Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd

Chương 24:




Mặt trời chiếu thẳng vào viên kim cương được cắt theo kiểu truyền thống khiến những lăng kính đầy sắc màu bùng phát ra từ viên đá quý, tựa hồ một tiếng thét to của tự do. “Ðây, vậy là thắc mắc của anh cũng đã được giải đáp rồi đó,” tôi nói, những ngón tay vẫn che viên kim cương lại như vẫn còn muốn bảo vệ bí mật của Robert Vanderhorst.
“Cũng gần như thế. Nhưng chúng ta vẫn chưa tìm được ba viên kim cương còn lại. Bọn mình đã biết về ba viên: một viên được làm vòng đeo cổ cho Louisa và đã bị bán rồi thua bạc, chúng ta có một viên ở đây, và tôi dám cá cược bằng bộ sưu tập đồ hiệu veston Ý của Marc Longo rằng viên kim cương thứ ba đã được bán đi để có tiền trang trải cho chuyến đi chóng vánh của Susannah Barnsley khi bà rời khỏi Charleston.”
Quai hàm tôi giật phắt khi nghe nói đến cái tên của Marc. “Vậy thì ba viên kim cương còn lại ấy hoặc là đã bị bán đi từ đời nào, hoặc là chúng vẫn còn ẩn giấu nơi Robert đã cất giữ chúng.”
“Chính xác.”
Tôi nhìn xuống viên kim cương trong tay. “Nhưng ít ra chúng ta đã biết rằng Louisa và Joseph đã chết, và rằng Louisa đã không hề bỏ rơi con trai mình. Anh không thể nào hiểu được tôi đã nhẹ nhõm thế nào khi nói như thế đâu.”
Jack nhìn tôi cười nửa miệng. “Tôi nghĩ là mình hiểu hơi bị đúng đấy.” Anh mở miệng túi ra, và tôi miễn cưỡng thả viên kim cương trở lại vào trong ấy.
“Ước gì tôi biết Louisa đã được chôn cất ở đâu nhỉ. Tôi nghĩ chúng ta cần phải tìm cho ra việc này thì bà ấy mới có thể yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng được.”
Jack gật đầu. “Mình cần phải làm việc cật lực hơn nữa để giải những cái mã ấy.” Anh đặt cái túi và khẩu súng trở lại vào trong hộp, nhưng tôi vẫn giữ lá thư lại bên mình, vẫn chưa sẵn sàng rời nó ra. Chúng tôi bước lại trên đường đê rồi vào trong xe.
Jack khởi động máy xe. “Bọn mình phải ghé Wal-mart hoặc siêu thị nào đấy để mua vali vì mình phải ký gửi hành lý trên máy bay. Chúng ta không thể mang cái khẩu súng ấy trong hành lý xách tay, và tôi cũng chẳng muốn giải thích gì về viên kim cương ấy.”
“Chúng ta không thể ký gửi nó lên máy bay được - lỡ nó bị đánh cắp thì sao?”
Jack rẽ ra đường xa lộ. “Không đâu. Bọn mình sẽ mua một cái hành lý hiệu Dora Nhà thám hiểm để nó trông giống như hành lý của một đứa trẻ, và một ít quần áo để quấn quanh nó. Tin tôi đi - sẽ chẳng có ai chạm đến nó đâu.”
“Thật chứ?” Tôi hỏi, vẫn cảm thấy không thoải mái lắm.
“Thật đấy,” anh trấn an tôi. “Tôi có bao giờ chỉ sai đường cho cô không nào?”
Tôi không rõ có phải anh đang ngụ ý đến việc tôi đã thiếu cân nhắc về Marc trước đây hay không, nên tôi chỉ nhìn ra nơi khác mà không trả lời. “Thế ai là Nhà thám hiểm Dora?”
“Chỉ là một nhân vật hoạt hình vốn rất nổi tiếng trong giới trẻ mẫu giáo thời nay - nó mang tính giáo dục nhiều hơn một chút so với loạt phim hoạt hình Scooby-Doo thời bọn mình.”
“Tôi chưa bao giờ xem Scooby-Doo, nhớ không? Và làm sao mà anh biết về Dora Nhà thám hiểm?”
Jack nhún vai. “Thỉnh thoảng tôi có trông chừng mấy đứa cháu ngoại của Yvonne trong khi bà ấy giúp tôi tra cứu.”
Tôi không thể hòa hợp nổi hình ảnh tay chơi mà tôi đã ấn tượng về Jack với việc anh ta ngồi bệt trên sàn nhà và chơi với những đứa trẻ, thế nên tôi xoay cuộc nói chuyện về chủ đề ban đầu. “Tôi nghĩ toàn bộ việc sứt mẻ quan hệ giữa Robert và Gus chỉ là cái cớ được dàn dựng để làm xao lãng sự chú ý của gia đình Longo không cho họ tìm hiểu sự thật từ Gus cùng các cộng sự của ông ấy.”
“Suy luận hay lắm, bác sĩ Watson[9] ạ,” Jack nói cùng với nụ cười rộng miệng cố hữu trên mặt. “Cô thấy không, chúng ta làm việc với nhau thật ưng ý. Hai đứa mình nên tiếp tục cùng nhau hợp tác về sau.”
