gở, theo như những gì tôi nhớ từ lần cuối tôi nhìn thấy ngôi nhà. Cứ như thể có người biết rằng tôi sẽ quay trở lại vào đêm nay vậy.
Tôi lướt nhanh nhìn lên những ô cửa sổ trên lầu, cố giữ cho nhịp tim đập chậm lại khi tôi không nhìn thấy hay cảm nhận có bất cứ thứ gì đó đang nhìn lại tôi. Tôi liếc nhìn vào ánh đèn trong ô cửa sổ dưới nhà, nhận thấy rằng nó chiếu ra từ phòng khách ở tầng trệt mà toàn bộ đồ đạc và đèn bàn đã được mang ra ngoài cách đây trên một tháng. Cám ơn bà, Louisa, tôi tự nói với chính mình, cảm thấy thoải mái vì sự hiện diện của bà ấy và vững tâm bước vào ngôi nhà trống hoắc.
Tôi đẩy thanh khóa cổng vườn lên và hướng về những bậc thang dẫn lên hành lang mái vòm, ngửi thấy mùi sơn mới và để ý thấy những viên gạch bị mất giờ đây đã được thay mới. Tôi mở khóa cửa trước, hài lòng khi nghe những tiếng bíp bíp của hệ thống báo trộm và nhập mã số 1-2-2-1 vào hệ thống.
Ngôi nhà đang say ngủ thật lặng yên và tĩnh mịch, chỉ có tiếng động duy nhất là tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc, nghe như nhịp tim đập trong lồng ngực. Tôi bước vào sảnh chính, bật đèn lên, để ý thấy cái giàn giáo cùng những tấm vải bạt lót sàn đã được dỡ đi. Trong một thoáng tôi nghĩ rằng đó là vì công việc đã bị bỏ dở. Và sau đó tôi lại thấy lớp giấy dán tường đã không còn rũ xuống nữa, còn các cột đều ánh lên màu sơn mới. Tò mò, tôi bước về hướng phòng khách và thấy bộ đèn chùm to đang yên vị ở chỗ cũ trên trần nhà được trang trí công phu, những miếng pha lê của nó thật sạch sẽ và lấp lánh, phản chiếu ánh đèn đường từ bên ngoài.
Tôi xoay nhìn xung quanh căn phòng, hít ngửi mùi sơn mới và nhìn sàn gỗ dưới chân lấp lánh với lớp sáp và sơn mới bóng lộn, nhớ có lần Chad đã nói với tôi rằng anh ta là người có nghề với chiếc máy chà sàn gỗ chạy điện. Rõ ràng, công việc trùng tu vẫn tiếp diễn trong khi tôi vắng mặt, với Sophie, Jack, và Chad, sử dụng bất cứ nguồn lực nào mà họ có thể tìm. Tôi thật xúc động nhưng cùng lúc lại cảm thấy buồn, có ý nghĩ kỳ quặc là ước gì mình đã tham gia một phần trong ấy.
Tôi xoay người và đi lên lầu, chân tôi đá phải vật gì mềm mại khiến nó lăn lông lốc trên sàn nhà bóng lộn. Ðó là một con chó nhồi bông, lông nâu đốm đen, với đôi tai nhọn hình tam giác cùng một cái đuôi dài và to. Cái đuôi của nó có vẻ như đã bị gặm, và tôi nghĩ không biết có phải ai đó đã mua nó làm đồ chơi cho Ðại tướng Lee hay không. Trên bàn tay của con chó nhồi bông có một cái nút đỏ với dòng chữ Bấm vào Tôi, thế là tôi làm thế và được nghe con chó gào lên “gâu gâu”. Rõ là cuộc sống vẫn tiếp diễn trong ngôi nhà này mà không có tôi, trong đó những người bạn của tôi sửa chữa ngôi nhà và thậm chí còn mua đồ chơi cho con chó của tôi nữa. Toàn bộ những việc này đã xảy ra mà không hề có sự tham gia của tôi, hay thậm chí tôi cũng đã không hề biết đến. Như thể, mọi người đều được mời đi dự tiệc sinh nhật, còn tôi thì không.
Những ý nghĩ này thật là xuẩn ngốc, tôi nghĩ thế rồi đặt con chó lên bậc thang đầu tiên và leo lên lầu bước về phòng ngủ của mình. Tôi do dự trong một giây rồi vặn nắm cửa và bước vào, nhẹ nhõm vì nhiệt độ trong phòng vẫn ấm cho thấy ở đây chỉ có mình tôi. Tôi liếc nhìn về chồng album đặt trên bàn trang điểm, nơi tôi đã đặt chúng lên lần trước, trong đó cuốn album mà tôi giở xem lần cuối cùng - với tấm hình lễ rửa tội của em bé - đang nằm trên cùng. Khi chợt nhớ ra là mình không mang theo găng tay thì đã quá muộn, thế là tôi với tay cầm lấy cuốn album, cảm giác châm chích vì sự tiếp xúc với cuốn album mang lại bắt đầu xộc lên hai cánh tay tôi. Tôi bước về giường và ngồi xuống, mở cuốn album ra và đặt trên đùi.
Tôi bắt đầu ngửi thấy mùi cỏ thơm và hương hoa nhài Carolina của mùa hè, và tôi bỗng cảm nhận được cảm giác mềm mại của lớp đất mùn dưới bàn chân mình khi tôi vươn người đẩy chiếc xích đu bằng gỗ. Những tiếng cười đùa trẻ thơ mềm nhẹ như những bong bóng xà phòng đơm đầy căn phòng cùng với bầu không khí ấm nóng của mùa hè, bất giác tôi cảm thấy mình đang mỉm cười mặc dù gương mặt tôi hoàn toàn bất động. Một người đàn ông to cao với mái tóc sẫm màu đang đứng đối diện với tôi, tay cầm chiếc máy ảnh Brownie. Tôi cảm nhận được sợi dây thừng qua lớp găng tay bằng da dê của mình khi tôi nhẹ nhàng dừng chiếc xích đu lại để chúng tôi có thể cùng nhau nhìn vào chiếc máy ảnh. Người đàn ông bảo chúng tôi mỉm cười và chúng tôi làm thế, bắt kịp được sự hoàn hảo tuyệt đẹp của một ngày hè.
Tôi nhìn xuống và lại thấy cuốn sổ nháp, bàn tay với những ngón dài mà tôi đã quen nhìn nhón lấy cây bút máy và nó bắt đầu di chuyển sột soạt trên trang giấy.