[9] Nhân vật cộng sự thân tín của thám tử Sherlock Holmes.
Tôi quẳng cho anh cái nhìn mà tôi hy vọng trông thật nghiêm khắc và đầy hoài nghi. “Tôi thì nghĩ thà trải qua cuộc giải phẫu cắt bỏ ruột thừa bằng dao bỏ túi mà không gây mê còn hơn phải chịu đựng những ngày tháng đau đớn và chết dần chết mòn này thêm lần nào nữa.”
Trông anh có vẻ thật sự bị tổn thương. “Mọi việc có thật sự tồi tệ đến thế không?”
Tôi nghĩ lại tất cả những việc đã xảy ra kể từ khi chúng tôi gặp gỡ lần đầu, và tôi biết rằng mình đã không thật lòng khi phát biểu như thế. Nếu như tôi phải hoàn toàn thẳng thắn với anh, tôi sẽ phải nói với anh rằng đời tôi chưa bao giờ được cười nhiều như trong những tháng vừa qua, và rằng được nhìn thấy công việc trùng tu nhà đầy nặng nhọc của mình bắt đầu đến hồi đơm hoa kết trái thật là một trong những thành công nổi bật nhất của đời mình. Thậm chí khi bắt buộc phải đương đầu với những hồn ma ấy cũng đã là một kinh nghiệm thật kỳ thú, và nhất là chắc chắn có một việc nào đó sẽ không bao giờ xảy ra nếu như tôi chưa bao giờ gặp gỡ Jack Trenholm. Tôi tự mỉm cười với mình. Hoặc là cuộc sống của tôi đã quá được bảo bọc, hoặc là tôi đã thực sự hưởng thụ cuộc sống của mình lần đầu tiên trong đời - và tôi phải cám ơn Jack cho hầu hết những việc ấy. Nhưng rồi, anh ta đã lừa dối tôi, và nếu tôi đã không nghĩ quá khắt khe về việc ấy, tôi cũng đã có thể đổ lỗi cho anh ta, rằng anh ta chính là lý do đã khiến tôi rất cương quyết khi chọn Marc Longo. Thế nên, tôi lại vòng vo không trả lời thẳng cho câu hỏi ấy.
“Dĩ nhiên là không phải toàn bộ mọi việc.”
Anh bĩu môi rồi gật đầu. “Tôi cũng cho rằng cô sẽ không đổ lỗi cho tôi về vụ Marc Longo.”
“Tôi đã nói với anh rằng tôi chẳng muốn nói về việc ấy.”
Anh bật đèn xi-nhan lên rồi chuyển làn xe lên phía trước một chiếc xe bảy chỗ ngồi đầy ắp bọn trẻ con trong những bộ đồng phục bóng đá với tài xế là một bà mẹ bị quấy rầy và đang uống một cốc cà phê Starbucks. “Tôi hiểu. Tôi xin lỗi. Tất cả những gì mà tôi định nói về toàn bộ cái thảm họa ấy là ít ra cô cũng đã không ngủ với hắn.”
Tôi vẫn im lặng nhưng cảm thấy đôi gò má mình trở nên nóng râm ran.
Anh nhìn tôi với vẻ mặt có thể nói là một sự pha trộn bối rối của cả ngạc nhiên lẫn kinh hoàng. Có ai đó vừa bấm còi, và Jack tạt xe nhanh trở lại vào chính giữa làn xe anh đang lái. “Cái đồ khỉ gió,” anh vừa lẩm bẩm vừa thở mạnh.
Phần còn lại của chuyến đi ấy bao trùm trong yên lặng nặng nề, thi thoảng xen vào vài cuộc nói chuyện ngắn gọn và lịch sự hoặc có liên quan đến những từ tiềm năng cho việc giải mã. Tất cả những nỗ lực ấy rốt cuộc cũng chẳng đưa đến đâu mà chỉ tổ làm hai đứa thêm bức bối. Chúng tôi về lại đến ngôi nhà trên phố Tradd sau mười giờ đêm. Toàn bộ đèn trong nhà đã tắt, và tôi biết chắc mình sẽ không màng đến việc bước vào ngôi nhà nếu không có Jack đi cùng, mặc dù tôi sẽ chẳng bao giờ cho anh biết điều ấy.
Khi chúng tôi bước qua cổng vào khu vườn, Jack nắm lấy cánh tay tôi và giữ tôi lại. “Cô có nghe thấy không?”
Tôi lắng nghe màn đêm yên tĩnh, và đây, giữa những tiếng ồ ồ vang vọng của xe cộ từ xa là tiếng của chiếc xích đu treo trên sợi dây thừng đang cọ vào vỏ cây. Tôi mỉm cười trong bóng tối. “Có, tôi có nghe thấy. Ðó là Louisa và Nevin đấy. Họ đang cho chúng ta biết họ đang ở đây.”
“Ồ,” anh nói, và tôi có cảm giác anh đang rùng mình bên cạnh tôi.
“Họ sẽ không làm hại anh đâu, anh biết đấy. Họ biết rằng bọn mình đang cố giúp họ. Ngoài ra...” tôi hơi lưỡng lự khi cố nhớ lại những gì Nevin Vanderhorst đã nói với tôi.
“Ngoài ra cái gì?”
“À, Louisa chỉ xuất hiện trước những người mà bà ấy chấp thuận. Cho đến nay, những người ấy là tôi, Ðại tướng Lee, người thợ ống nước, và anh.”
“Người thợ ống nước?” anh hỏi.
“Phải. Anh ta cũng nhìn thấy bà ấy.”
“Tôi thật vinh hạnh,” Jack nói trong khi anh bước lên những bậc thang đi vào hành lang mái vòm rồi tạm dừng nơi cửa chính. “Cô có cảm giác gì không?” anh hỏi.
Tôi gật đầu, hai hàm răng tôi đánh lập cập. Nhiệt độ không khí bỗng sụt đi cỡ mười độ kể từ khi chúng tôi vừa bước vào cổng cho đến khi bước lên những bậc thang này. “Tôi nghĩ chúng ta có khách đây.”
“Có phải loại khách tốt không?” anh hỏi, giọng lo lắng.
Tôi lắc đầu. “Không đâu. Nếu đó là Louisa, chúng ta sẽ ngửi được mùi hoa hồng của bà ấy. Nếu anh chỉ cảm thấy lạnh và run rẩy, đó là... là thực thể kia mà tôi đã nhìn thấy vài lần. Hắn ta chẳng đàng hoàng chút nào.”
Hàm răng trắng của anh sáng lóa một cách kỳ quái dưới ánh trăng. “Tuyệt lắm. Vậy thì chúng ta phải làm gì?”
“Anh chỉ phải tự nói với mình rằng anh mạnh hơn hắn ta, và hầu như lần nào việc này cũng linh nghiệm.”
“Hầu như lần nào cũng thế? Vậy những lần còn lại thì sao?”
“Thì hắn sẽ đốt nhà và nhốt anh lại bên trong.”
Anh im lặng hồi lâu. “Vậy thì tại sao chúng ta lại đứng đây, cố tìm cách vào nhà thay vì chạy thục mạng ra khỏi nơi này?”
Tôi hít một hơi thật sâu. “Bởi vì bây giờ tôi đã biết đến sức mạnh của hắn. Trước đây, tôi cố phớt lờ hắn và cả Louisa nữa, mặc cho họ có cố gây sự chú ý nơi tôi đến đâu. Ðó đã là khẩu hiệu của tôi trong một thời gian dài - cứ phớt lờ họ thì cuối cùng họ sẽ bỏ đi. Nhưng bây giờ thì sự việc đã mang tính cá nhân, nên tôi cần lắng nghe họ. Và ngay lúc này đây, cái gã xấu tính ấy đang bảo tôi phải đi ra khỏi ngôi nhà. Mà việc này, dĩ nhiên, cũng có nghĩa là chúng ta càng phải đi vào trong ấy. Có cái gì đấy bên trong mà lão chẳng muốn chúng ta tìm thấy.” Tôi vươn vai. “Chúng ta chỉ cần phải để ý đề phòng và không được rời nhau ra. Và nếu anh ngửi được mùi hoa hồng, thế là tốt, vì nó có nghĩa rằng Louisa đang ở đấy và gã xấu ấy không thể làm hại gì ta được.”
“Cô có biết hắn là ai không?”
“Ban đầu tôi nghĩ có thể đó là Robert. Nhưng Robert thì không ác, còn gã này chính xác là một thằng khốn. Giờ đây tôi đã biết rằng Joseph Longo đã bị giết trong nhà này, tôi nghĩ mình có thể đoán khá chính xác đây chính là hắn.”
“À, như thế thì sự việc lại dễ dàng hơn đây.”
“Nghĩa là sao?”
“Này nhé. Thử tưởng tượng nếu cô sẽ nghiền nát một thằng cha đã từng định giết một bé trai vô tội thì việc ấy sẽ làm cho việc đương đầu với kẻ địch của cô dễ dàng hơn nhiều - dù hắn là ma hay là người. Mọi việc rồi cũng chỉ quy về một mối: Tôi là người tốt và hắn là kẻ xấu. Và tôi chỉ cần biết như thế thôi.”
Tôi giơ lên chiếc chìa khóa cửa, ánh đèn đường lóe sáng trên mảnh kim loại trông như con lắc của nhà thôi miên. “Sẵn sàng chứ?”
“Vào cuộc thôi,” anh khẽ nói trong khi tôi lần tìm lỗ khóa và vặn chìa.
Thật ngạc nhiên, cánh cửa mở ra nhẹ nhàng chẳng có dấu vết kháng cự nào. Tôi nhanh chóng bước vào trong và trượt tay lần mò trên tường cho đến khi chạm vào công tắc đèn. Tôi cảm thấy biết ơn khi ánh đèn vàng trải lên người hai đứa. Tôi liếc nhìn xung quanh đầy ngỡ ngàng. Rõ ràng là bà Houlihan đã rất bận rộn trong suốt thời gian tôi vắng nhà. Lớp đá mạt và bụi bặm vốn đã phủ đầy khắp nơi giờ đây đã được dọn sạch, để lại sàn nhà và cửa kính bóng loáng cùng mùi sơn bóng gỗ đặc trưng.