Ngày 31 tháng 8, năm 1929
Anh Robert yêu dấu của tôi bắt đầu trở nên nghiện chụp hình giống như tôi, và anh ấy không thể cưỡng lại được việc chụp hình tôi cùng đứa con trai Nevin yêu dấu của chúng tôi. Tôi chẳng màng, bởi vì tôi không thể tưởng tượng được, chụp hình con trai của chúng tôi bao nhiêu thì mới đủ. Tuy nhiên, tôi đã cho rằng chúng tôi đã có khá nhiều hình của tôi rồi, nhưng Robert vẫn cứ nằng nặc đòi chụp thêm và tôi đã chiều lòng anh ấy. Anh ấy thật tốt với tôi và con trai, và luôn khẳng định rằng việc bạn bè và hàng xóm chúng tôi gặp khó khăn trong việc làm ăn cũng như rất nhiều các ngân hàng đang phải đóng cửa sẽ không ảnh hưởng gì đến chúng tôi. Nhưng tôi thì rất lo, bởi vì tôi có cảm giác rằng tình hình khó khăn này đã đẩy Robert vào hoàn cảnh phải làm ăn chung với những hội nhóm mà anh ấy sẽ không hề muốn dây dưa vào trước đây, nhưng tôi cũng tin rằng anh ấy sẽ lèo lái cả gia đình ra khỏi cơn sóng gió này. Dù sao thì, anh ấy cũng là một người con của dòng họ Vanderhorst, cũng như tôi bây giờ, và đây chỉ là một việc vặt vãnh so với những gì tổ tiên chúng tôi đã phải đương đầu, và những hy sinh mất mát mà họ đã buộc phải làm để có thể giữ gìn ngôi nhà tuyệt đẹp cho chúng tôi trên phố Tradd này.
Tôi đẩy cuốn sổ nháp ra khỏi đùi cho lên giường, cảm thấy nhẹ nhõm khi được chui lại vào cơ thể của chính mình. Rồi tôi dùng một góc của tấm trải giường mà lật qua các trang album chứa đầy hình của Louisa và Nevin, thêm vài tấm nữa cũng vẫn là hình ngôi nhà và khu vườn và thậm chí có vài tấm hình của Robert, cho đến khi tôi dừng lại khi thấy tấm hình lễ rửa tội. Có thể đây chỉ là sự tưởng tượng của tôi, nhưng lần này tôi có cảm giác nét mặt của Louisa không được tươi rạng như trước. Như thể bà ấy đang nhìn vào tôi từ phía sau máy hình, một sự tha thiết nào đó nằm sau đôi mắt ấy của bà khiến tôi phải nhìn gần hơn.
Tôi nhíu mắt lại trong khi đẩy người lên phía trước, xem kỹ sợi dây chuyền với hạt đá quý khổng lồ vòng quanh cổ bà. Jack nói đúng. Tôi lại nhìn lần nữa, chỉ muốn khẳng định lại, nhưng bây giờ tôi đã biết mình đang tìm gì, rõ ràng viên đá quý treo vòng quanh cổ Louisa là một viên kim cương được cắt rất công phu và sáng lấp lánh.
Tôi tìm điện thoại để gọi cho Jack, tự cho rằng bây giờ ít nhất đã là rạng sáng, chợt nhớ ra rằng anh thợ làm ống nước cần đặt điện thoại ở khu vực khác của ngôi nhà. Túi xách của tôi, cùng với điện thoại bên trong, đã được đặt trên chiếc bàn ở hành lang, là nơi tôi đã thả nó xuống khi vừa bước vào nhà.
Mẹ kiếp, tôi lẩm bẩm rồi cúi người xuống và liếc nhìn đồng hồ. Những con số có dạ quang sáng nhẹ chỉ bốn giờ mười ba phút. Chẳng hề gì. Tôi cần phải gọi cho Jack, và tôi chẳng muốn trì hoãn việc này thêm hai tiếng nữa. Tôi chớp mắt, tự nhủ không biết có phải vì kiệt sức nên thị giác tôi đã mờ đi chăng. Tôi thở hắt ra, một luồng không khí trắng toát che phủ không gian trước mặt và tôi rùng mình vì cái lạnh đột ngột ấy.
Mệt rã rời, tôi cố bước về phía cửa, đi ngang qua chiếc bàn trang điểm với chiếc gương to bên trên. Có cái gì đó vừa chuyển động gần chiếc gương khiến tôi xoay vòng người lại để nhìn, và hơi trong phổi tôi bỗng phụt mạnh ra đường miệng và tạo thành một lớp sương trắng đục. Ta mạnh hơn ngươi. Ta mạnh hơn ngươi.
Một cái bóng đen mang dáng dấp một người đàn ông nhìn tôi chằm chằm từ chiếc gương. Hắn đứng sau lưng tôi, và nếu khi ấy tôi có thể chuyển động, tôi sẽ có thể vươn tay ra sau và sờ được vào hắn. Những đường nét trên mặt hắn trông không rõ lắm, đôi mắt hắn bị che khuất bởi cái bóng của cái mũ rộng vành hắn đang đội. Cái ác tỏa ra từ người hắn như ánh sáng được phản chiếu trong một cái giếng sâu hút và tối đen. Tôi nín thở, chẳng muốn cho hắn thấy rằng tôi đang sợ.
Cái bóng trong gương của hắn bắt đầu lung linh mờ ảo như thể khi tôi đang nhìn chằm chặp vào cái ao thì có ai đó thả xuống đấy một hòn sỏi, khiến cho hình ảnh ấy trở nên méo mó dị dạng và càng trông gớm ghiếc hơn. Tôi mở miệng ra để la lớn, nhưng tôi chỉ có thể ho sù sụ vì vừa hít vào họng mùi khói cay nồng. Chùm đèn chính trong phòng chớp chớp một lần, hai lần, rồi dần chuyển sang lờ mờ như thể có ai đó đang dùng một cái khăn vải đen và chầm chậm bao bọc lấy những cái bóng đèn trên ấy. Và rồi chúng tắt phụt hoàn toàn.
Tôi quẳng mình về phía cửa phòng, suy nghĩ đầu tiên của tôi khi ấy là trước hết phải chạm vào tay nắm cửa để xem nó có nóng hay không rồi mới vặn mở cửa ra. Những làn khói mỏng luồn qua hành lang trên lầu như những đám mây của bầu trời đêm, mang theo mùi vị cay xè luồn cả vào mũi và họng tôi. Tôi lại ho sằng sặc và cố kéo gấu áo đang mặc lên và bịt mũi lại để có thể dễ thở hơn.