“Chẳng còn lạnh nữa,” Jack nhận xét.
“Tôi nghĩ hắn biết rằng chúng ta không sợ hắn, và rằng Louisa cũng đang ở đâu đây.”
Cả hai chúng tôi cùng hướng về căn phòng khách chính, nơi chiếc đồng hồ quả lắc vừa điểm nửa giờ đồng hồ, và bật lên toàn bộ các bóng đèn khi chúng tôi đi qua nhằm xua tan bóng đêm đầy rùng rợn ấy. Tôi di chuyển sang ô cửa sổ bên hông nhà và nhòm ra ngoài trời đêm nơi có cây sồi, nhưng chẳng thấy gì. Nhưng tôi biết họ đã ở đó vì tôi đã cảm nhận họ đang nhìn và chờ đợi. Chờ đợi cái gì, tôi cũng không rõ.
“Cerca Trova,” Jack nói. Anh đứng bên trước chiếc đồng hồ, cánh cửa kính bao lấy mặt đồng hồ đang mở. “Tôi biết mình đã nhìn thấy những từ này ở đâu đó rồi. Chúng là ở đây - được viết trên một trong những lá cờ tín hiệu. Có lẽ tôi quên mất mình đã nhìn thấy nó ở đâu bởi vì không phải lúc nào nó cũng hiển thị.”
Tôi bước đến đứng cạnh anh. “Ðó là những từ nằm trong lá thư đầu tiên viết cho Nevin. Hãy mưu cầu và ngươi sẽ tìm thấy.”
“Nhưng mà chúng ta đã xem xét kỹ lưỡng từng centimet của chiếc đồng hồ này, và tôi cũng đã tìm ra cái ngăn bí mật nữa.” Jack suy nghĩ trong một lúc. “Như thế có phải rằng chúng đã không còn, rằng ba viên kim cương thất lạc đã bị lấy đi trước khi Robert tìm ra nơi cất giấu chúng?”
“Tôi chẳng biết. Và chúng ta sẽ mãi không biết trừ khi chúng ta giải được mã.”
Jack vẫn tiếp tục nhìn chăm chăm vào mặt đồng hồ, đôi mày anh châu lại vì đăm chiêu suy nghĩ. Khi tôi vừa định đề nghị đi lên lầu và chuẩn bị đi ngủ thì tôi nghe có tiếng cào sột soạt, nghe giống như tiếng bút chì cào trên mặt giấy. Hoặc tiếng móng tay cào trên mặt nhựa.
“Anh có nghe thấy gì không?” tôi hỏi.
Jack gật đầu. “Chuột?”
Tôi lắc đầu. “Không. Nếu là mối, phải đấy. Còn chuột, thì không.” Tôi bước đến nơi mà dường như tiếng động nghe mỗi lúc một to dần. Nó phát ra từ bức tường sát với chiếc đồng hồ, nơi mà những tấm màn cửa dài đã từng che phủ biểu đồ tăng trưởng của Nevin. Giờ đây nó đã được bảo vệ bởi một lớp kính nhựa mỏng, và khi tôi quỳ gối phía trước nó, thì tiếng cào dừng lại. Tôi kiểm tra thật cẩn thận toàn bộ những số đo viết trên biểu đồ, tìm xem có gì bất thường không, và khi tôi từ từ lướt nhìn trở lên cho đến tận cùng biểu đồ thì tôi dừng lại, hơi thở của tôi bỗng nghèn nghẹn. Nơi đây, những nét chữ viết tay thật cẩn thận của Louisa đã viết nên những chữ viết tắt MBG. Anh chàng mẹ yêu nhất.
Tôi thẳng người lên, tim tôi đập mạnh. “Jack này, Robert đã nói gì trong bức thư đầu tiên viết cho Nevin? Cái gì đấy có liên quan đến mẹ ông ấy, đại loại là mẹ ông ấy đã gọi ông ấy là gì đấy.”
“À ờ: ‘Hãy nhớ mẹ con đã từng gọi con là gì.’ Tại sao? Cô vừa nghĩ ra được điều gì đó à?”
“Anh chàng mẹ yêu nhất - đó là từ mà Louisa đã gọi ông ấy, nhớ không? Nó được viết ngay tại đây trên bức tường này.” Tôi quỳ gối trên sàn và lôi ra quyển sổ tay, lúc này đã gần kín những từ khóa vô vọng, rồi mở ra một trang mới. Một cách nhanh chóng, tôi viết bảng chữ cái lên trang ấy và những chữ “MY BEST GUY” ngay bên dưới nó, bỏ đi chữ Y cuối cùng và lần theo cụm từ này cùng bảng chữ cái, bắt đầu bằng chữ “A” rồi cứ thế tiếp tục đến “Z” mà không lặp lại bất kỳ chữ cái nào.
Jack quỳ gối ngay cạnh tôi và bắt đầu lặp lại cho tôi dãy ba mươi hai chữ cái mà cả hai đều đã thuộc lòng vì đã lặp đi lặp lại không ngớt mật mã của chiếc đồng hồ. Sau khi tôi đã viết xuống một dòng, tôi hít một hơi mạnh trước khi nhìn lại tập giấy. Một cách chậm rãi, tôi bắt đầu ghi vào những chữ cái vừa tìm ra từ từ khóa mới: V,A,O,N,U,A,Ð,E,M,N,H,U,N,G,N,G,O,I,S,A, O,S,A,N,G,T,U,A,K,I,M,C,U,O,N,G. Tôi nhìn xuống những gì tôi vừa viết và đọc to lên. “Vào nửa đêm, những ngôi sao sáng tựa kim cương.” Mắt chúng tôi giao nhau. “Ôi, trời ơi,” tôi la to trong khi cả hai cùng nhau bò lên chiếc đồng hồ để xem nó lại lần nữa.
Jack mở chiếc mặt đồng hồ một lần nữa. “Vào nửa đêm...” Anh quay sang tôi. “Còn nhớ những tấm hình rửa ra từ cuộn phim không? Tấm hình có chiếc đồng hồ quả lắc đang chỉ mười hai giờ ấy.”
“Nhưng cả hai chúng ta đều đã ở trong căn phòng này vào nửa đêm vài lần rồi, và chẳng có gì xảy ra cả.” Tôi cố chống chế sự thất vọng của mình. “Anh nghĩ mình có thể xoay hai chiếc kim đồng hồ và kéo cho chúng vào vị trí mười hai giờ để xem điều gì sẽ xảy ra hay không?”
Jack liếc nhìn đồng hồ đeo tay của anh. “Hiện giờ đã hơn mười một giờ rồi. Tôi không muốn làm bất cứ điều gì vốn có thể thay đổi những việc phải xảy ra. Hay là chúng ta cứ đi thay quần áo và đánh răng rửa mặt rồi gặp nhau tại đây vào lúc nửa đêm?”
Tôi gật đầu, dù hiểu sự thận trọng của anh nhưng vẫn không thể hoàn toàn gạt sang một bên sự nôn nóng của mình được. Chúng tôi cầm lấy túi của mình, và Jack để cho tôi mang chiếc túi du lịch Dora, Nhà thám hiểm lên lầu. Có lẽ anh nghĩ rằng đó là vì chiếc túi có chứa viên kim cương, nhưng đúng hơn là vì những lá thư và những lời trăn trối của người cha để lại cho con mình nhưng chưa bao giờ được đọc. Câu chuyện bi thảm của họ khiến tôi cảm thấy nặng trĩu trong lòng và quả là khi tìm ra được sự thật thì câu chuyện của họ vẫn chưa kết thúc. Tôi cảm giác họ đang ở trong nhà vào lúc này, ẩn nấp đâu đó và đang nhìn khi chúng tôi bước lên cầu thang. Tôi dừng lại ở đỉnh cầu thang, cảm giác như mình có thể chạm được vào những điều sắp xảy ra vốn đang phình lên và râm ran quanh chúng tôi.
“Anh có cảm nhận được gì không?” Tôi thì thầm.
Jack lắc đầu. “Cảm nhận cái gì?”
Tôi chau mày, cố tìm cách định nghĩa cái cảm giác kỳ lạ đang phớt lên người và xoa lấy da thịt tôi lúc này. “Họ đang theo dõi chúng ta đấy. Ðang chờ đợi.”
“Họ là ai?” anh hỏi và làm tôi ấn tượng bởi giọng điệu thật chắc nịch.
Tôi lắng tai nghe những tiếng thì thầm lúc này bắt đầu nghe rõ hơn. “Louisa. Nevin.” Tôi dừng lại, cảm giác của da thịt đang bò dọc sống lưng mình. “Và Joseph.”
Những cái bóng đèn bắt đầu rung rinh và mờ dần, rồi lại bật mở trở lại. “Ta mạnh hơn ngươi. Ta mạnh hơn ngươi,” tôi thì thầm dưới làn hơi của mình.
Jack nắm lấy khuỷu tay của tôi rồi đưa tôi đi dọc hành lang về phòng của tôi. “Hãy cứ liên tục nói như thế nhé? Nó giúp tôi cảm thấy đỡ hơn.” Anh đẩy và mở cửa phòng cho tôi rồi bật công tắc điện. “Tôi sẽ chờ ở đây trong khi cô chuẩn bị, khi nào xong thì bọn mình sẽ đi xuống dưới nhà và chờ.”
Khi ấy tôi đã quá nhẹ nhõm nên chẳng màng đến việc đôi co với anh rằng tôi cần sự riêng tư cho mình cũng như về những luật lệ để được ở trong nhà này thì anh không bao giờ được phép bước chân vào phòng tôi chẳng hạn. Tôi bước vào phòng tắm, rửa mặt và đánh răng rồi thay đồ ngủ dài tay cùng áo choàng ngủ. Tôi tránh không nhìn vào gương vì sợ sẽ nhìn thấy gì đó sau lưng mình.
Khi tôi bước ra khỏi phòng tắm, Jack đang ngồi trên giường, một quyển sách to đang mở trước mặt anh trên tấm ga trải giường. Ban đầu, tôi ngỡ rằng đó là một trong những quyển album ảnh của Louisa, nhưng khi tôi đến gần thì thấy rằng không phải.
“Cô tìm đâu ra quyển sách này thế?” anh hỏi và cho tôi xem bìa sách. Tôi đọc tựa sách: “Những mật mã của Thế giới cổ đại.”