Tôi lại liếc qua những thanh vịn cầu thang và nhìn xuống đại sảnh bên dưới nhà và thấy rằng những cuộn khói dày và đen hơn đang tuồn ra từ phía sau nhà, hướng từ nhà bếp. Chạy nhanh xuống cầu thang, tôi cảm nhận hơn bao giờ hết sự tĩnh mịch dễ sợ của ngôi nhà vào lúc này, ngoại trừ tiếng lách tách và tiếng nổ nhẹ của lớp nhựa cứng và gỗ đang cháy từ bếp cùng với tiếng tích tắc không ngớt của chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách chính. Hệ thống báo cháy, vốn được nối trực tiếp vào đường điện thoại của trạm cứu hỏa, hoàn toàn yên lặng.
Lúc này tôi bắt đầu ho sặc sụa và há hốc mồm cố hít thở, tôi ngã nhào vào cửa trước, chẳng muốn để sự hoảng loạn khiến tôi phải đầu hàng và cố tìm cách mở khóa những cái then cửa một cách khoa học. Sau khi biết chắc rằng tôi đã mở hết các lớp khóa, tôi vặn nắm cửa và kéo cửa ra. Cánh cửa vẫn nằm im. Giờ thì tôi lại di chuyển nhanh hơn và kiểm tra toàn bộ các lớp khóa cửa một lần nữa để biết chắc rằng chúng đã được rút hết chốt và cố kéo cửa ra một lần nữa. Cánh cửa hoàn toàn kẹt cứng, không hề nhúc nhích như thể có ai đó đang cố kéo cho nó đóng lại từ phía bên kia.
Mắt tôi bắt đầu nổ đom đóm, và tôi nhắm nghiền mắt lại để xua những cái đốm ấy đi, rồi lại mở bừng mắt ra chỉ để thấy rằng chúng chỉ muốn được nhắm lại biết bao. Tôi lại kéo mạnh cửa một lần nữa, rồi tuột xuống cửa chính và quỵ xuống gối. Há họng cố hớp lấy hơi, buồng phổi của tôi giờ đây đang khao khát cần có ôxy hơn bao giờ hết, nhưng làm thế thì tôi lại chỉ có thể thở gấp rút mà thôi. Những cái đốm lại tiếp tục nhảy múa trước mắt tôi, giống như cái quả lắc trong tay nhà thôi miên đang khẩn nài tôi hãy thiếp ngủ.
Tỉnh dậy nào, Melanie. Sẽ có người đến giúp. Tôi cố ép cho mắt mình mở to ra, không biết có phải tôi đã thực sự nghe tiếng của người đàn bà ấy hay chỉ vì khói đen đã len lỏi vào não của tôi nữa. Bám chặt vào nắm cửa, tôi gắng hết sức để đứng dậy, cảm thấy có hai bàn tay nhỏ trên lưng mình như thể đang cố đỡ tôi lên. Lảo đảo, tôi quay lại nhìn sau lưng, rồi lạnh cứng người khi chỉ thấy bóng đen của một người đàn ông đang bay lượn phía sau làn khói trong phòng khách, những tia sáng li ti đỏ rực hắt ra từ hai hốc mắt của hắn.
Tôi lại giật mạnh cánh cửa hơn nữa, nhưng lúc này tôi bắt đầu khóc, cảm thấy sự tuyệt vọng lẫn hoảng loạn đang dần đánh ngã gục tôi. Kiệt sức, tôi buông tay ra khỏi chiếc nắm cửa và lại trượt xuống cái cửa một lần nữa, mắt đã cứng đơ vì buồn ngủ và không thể nào cố gắng thêm nữa. Tôi biết rằng nếu tôi cứ thiếp ngủ, thì mọi thứ sẽ bình yên.
Tôi mơ màng nghe thấy tiếng còi hụ từ xa và dần dần ầm ĩ lên. Ðầu tôi nặng trĩu ngoài sức tưởng tượng, giờ đây đã gục xuống ngực, và tôi chẳng còn màng đến ngôi nhà hay đám khói đen, thậm chí cả tiếng người đàn bà ấy không ngớt gọi tên tôi, bảo tôi hãy tỉnh lại.
Một vật gì đó cưng cứng vừa gõ vào hông tôi, cùng lúc tôi cảm nhận một làn gió lạnh mơn man trên mặt. Tôi rên ư ử và cố nhớ ra xem cái hông của mình nằm ở đâu để tôi có thể xoa vào nó.
“Melanie? Melanie? Cô có ở đây không?”
Có một vật thể rắn nào đó, rất có thể là một chiếc giày, thọc mạnh vào mạn sườn tôi và rồi tôi cảm nhận những ngón tay ấm áp đang chạm vào da mặt mình. Cảm giác ấy thật thích, và tôi cố xoay mặt lại những ngón tay đang tìm kiếm ấy, giả vờ như đó là những ngón tay của Jack dù trong lòng biết rằng không phải thế. Anh ta sẽ không chạm vào tôi bằng cách ấy. Trừ phi anh ta nghĩ rằng tôi là Emily. Tôi lại rên rỉ và cố lăn ra khỏi anh ta.
Và rồi đôi cánh tay khỏe mạnh đang nhấc bổng tôi lên. Tôi chống cự người đang cứu tôi, chỉ muốn được cuộn lại trong cái kén ấm áp nơi tôi có thể ngủ vùi cùng với cảm giác thanh thản dịu êm mà nó đã mang lại cho tôi khi nãy. Tiếng còi hụ lúc này đã to hơn, và tôi cố đưa hai tay lên áp vào tai để ngăn tiếng ồn ấy lại và như thế tôi sẽ có thể tiếp tục ngủ, nhưng hai bàn tay tôi giờ đây đã nặng như chì, còn hai cánh tay thì mềm nhũn như những cái ống cao su và chúng không còn được gắn vào cơ thể của tôi nữa.
Những cọng cỏ lạnh lẽo và đầy gai châm chích vào da khi tôi được đặt xuống đất trong khu vườn, và tôi tự nhủ đây sẽ là một nơi thật đáng yêu để họ chôn cất tôi - nơi đây giữa những khóm hồng và bụi hoa trà, nơi mỗi năm sẽ có mùi hương ngọt ngào của hoa lài nhắc nhở tôi rằng xuân đã về.
“Melanie, cô có nghe tôi không? Melanie, tỉnh dậy. Tôi đây - Jack đây.”
Jack. Tôi muốn mở mắt ra để được nhìn thấy anh lần nữa, để được chiêm ngưỡng đôi mắt xanh tuyệt đẹp của anh cùng với tia sáng tinh quái trong ấy mà tôi nghĩ rằng sẽ còn sáng hơn kể từ khi chúng tôi gặp gỡ lần đầu. Tôi cảm thấy Emily đang ở gần, và Louisa cùng với đôi bàn tay nhỏ nhắn của một đứa bé đang nắm lấy tay tôi như thể đang cố kéo tôi xuống lớp cỏ để tôi không thể bay mất vào bầu trời đêm.