Tôi lắc đầu. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó cả.”
“Nhưng nó nằm trên giường của cô.”
Mắt tôi mở to. “Nhưng tôi đâu có đặt nó trên ấy.”
“Thế thì tại sao nó có thể leo lên đây được? Tôi khá chắc chắn rằng nó không nằm cùng với những cuốn sách giải mã còn lại trên căn gác mái, vì tôi đã xem qua hết tất cả số sách ấy và biết rằng cuốn này không nằm trong đó.”
“Chúc mừng anh đã đến với thế giới của tôi,” tôi nói trong khi ngồi lên giường bên cạnh phía bên kia của cuốn sách. “Từ kinh nghiệm trước đây của mình, tôi có thể nói rằng có ai đó muốn chúng ta nhìn thấy nó.” Chúng tôi nhìn nhau, và tôi bỗng nhận ra rằng hai đứa tôi đang ở một mình trong phòng ngủ của tôi và cùng ngồi trên giường. Tôi thấy có một tia sáng mỏng lướt qua đôi mắt anh như thể anh cũng đang nghĩ đến điều ấy.
Một cách đột ngột, tôi đứng dậy và kéo chiếc ghế đặt cạnh bàn làm việc đến cạnh giường. “Thế anh đã tìm được gì trông có vẻ hứa hẹn chưa?”
Ðôi mắt anh chiếu vào chiếc áo choàng ngủ và bộ đồ dài tay của tôi rồi quay trở lại quyển sách, đoạn, anh lật sang một trang. “Chưa, nhưng tôi cũng vừa bắt đầu thôi. Hy vọng việc này sẽ giúp bọn mình giải mã từ “nửa đêm” bằng cách khác, nếu như...” Ðôi tay anh bỗng bất động trên trang sách đang mở.
“Cái gì thế?” tôi hỏi, rồi đứng dậy và nhìn qua vai anh.
Anh đưa quyển sách lên cao. “Ðây,” anh nói, chỉ ra một hình vẽ những đường kẻ ô bao gồm năm cột và năm dòng. Bên trên hàng trên cùng và cạnh cột ngoài cùng bên trái là những con số từ một đến năm, theo thứ tự, và bên trong những ô kẻ, bắt đầu từ ô bên trái trên cùng, là từng ký tự trong bảng chữ cái, trong đó chữ “Y” và “Z” cùng nằm trong ô cuối cùng. “Cái này gọi là ô chữ Polybius của Hy Lạp cổ đại. Tôi đã có nhìn thấy nó trong một trong những quyển sách giải mã khác, nhưng tôi bỏ qua vì loại này quá đơn giản.” Rồi anh nhìn tôi ra vẻ biết lỗi. “Tôi quên mất những gì cô nói về việc những mật mã được sử dụng để giữ bí mật khỏi những con mắt tò mò - và cũng không bắt bí Nevin.”
“Nhưng cái này giải như thế nào, Jack? Nếu bọn mình cố tìm ra nghĩa khác của từ “nửa đêm,” thì nó sẽ chuyển sang một con số chứ không phải là một từ khác.”
Anh vừa lắc đầu vừa lôi ra một cây viết bên trong túi áo khoác. “Giải mã sai rồi, Mellie. Ðây là loại mã thay thế vốn chuyển đổi những con số thành các con chữ. Nói theo cách khác, mật mã ở đây là một chuỗi những con số mà sau khi được giải, sẽ trở thành một từ.”
“Ồ đúng rồi - cái đài phun nước!”
“Chính xác,” anh nói. “Cô còn nhớ những con số ấy không?”
Tôi gật đầu. “Có, nhưng không theo một thứ tự cụ thể nào cả.”
“Không thành vấn đề - chỉ có ba chữ số thôi, và bọn mình có thể sắp xếp chúng lại nếu cần.”
Tôi nhắm mắt, cố nhớ lại những chữ số La Mã được khắc bên hông chiếc đài phun nước. “Bốn mươi mốt, bốn mươi hai, và hai mươi bốn.”
Tôi nhìn anh giải con số thứ nhất, XLI (41), bằng cách tìm hàng có chữ số bốn trước, rồi lần theo hàng ngang sang cột có chữ số một và viết ra ký tự trong ô tương ứng - “P”. Anh lại tiếp tục theo cách này để tìm ra hai ký tự còn lại, cuối cùng là được hai ký tự “R” và “I”.
“P-R-I?” tôi hỏi.
Jack nhìn chằm chằm vào những ký tự vừa tìm được, mặt anh sáng hẳn ra. “Ta chỉ phải dịch chuyển ký tự ở giữa để tìm ra từ có ý nghĩa.”
Tôi lại nhìn vào những ký tự một lần nữa, ngay lập tức bỏ qua từ đầu tiên mà tôi nghĩ đến và cuối cùng dừng lại ở từ “RIP”[10]. Tôi ngồi lên giường trở lại. “Ngàn thu yên giấc,” tôi lặng lẽ nói. “Ðó là từ mà ta thường thấy trên bia mộ.”
[10] Viết tắt của “Rest in Peace”, là những chữ được khắc trên bia mộ ở phương tây, tương đương với “Ngàn thu yên giấc”.
“Ðúng, nó đấy.” Jack nói và đặt cây viết lên quyển sách. “Thế thì giờ đây bọn mình đã biết Robert và Gus đã giấu những tử thi ở đâu rồi.”
“Và cả việc tại sao cái đài ấy chẳng bao giờ phun nước - có lẽ nó cũng không được nối với đường ống nước nào cả. Robert cho xây cái đài phun nước ấy như một đài tưởng niệm cho vợ ông ấy, nhưng lại sợ những người thợ sẽ tìm ra những thi hài ấy nếu họ đào đủ sâu để lắp đặt đường ống nước.” Tôi lắc đầu, nhớ lại những lúc tôi ở trong vườn và cảm nhận sự có mặt của Louisa. Và giờ đây thì tôi đã biết tại sao.
“Bọn mình cần phải gọi cho cảnh sát,” Jack nói.
“Tôi biết.” Tôi chau mày, cảm thấy không thoải mái khi nghĩ đến việc khu vườn yên tĩnh sẽ bị xáo trộn, thậm chí nếu chỉ là tạm thời. “Bọn mình có thể chờ đến sáng được không? Tôi nghĩ Louisa thích ở đây hơn. Tôi muốn cho bà ấy được nghỉ ngơi thêm một đêm trong khu vườn yêu thích của bà ấy.”
“Dĩ nhiên rồi.” Jack quay đầu lại. “Nè, cô có ngửi thấy cái mùi ấy không?”
Hương hoa hồng tươi thơm ngào ngạt bao trùm cả căn phòng, mùi ngọt ngào của nó tràn ngập tận vào hốc mũi. “Có,” tôi nói và mỉm cười. “Tôi nghĩ Louisa đang nói lời cảm ơn đấy.”
Ðồng hồ lại điểm chuông ở dưới nhà và Jack đứng dậy. “Vẫn còn mười lăm phút nữa. Tôi nghĩ bọn mình nên đi xuống dưới ấy để không lỡ mất bất cứ việc gì.”
Tôi gật đầu và đi theo anh ra đến cửa phòng. Khi chúng tôi bước gần đến ngưỡng cửa thì nó bỗng đóng sầm lại ngay trước mặt. Jack phóng theo cái cửa và cố vặn nắm cửa. “Tôi nghĩ cửa bị khóa rồi. Cô có chìa khóa không?”
“Không,” tôi nói, đồng thời ngửi thấy mùi hôi thối lúc này đang hòa trộn với hương hoa hồng.
“Trời đất ơi, cái mùi hôi thối ở đâu ra thế này?” Jack hỏi và nhăn mũi. “Tôi nhớ đã ngửi thấy nó một lần, và tôi chẳng bao giờ muốn ngửi nó thêm một lần nào nữa trong đời.”
“Là cái gì?” tôi hỏi, suýt chết ngạt khi hương hoa hồng hoàn toàn bị lấn át bởi mùi hôi thối kinh tởm kia.
Anh nhìn tôi chằm chặp một hồi lâu, và tôi chợt nhớ lại những gì tôi đã đọc về thời gian anh phục vụ trong quân đội, và tôi ước gì mình đã không hỏi anh câu ấy. “Mùi này giống như mùi xác chết bị phơi cả ngày dưới nắng. Nó là thứ mùi thật khó quên đấy.”
Tôi xoay mặt đi và nhắm mắt lại để mắt bớt bị cay. “Hắn đang cố làm cho chúng ta sợ đấy. Ðừng để hắn làm thế, nếu không hắn sẽ thắng. Và nhớ rằng Louisa nằm bên phe của mình.” Những lời này chỉ là một sự an ủi cho có lệ, nhưng tôi chỉ biết làm thế thôi.
Jack xoay cái nắm cửa và kéo mạnh cánh cửa. Ban đầu nó chẳng dịch chuyển gì, nhưng rồi lực giữ cho cánh cửa đóng chặt bỗng thả ra đột ngột khiến Jack bay ngược về phía tôi vì cánh cửa lúc này đã thả lỏng. Ðèn trong phòng lại bắt đầu chớp tắt và Jack lần tìm tay tôi. “Ðừng thả tay tôi ra nhé, Mellie. Hắn muốn chúng ta tách rời nhau ra đấy.”
Tôi chẳng cãi cọ gì với Jack mà ngược lại còn bấu chặt vào tay anh như một người sắp chết đuối sẽ cố vớ lấy một mảnh gỗ trôi giạt nào đó. Những bóng điện ngày càng sáng lên và sáng hơn nữa, ngôi nhà bao trùm trong tiếng lắc cắc cho đến khi chúng tôi nghe những tiếng bốp bốp, từng cái bóng điện một bắt đầu vỡ tan tành. Một luồng gió lạnh nhấn chìm lấy chúng tôi, sự băng giá của nó đủ làm những ngón tay và mũi tôi cóng lại. Tôi rùng mình và Jack siết chặt lấy bàn tay tôi trong khi chiếc bóng điện cuối cùng vỡ tung, nhấn chìm chúng tôi vào bóng tối dày đặc.