Mở mắt ra nào, Melanie. Ðó là tiếng nói của bà ngoại tôi, và ước muốn mãnh liệt được nhìn thấy bà khiến tôi đã mở mắt ra lại. Nhưng không phải là tôi đang nằm dưới đất và nhìn lên trời, mà là tôi đang bay lơ lửng trên không trung, nhìn xuống tôi và Jack bên dưới, và đứng bao quanh chúng tôi là một đám đông mà tôi không biết mặt - ngoại trừ một quý ông đứng ở hàng đầu, một sĩ quan kỵ binh miền Nam đang đứng nghiêm trang với chiếc mũ được cặp sát vào ngực trái.
Bà ngoại đang quỳ xuống cạnh đầu tôi, tay bà đặt lên trán tôi, nhưng bà lại nhìn lên tôi ở bên trên và lắc đầu. Chưa đến lúc cháu phải đi, cháu yêu à. Cháu cần phải quay về khu vườn của bà và ăn bánh uống trà với mẹ cháu lần nữa. Mở mắt ra, Melanie. Mở mắt ra.
Tôi cũng thấy Louisa nữa, tôi nhận ra bà ấy bởi chiếc váy bà đang mặc và sợi dây chuyền kim cương đeo trên cổ. Bà đang quỳ gối ở phía trước chiếc đài phun nước, vén lớp cỏ vạt qua một bên như thể muốn để lộ ra cái gì đó vòng quanh chiếc bệ, và tôi nhìn thấy những chữ số La Mã mà Jack và tôi đã từng nhìn thấy trước đây.
Tôi nhìn Jack quỳ gối bên cạnh tôi, và tôi cảm nhận làn môi ấm của anh trên môi mình. Và rồi anh thổi mạnh vào miệng tôi, hơi thở của anh được truyền vào cơ thể tôi, cảm giác ấy giống như thủy triều lên trên dải cát khô cằn, tưới mát những phần trong cơ thể tôi vốn đã héo hắt từ rất lâu. Tôi nhắm mắt lại, biến mất vào làn hơi ấm của Jack, cảm giác như mặt trời vừa tan chảy vào đại dương đêm.
Và rồi tôi mở mắt ra, và khi ấy chỉ có Jack và tôi trong khu vườn hồng của Louisa, mặt của anh đang kề sát mặt tôi, môi tôi vẫn còn vương vấn hương vị từ làn môi của Jack.
“Tạ ơn Chúa,” anh nói, ngả đầu lên trán tôi, hơi thở của anh gấp gáp.
Tôi hít đầy hơi vào buồng phổi của mình, như thể để biết chắc rằng tôi vẫn còn có thể làm việc ấy, rồi ho mạnh cố tống hết làn khói cháy ra ngoài. Rồi tôi tập trung nhìn vào mặt Jack và mỉm cười với anh. “Việc này không được tính là một nụ hôn thứ hai đấy nhé.” Giọng của tôi nghe lạ hoắc, như thể những ngôn từ này vừa được chà xát bằng giấy nhám.
Và rồi Jack mỉm cười lại với tôi, đôi mắt anh thật sáng và ấm áp, và khi ấy, tôi biết rằng mọi việc rồi sẽ bình an.
***
Họ bắt tôi phải ở lại qua đêm trong bệnh viện để chữa cho tôi vì đã hít quá nhiều khói cũng như để theo dõi tình hình sức khỏe của tôi. Ba tôi, Jack, Sophie, và thật ngạc nhiên, cả Chad nữa, đã ở lại trong phòng chờ cả đêm qua, và vây quanh tôi vào buổi sáng ngay khi mặt nạ dưỡng khí của tôi vừa được tháo ra. Tôi biết theo chính sách của bệnh viện thì không được phép tiếp nhiều khách cùng một lúc như thế này, và tôi đoán rằng Jack đã quyến rũ những cô y tá khiến họ phải đồng ý, nhưng tôi thật ngạc nhiên khi Jack bảo rằng toàn bộ công lao ấy là của ba tôi, người mà theo tôi nghĩ hẳn đã cư xử với nhân viên y tế như thể họ là những lính mới.
Chad và Sophie chỉ ở lại trong chốc lát để xem tôi có ổn hay không trước khi Chad phải về để cho Ðại tướng Lee ăn sáng và đưa nó đi ra ngoài. Tôi nhìn và cảm thấy thật thú vị khi Sophie ra về với Chad, lảm nhảm một lý do không đâu vào đâu là nó muốn mượn tấm đệm tập yoga của anh chàng. Rồi nó hôn lên trán tôi, chiếc dây đeo cổ bằng vải gai của nó làm tôi nhột sống mũi, và nó hứa với tôi rằng nó sẽ bói bài cho tôi ngay khi tôi được xuất viện. Rõ ràng, bọn tôi đã bỏ qua một cái gì đó rất lớn, và nó sẽ không bao giờ để cho việc ấy xảy ra lần nào nữa.
Tôi kéo tay nó. “Còn một việc nữa. Còn nhớ chiếc hộp của ông nội mình để lại mà ba mình tìm thấy hay không? Nó có một cánh hoa hồng héo trong ấy. Bọn mình nghĩ rằng đó có thể là hoa hồng Louisa, và bọn mình hy vọng cậu có biết ai đó trong trường có thể giúp nhận diện nó giúp mình. Mình để nó trong xe đậu trước nhà vì mình định mang nó đến cho cậu vào sáng nay.”
Nó vỗ nhẹ vào bàn tay tôi. “Ðừng lo lắng gì cả. Mình vẫn còn giữ chìa khóa xe sơ-cua của cậu khi cậu đi nghỉ mát hồi cách đây ba năm. Mình sẽ đi lấy chìa khóa và xem mình có thể làm gì.”
Sophie và Chad vừa đi khỏi thì Jack kéo ghế đến sát đầu giường. “Này, Melanie, chuyện gì đã xảy ra đêm qua hả?”
Tôi đã tường thuật câu chuyện của mình cho cảnh sát và thậm chí tôi còn cảm thấy ngạc nhiên vì nó đã trở nên thật ngắn và đơn giản. Giọng tôi vẫn còn khô và khàn khi tôi nói. “Tôi đang ở trên lầu thì ngửi thấy mùi khói. Rồi tôi đi xuống nhà dưới và không mở cửa ra được - tôi nghĩ khói đã làm đầu óc tôi mụ mị, và có lẽ khi ấy tôi đã không mở hết các chốt cửa ra. Tôi ngất xỉu trên sàn nhà ngay trước cửa cho đến khi anh đến và đưa tôi ra ngoài.”
Ba tôi siết chặt bàn tay tôi. “Con thật là một đứa may mắn. Có lẽ con không nhớ, nhưng bằng cách nào đó con đã kịp gọi cho trạm cứu hỏa và cho Jack trước khi con ngất xỉu.”
Tôi nhìn Jack. “Tôi chẳng gọi cho ai cả. Trong phòng tôi không có điện thoại, và tôi đã để điện thoại trong túi xách ở dưới nhà.”
Tôi thấy ba tôi và Jack đang liếc nhìn nhau trước khi Jack tiếp tục nói. “Ông đội trưởng trạm cứu hỏa nói với tôi rằng cuộc gọi đến từ bên trong ngôi nhà và người gọi là một phụ nữ - một phụ nữ không xác nhận danh tính của mình.”
Ba tôi cúp hai bàn tay vào nhau. “Có lẽ là con quên. Có lẽ con đã gọi trước từ phòng khác trước khi con đi xuống nhà dưới. Cũng không ngạc nhiên lắm khi trí nhớ của con giờ đây hơi bị mơ hồ. Hít khói vào phổi là việc khá nghiêm trọng mà.”
Tôi quay sự chú ý sang Jack. “Nhưng ai đã gọi cho anh? Anh có nhận ra giọng của tôi không?”
Xương hàm của Jack hơi bạnh ra. “Thật ra, không ai nói gì cả. Ai đó đã gọi liên tục và liên tục, cúp máy khi tôi trả lời, và rồi lại gọi nữa. Nhưng đó là số di động của cô. Tôi biết vì tôi đã lưu số của cô vào máy, và tên cô cứ xuất hiện mỗi lần gọi.”
“Thấy không, Melanie? Chắc chắn là con đã gọi những cuộc gọi ấy trước khi con ngất xỉu.” Ba tôi vỗ nhẹ lên bàn tay tôi nhưng tôi có thể nói rằng ông ấy không hoàn toàn bị thuyết phục lắm.
“Ngôi nhà có sao không? Có thiệt hại nặng nề không?” Bản thân tôi thậm chí cũng cảm thấy ngạc nhiên vì câu hỏi này. Cách đây cũng không lâu lắm, tôi đã từng nghĩ rằng nếu ngôi nhà bị thiêu rụi thì việc ấy sẽ giải quyết toàn bộ các vấn đề của tôi.
Jack lắc đầu. “Cũng không thiệt hại gì đáng kể. Ông đội trưởng nói rằng ngọn lửa bắt ra từ phòng bếp, có lẽ là do lỗi mắc đường dây điện, và họ đã đến nơi kịp thời để ngăn chặn cơn hỏa hoạn. Phòng bếp bị hư hại khá nặng - mà cũng không phải là việc xấu bởi vì dù sao thì nó cũng cần được tháo dỡ thôi - và cũng không có nhiều hư hại do khói gây ra cho phần còn lại của ngôi nhà bởi vì hầu hết các tấm thảm, đồ gỗ, và các bức tranh treo tường đã được mang đi. Ông ấy nói cô có thể quay lại ngôi nhà sau hai ngày - để chờ cho khói và hơi độc tỏa hết ra ngoài - nhưng bà Houlihan thì phải đi tìm một phòng bếp mới.”
Tôi chau mày. “Ông ấy có biết vì sao mà hệ thống báo cháy không hoạt động không?”
“Không. Và ông ấy đã có kiểm tra và xác nhận rằng chúng đã được đi dây đúng cách và pin dự phòng cũng hoạt động tốt. Tôi có gọi cho công ty lắp đặt hệ thống báo cháy đến kiểm tra vào ngày mai. Nhưng hiện thời thì việc này quả là hơi khó hiểu.”
“Tin tốt,” ba tôi nói và duỗi người ra, “là chúng ta sẽ có thể yêu cầu bảo hiểm bồi thường thiệt hại cho nhà bếp. Ba nghĩ cuối cùng thì bà Houlihan sẽ có thể tạo ra nhà bếp trong mơ cho mình. Nhưng ba phải cảnh báo con trước nhé, bà ta rất mê đá granite và thép sáng đấy.”
Tôi lại nhìn Jack, lúc này đang chau mày nhìn xuống tôi. “Mà cô đang làm gì ở ngôi nhà vào lúc ấy, Melanie? Khi tôi đưa cô về căn hộ của cô, tôi cứ nghĩ cô sẽ đi ngủ ngay.”
“Tôi cũng nghĩ thế đấy. Nhưng rồi tôi lại nhớ một điều gì đó mà tôi đã thấy ở một trong những album ảnh của Louisa. Một bức hình chụp bà ấy và Nevin. Khi ấy tôi đang nằm trên giường, và bỗng nhiên tôi lại nhớ đến tấm hình ấy.”
Tôi đảo mắt nhìn Jack rồi sang đến ba tôi rồi tiếp tục nói. “Trong ấy, Louisa đang đeo một sợi dây chuyền mà Robert tặng bà ấy. Và dường như có một hạt kim cương thật lớn treo trên sợi dây chuyền ấy.”
Ba tôi có vẻ cảnh giác. “Những cuốn album ấy có bị cháy không con?”
Tôi lắc đầu. “Con để chúng trong phòng ngủ, cho nên chúng đã được an toàn. Sau này chúng ta có thể đi xem nó.”
Jack dựa gần hơn vào tôi. “Cô biết việc này có ý nghĩa gì, phải không? Rằng ít nhất chồng bà ấy đã có biết về những viên kim cương, và không chỉ biết về chúng mà còn nắm giữ chúng trong tay nữa.”
Tôi chợt nhớ ra một việc nữa mà tôi đã từng thấy trước đây trong album mà chẳng nghĩ rằng nó đủ quan trọng để kể cho Jack. Cho đến bây giờ. “Jack này, anh có biết tên lót của Joseph Longo là gì không?”
“Ðúng là tôi có biết. Ðó là cái tên của gia tộc mà họ dùng trong mỗi thế hệ.” Anh cười khẩy một tí. “Ðó là Marc.”
JML. “Vậy thì, rất có thể là, Joseph Longo đã có biết rằng dòng họ Vanderhorst biết những viên kim cương ấy ở đâu. Ông ta đã gửi cho Louisa một mảnh báo có tấm hình chụp bà ấy. Trên mảnh giấy báo này không viết gì cả - nó chỉ được xếp lại gửi kèm với danh thiếp có ghi tên viết tắt của ông ta.”
“JML.” Jack nhìn vào mắt tôi, và tôi thách anh ta dám nói bất cứ điều gì về việc Marc biết về vụ này nhưng may sao anh chỉ yên lặng. Anh chống hai khuỷu tay lên đầu gối, rồi chĩa những ngón tay lên cao. “Vậy thì, bây giờ vụ việc lại trở nên hấp dẫn đây.”
Ba tôi đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại, lưng rướn thẳng, như thể ông ấy đang kiểm duyệt quân sự. “Hãy xem lại những gì chúng ta đã biết. Huyền thoại về những viên kim cương có thể chỉ là một huyền thoại bởi vì chúng ta có một thứ gần như là bằng chứng về sự tồn tại của chúng - dưới dạng một sợi dây chuyền trong tấm hình chụp Louisa Vanderhorst. Rõ ràng là Joseph Longo - hoặc bất kỳ ai đã gửi mảnh giấy báo ấy - cũng đã nhận ra điều này, và muốn dòng họ Vanderhorst biết rằng hắn ta đang theo dõi vụ ấy. Chúng ta cũng biết rằng Longo đã có ảnh hưởng rất sâu đậm trong phi vụ kinh doanh rượu lậu vào thời ấy, và Jack cũng phát hiện rằng đồn điền Magnolia Ridge có vài cái lò chưng cất rượu và do đó Vanderhorst có thể hoặc là một đối thủ cạnh tranh trong ngành hoặc là một đối tác của Longo. Chúng ta biết rằng dòng họ Vanderhorst không hề gặp phải khó khăn tài chính nào trong suốt thời Ðại khủng hoảng - có thể nhờ vào những viên kim cương ấy, hoặc nhờ vào những doanh nghiệp làm ăn phi pháp của ông ta. Hoặc có thể nhờ cả hai. Dù là gì đi nữa, ba không thể tưởng tượng nổi ông Longo có thể vui vẻ mà để cho ông Vanderhorst không chỉ sở hữu những viên kim cương danh tiếng của miền Nam ấy, mà còn khoắng cả vào lĩnh vực làm ăn mà ông ta cho rằng là lãnh địa của riêng mình.”
“Và đừng quên Louisa,” tôi nói. “Con nghĩ rằng việc Joseph mất bà ấy vào tay Robert Vanderhorst sẽ mang tính hận thù cá nhân hơn bất cứ thứ gì liên quan đến tiền bạc.”
Ba tôi gật đầu. “Cứ cho rằng ông ta đã thật sự mất Louisa. Có lẽ bà ấy lấy Robert chỉ để tìm hiểu về những viên kim cương cho Joseph, rồi bỏ trốn với Joseph và mang theo những viên kim cương ấy.”
“Không,” tôi nói. “Con nghĩ việc ấy cũng là một khả năng, nhưng con biết đó không phải là sự thật.”
Cả hai người đều nhìn tôi như đang chờ đợi một lời giải thích, nhưng tôi chỉ im lặng. Tôi không thể giải thích cho họ hiểu rằng tôi đã được lồng ghép vào cơ thể của Louisa như thế nào mỗi khi tôi sờ tay vào những cuốn album của bà ấy, cảm nhận được tình yêu vô bờ bến của bà ấy dành cho con trai, cho chồng bà, và cho ngôi nhà của họ. Việc này còn khó hơn cả việc làm sao tôi có thể giải thích cho họ rằng đêm hôm trước tôi đã thoát xác và đã nói chuyện với bà ngoại của mình.
Jack nhìn vào đồng hồ đeo tay của anh. “Tạm thời chúng ta cứ nghĩ kỹ về việc này, sau đó sẽ thảo luận sâu hơn.” Anh quay qua nhìn tôi. “Cô sẽ được xuất viện trong vòng nửa tiếng. Nếu cô muốn, tôi sẽ quanh quẩn chờ ở đây và đưa cô về căn hộ.”
Tôi biết rằng còn việc gì nữa mà anh cần nói với tôi - một việc gì đó anh không muốn ba tôi nghe thấy. “Ðược,” tôi nói. “Tôi thật sự cám ơn anh. Nhưng còn việc đi gặp ông Sconiers sáng nay thì sao?”
Ba tôi đứng lên, rõ ràng đã hiểu ngầm ý của tôi. “Ba sẽ tự đi gặp ông ấy. Ba đang giữ cuộn phim, hy vọng đến tối nay thì ba sẽ có câu trả lời.” Ông cúi xuống và hôn tôi, và tôi xúc động khi thấy mắt ông ươn ướt. “Ba thật mừng vì con không bị làm sao cả, con gái yêu ạ. Khi nãy con làm ba sợ lắm.” Ông lại hôn tôi lần nữa. “Ba đã gọi cho mẹ con để cho bà ấy biết là con không sao. Bà ấy sẽ rất lo lắng khi đọc tin này trên báo.”
Tôi thấy mềm lòng khi ông xưng hô với tôi như khi tôi còn là cô gái bé bỏng. “Không hề gì, ba à,” tôi nói và siết chặt bàn tay ông.
Ông chào tạm biệt và rời khỏi phòng, sau đó bác sĩ đến để cho tôi xuất viện, và trong vòng một tiếng đồng hồ sau đó, tôi đã ngồi trong chiếc Porsche của Jack. Một sự im lặng nặng nề bao trùm lấy chúng tôi.
Giọng của Jack nghe có vẻ gượng ép và quan tâm lo lắng một cách không tự nhiên. “Có lẽ khi về đến nhà thì cô sẽ muốn ngủ cả ngày cho lại sức phải không.”
Nghĩ đến việc hai lá phổi của tôi đã nuốt vào cả một quả bom đầy khói nhưng tôi lại cảm thấy khỏe mới lạ. “Thật ra, tôi muốn quay lại phố Tradd. Tôi cần phải... tôi muốn...” Tôi ngưng lại khi nhận thấy mình định nói rằng Tôi muốn biết chắc rằng ngôi nhà vẫn ổn. Và việc này hoàn toàn không liên quan gì đến những viên kim cương còn ẩn nấp đâu đó. Ðiều tôi quan tâm là, ngôi nhà này cùng với toàn bộ đồ đạc bên trong của nó, cùng với tất cả những sự kiện lịch sử đã sống cùng nó, giờ đây đã là của tôi. Chẳng phải là tôi sở hữu gì nó - thật ra tôi cho rằng chẳng ai thật sự sở hữu một ngôi nhà cổ cả, nhưng tôi là người quản gia và tôi cần phải biết chắc rằng tôi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình trong phạm vi ấy.
“Tôi hiểu,” Jack nói, và tôi mỉm cười nhìn ra cửa sổ xe để anh không nhìn thấy, và tôi biết rằng anh đã thực sự hiểu.
Anh đậu xe sát vỉa hè ngay sau xe của tôi, vẫn còn nằm ở chỗ tôi đã đậu vào ngày hôm trước. Những dải băng cảnh sát màu vàng đang bay phấp phới sau ngôi nhà, nơi đã từng là nhà bếp, còn khu vườn mà ba tôi đã và đang chăm sóc giờ đây đã bị giẫm nát và đảo lộn, nhưng bằng cách nào đó vẫn đẹp vẻ đẹp hoang dại của nó. Những khóm hồng ấy, với vài bông hoa vẫn còn kiên trì đung đưa trên cuống của chúng mặc dù giờ đây đã là cuối mùa, mọc thành cụm phía sau đài phun nước khô khan, giống như những đứa trẻ đang chơi trên sân, chờ đợi ai đó thảy cho chúng một quả bóng.
Mắt tôi lướt lên tầng trên ngôi nhà, đến ô cửa sổ lớn nơi tôi thường thấy hình hài của một người đàn ông. Rồi tôi thở phào khi thấy rằng lão ta không có ở đó.
Jack tắt máy xe nhưng vẫn không di chuyển để bước ra khỏi xe. “Tôi cần phải... tôi cần phải nói cho cô biết một chuyện... rất kỳ lạ. Một việc kỳ lạ đã xảy ra đêm qua.”
Tôi quay qua anh, cố làm ra vẻ bối rối.
“Tôi biết là cô đã không gọi những cú điện thoại đêm qua. Một người lính cứu hỏa đã đưa tôi cái túi xách của cô và điện thoại của cô vẫn còn nằm trong ấy và tắt máy. Tôi không nghĩ rằng trong suốt cơn hỏa hoạn ấy mà cô lại có thể lo xa đến mức không chỉ tắt máy mà còn đặt nó gọn gàng trong túi xách như thế.”
Tôi vẫn im lặng, chờ đợi xem anh ta sẽ nói gì tiếp theo đó.
Anh tập trung nhìn vào đôi tay đang nắm chặt lấy tay lái. “Và khi tôi bước đến cửa và cố mở nó ra, tôi có cảm giác như có ai đó đang kéo cho nó đóng lại từ bên trong. Nó hơi nhích ra một tí rồi lại đóng sầm trở vào, nên tôi biết cửa không hề bị khóa. Và khi tôi nhìn qua lớp bóng đèn sát cạnh cửa, tôi thấy... tôi thấy một người đàn bà đang nhìn chằm chặp vào tôi. Tôi nghe bà ấy bảo hãy nhanh chân lên mặc dù bà ấy đang ở bên trong còn tôi thì ở ngoài và lẽ ra thì tôi không thể nào nghe được gì. Khi tôi cố gắng một lần nữa thì cửa mở ra rất dễ dàng, và tôi tìm thấy cô và đưa cô ra ngoài.”
Jack nhìn tôi, da anh hơi tái đi. “Tôi có ấn tượng rất rõ hồi đêm qua là có hai người trong nhà với cô - một người thì cố làm hại cô còn người đàn bà thì cố bảo vệ cô. Dường như mỗi khi người đàn bà ấy cố chứng tỏ sự hiện diện của mình thì người kia sẽ bỏ đi.”
Tôi cắn môi, chờ đợi câu hỏi không thể tránh được.
“Vậy thì, Melanie, cô nói tôi nghe xem” - anh hít một hơi thật mạnh rồi nhìn thẳng vào mắt tôi - “có phải ngôi nhà bị ma ám không?”
“Chẳng phải sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu anh cứ tin rằng anh đã tưởng tượng ra tất cả những thứ ấy và mọi việc đều được giải thích một cách có lô-gic hay không?”
“Ờ, như thế sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng đó sẽ không phải là sự thật, phải không nào?”
“Tôi không...”
“Melanie, tại sao cô lại e ngại việc ấy? Rằng tôi sẽ cười vào mũi cô à? Tôi sẽ không làm thế, cô biết mà. Thậm chí tôi còn không nghĩ nổi ra điều ấy nữa là. Thật ra tôi còn nghĩ rằng đó là một khả năng thiên phú thật tuyệt diệu.” Anh ngừng một chút. Khi tôi không nói gì, anh lại hỏi lần nữa. “Ngôi nhà của cô bị ma ám, phải không?”
Từ từ, tôi gật đầu. Không nhìn vào mắt anh, tôi nói, “Có ba hồn ma rất rõ trong nhà - một người đàn bà và một cậu bé con, và một người đàn ông, lão ta hoàn toàn là một kẻ độc ác. Tôi khá chắc chắn rằng người phụ nữ và cậu bé chính là Louisa và Nevin, nhưng tôi không biết người đàn ông ấy là ai. Tôi cứ nghĩ có lẽ đó là Robert Vanderhorst, nhưng tôi chắc chắn không phải thế. Robert cao hơn, và Louisa yêu ông ấy. Bà ấy sẽ chẳng thể yêu một người hung ác được.”
Jack nhướn một bên mày. “Và cô biết tất cả những điều này bởi vì cô nhìn thấy người chết.”
Tôi nhìn ra nơi khác, về hướng ngôi nhà, lần đầu tiên chợt nhận ra những đường nét yêu kiều và sự cân đối hoàn hảo của nó, thế là tôi cảm nhận một cơn nhói đau nhẹ nhàng của một thứ cảm xúc mà tôi chỉ có thể gọi là lòng tự hào. Ðó là một mảnh lịch sử mà ta đang nắm trong tay. Tôi thở dài, biết rằng mình sẽ nói sự thật cho Jack biết. Anh sẽ không cười tôi vì anh nghĩ rằng tôi có một khả năng thiên phú tuyệt diệu. Ý nghĩ ấy khiến tôi mỉm cười. “Ðúng vậy Jack ạ. Tôi luôn luôn nhìn thấy người chết. Kể từ khi tôi còn là một cô bé con.”
Anh chỉ gật đầu và nhìn ra kính chắn gió một hồi lâu. “Cô có nghĩ rằng mình có thể cứ hỏi Louisa về những viên kim cương được không?”
Tôi cười to, nhưng với cái giọng bị khản đi vì nuốt quá nhiều khói, âm thanh ấy nghe giống như một tiếng sủa hơn. Anh nhìn tôi với cái chau mày đầy lo lắng. “Thật ra việc không đơn giản như thế đâu Jack ạ. Thật lòng, tôi ước được như thế. Bởi vì tôi sẽ có thể chỉ hỏi những con người này tại sao họ cứ đi luẩn quẩn theo tôi và sẽ giải quyết xong việc từ lâu rồi.”
“Cứ thế thì bực thật.” Anh cười một cách méo mó.
“Ờ, thỉnh thoảng.” Nụ cười của tôi bỗng nhạt dần đi. “Thường thì tôi có thể phớt lờ họ. Nhưng tôi không thể nếu tôi cùng sống chung nhà với họ.” Tôi nhìn xuống đôi tay mình, nhớ lại một việc mà mẹ tôi từng nói với tôi. “Ðó là sự may mắn. Và cũng là tai ương. Tôi không thể giúp tất cả bọn họ, bởi vì với mỗi người mà tôi lắng nghe, mỗi người tôi giúp, nó sẽ lấy đi một ít gì đó của tôi.” Tôi nhìn vào mắt anh và chỉ thấy sự quan tâm hứng thú, không phải sự chế giễu hoặc nghi ngờ mà tôi đã quen thuộc.
“Họ có bao giờ nhát cô không?”
Tôi nhớ những tuần lễ sau đám ma bà ngoại khi mẹ và tôi vẫn còn sống ở ngôi nhà trên phố Legare, khi ấy những cái bóng đen cứ bắt đầu xuất hiện, thật đột ngột, giống như những cơn giông bão tháng mười một. Khi ấy tôi cứ nghĩ rằng họ chỉ thuộc về những giấc mơ ban đêm của tôi mà thôi, cho đến khi mẹ đánh thức tôi dậy lúc nửa đêm và đưa tôi ra ngoài vườn của bà ngoại rồi nói cho tôi biết rằng bà cũng nhìn thấy họ. Và rằng họ không đến đấy để nhờ tôi giúp đỡ; họ đến để biến tôi trở thành một trong số họ. Ðó là lúc mẹ tôi dặn tôi rằng tôi mạnh hơn bọn họ, và nếu tôi cứ lặp đi lặp lại đủ nhiều, tôi sẽ bắt đầu tin vào điều đó.
“Có,” tôi nói. “Thi thoảng họ có nhát tôi.”
“Giống như cái gã trong nhà ấy.”
Tôi gật đầu, rồi nhìn về phía ngôi nhà một lần nữa và biết rằng tôi không thể trì hoãn lâu hơn được nữa. “Emily đã yêu anh lắm, Jack ạ. Cô ấy chưa bao giờ hết yêu anh.” Tôi lắng nghe tiếng anh thở mạnh mà không dám nhìn anh.
“Cô đã... thấy cô ấy à?”
“Một vài lần, lúc nào cũng gần bên anh. Nhờ thế mà tôi nhận biết đó không phải là Louisa. Cô ấy... cô ấy muốn tôi nói với anh rằng cô ấy bỏ đi chỉ vì cô ấy yêu anh. Và rằng cô ấy vẫn còn yêu anh.”
Anh nuốt nước bọt và quay đi. “Cô ấy có nói tại sao không?”
“Không. Tôi tự tìm hiểu ra việc ấy. Khi mẹ anh nói với tôi rằng Emily đã chuyển lên New York, tôi đã ngờ ngợ. Cho nên tôi đã gọi đi vài nơi.”
Anh đối diện tôi và nhìn vào mắt tôi, và lúc ấy gương mặt anh trông giống như những người mà ta nhìn thấy trên tivi trong chương trình phỏng vấn những người sống sót sau một thiên tai không lường trước được nào đấy.
“Bệnh viện Mount Sinai ở New York.” Tôi ngừng trong một chốc để những lời ấy thấm vào anh, nhưng gương mặt anh vẫn trơ ra. “Tôi được sếp Emily cho biết rằng cô ấy có một người bà con sống gần thành phố Rochester, và đó là nơi Emily đã đến sau khi cô ấy rời Charleston.” Tôi im lặng một lúc. “Jack, người bà con ấy cho tôi biết rằng Emily bị ung thư bạch huyết. Khi mà các bác sĩ ở đây phát hiện ra được thì nó đã lây lan trong cơ thể cô ấy rồi. Cô ấy đến Mount Sinai để xem cô ấy có thể tham gia vào các chương trình thử nghiệm y khoa hoặc các biện pháp cứu chữa phục vụ cho nghiên cứu hay không.” Tôi lần tìm tay anh và chúng đã lạnh ngắt tự bao giờ. “Họ không thể làm gì cho cô ấy cả. Tôi nghĩ sau lần chẩn đoán đầu tiên, cô ấy đã biết rằng cô ấy sẽ không sống nổi, đó là tại sao cô ấy bỏ đi một cách thậm tệ như thế. Cô ấy chẳng muốn anh phải chịu đựng, nên cô ấy đã cố làm cho anh ghét cô ấy.” Tôi cố chống chọi lại cơn nức nở của chính mình khi nghĩ đến mẹ và tôi đã không bao giờ có thể hồi phục lại vì đã mất bà ấy như thế nào. “Oán hận thì dễ vượt qua hơn yêu thương rất nhiều.”
Jack vẫn tập trung nhìn vào kính chắn gió trước mặt, một cái nhìn trống rỗng có thể nhìn thấy một thứ gì đó mà tôi không thể thấy. “Tôi có tự tìm tòi nghiên cứu và tìm ra người bà con ấy ở Rochester. Ðó là khoảng một tuần sau khi cô ấy vừa bỏ đi, khi tôi vẫn còn rất tức giận. Cô ấy đã không muốn tôi nữa, cho nên việc cô ấy có ở Charleston này hay ở nơi khác cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chỉ là vì tôi đã không thể chịu đựng được sự nhục nhã to tát ấy. Tôi đã chẳng bao giờ nghĩ đến việc cô ấy có thể đã...” Anh siết tay lái thật chặt đến nỗi các đốt ngón tay của anh trở nên trắng bệch, và rồi anh lại thả hai tay rơi thõng sang hai bên. “Cô có biết cô ấy được chôn cất ở đâu không?”
Tôi lắc đầu. “Tôi không biết. Nhưng tôi có thể tìm ra nếu anh muốn.”
“Không cần gấp đâu.” Jack ngồi hoàn toàn bất động, như thể nếu di chuyển thì anh sẽ vỡ nát ra thành từng mảnh nhỏ. Tôi biết cảm giác ấy, nên tôi đã làm một việc duy nhất mà tôi có thể làm - tôi biết bởi vì nó là một thứ mà tôi nhớ nhất kể từ khi mẹ tôi bỏ đi. Tôi tìm đến anh và choàng hai tay ôm lấy anh trong khi toàn thân anh run bắn lên với những giọt nước mắt được nuốt vào trong. Tôi không thể xua tan đi nỗi đau của anh, nhưng có lẽ khi chia sẻ, ít ra tôi cũng có thể giúp anh làm lành vết thương lòng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.