“Nhắm mắt lại, Mellie - làm như thế cô sẽ có thể dựa vào các giác quan khác của mình cho đến khi mắt cô làm quen được với bóng tối.”
Tôi gật đầu và nhắm tịt mắt lại, mường tượng ra hành lang trên lầu khi tôi bắt đầu đi theo Jack hướng ra cầu thang. Khi anh bước đến bậc thang đầu tiên, tôi níu cánh tay anh lại. “Hắn đã cố xô tôi xuống cầu thang một lần, nhớ không? Hãy ngồi xuống rồi lần dò xuống dưới.”
“Ý hay đấy,” anh nói và ngồi xuống, kéo tôi ngồi cạnh anh. Chầm chậm từng nấc thang một, chúng tôi lê người đi xuống. Khi chúng tôi đến gần bậc thang cuối, Jack bỗng bịt miệng và rên lên, rồi giật mạnh lấy bàn tay tôi.
Tôi dừng lại. “Gì thế?”
Anh đang thở nặng nhọc và cố hết sức để không nôn ọe vì mùi thối ngày càng nặng hơn, và khi ta nhắm mắt trong bóng tối thì nó sẽ dễ khiến ta liên tưởng đến một cái mồ chôn đã lâu ngày. “Có cái gì đó vừa đá mạnh vào lưng tôi. Tôi không sao, nhưng nó khiến tôi nghẹn thở một chút. Cứ tiếp tục đi.”
Bọn tôi tiến xuống thêm được một bậc thang nữa. Khi tôi quay sang Jack để hỏi anh liệu tôi có thể mở mắt ra được chưa thì những ngón tay băng giá vô hình quấn quanh cổ tôi và bắt đầu siết chặt. Tôi buông tay Jack ra và đưa tay lần lên cổ, không cảm thấy gì hết trừ màn không khí lạnh giá và trống rỗng. Tôi giẫy giụa cố thở; thậm chí với bầu không khí tràn đầy mùi hôi thối này thì vẫn tốt hơn nếu tôi có thể làm thông đường thở mà hít nó vào.
“Mellie, cô không sao chứ?”
Tôi cảm nhận được hơi thở ấm áp của Jack trên mặt mình, và nó giúp tôi bớt lạnh phần nào. Có cái gì đó phun trào từ yết hầu lên đến miệng tôi, và rồi Jack giằng lấy hai bàn tay tôi, cố kéo chúng ra khỏi cổ tôi.
“Hãy nhớ - cô mạnh hơn hắn. Hãy liên tục nói như thế đi, Mellie. Mellie, cô có nghe tôi nói gì không?”
Tôi đá chân loạn xạ, nhưng không đá trúng được vật gì. Mắt tôi bắt đầu nổ đom đóm, còn hai buồng phổi nóng rực lên và khô ran. Giọng của Jack nghe xa vời vợi. “Mellie, cô mạnh hơn hắn - nói đi nào! Coi kìa, Mellie, quay lại với tôi nào.”
Tôi lờ mờ hiểu ra những điều Jack nói và cảm nhận hơi thở của anh vờn trên má mình. Và rồi tôi nhìn thấy gương mặt mẹ tôi, và bà ấy đang nói với tôi rằng tôi rất mạnh mẽ, rằng không có hồn ma nào có thể làm hại tôi trừ phi tôi cho phép chúng. Mẹ ơi, tôi nghĩ, và bà đang ở đây cùng tôi, vuốt tóc tôi, nói với tôi rằng bà yêu tôi. Tôi mở choàng mắt vì bị sốc bởi kỷ niệm ấy và há hốc miệng hớp một hơi tràn đầy buồng phổi, mang tôi trở về với thực tại. Ta mạnh hơn ngươi, tôi hét to trong đầu. “Ta mạnh hơn ngươi,” những lời này bỗng nổ tung trong miệng tôi khi tôi phá được ma lực vô hình đã siết lấy họng tôi tự nãy giờ, rồi rơi xuống bốn bậc thang cuối và lăn xuống sàn.
Ðồng hồ vừa điểm chuông. “Nhanh lên, Jack. Gần đến nửa đêm rồi.”
Anh bước đến từ sau lưng tôi, nắm lấy tay tôi và kéo tôi chạy vào phòng khách vừa kịp lúc chuông đồng hồ vừa điểm lần thứ ba. Ánh sáng lờ mờ của đèn đường và trăng tròn tràn ngập căn phòng, làm cho cái bóng lù lù của chiếc đồng hồ cổ càng hiển hiện rõ rệt và lớp sương mỏng như lơ lửng trong không khí bao quanh nó, tựa như niềm hy vọng xa xưa của một cậu bé con.
Bọn tôi đứng trước chiếc đồng hồ, tay vẫn trong tay, và một luồng gió lạnh thổi nhanh qua chúng tôi. Lúc này tôi bắt đầu ngửi thấy hương hoa hồng, từ từ chế ngự mùi hôi thối của mục rữa và chết chóc. Chiếc đồng hồ cổ lại điểm chuông liên tục, cho đến lần thứ tám.
“Nghe nào,” Jack nói trong khi anh mở hộc tủ của chiếc đồng hồ. Nó lại điểm chuông lần thứ chín và rồi lần thứ mười trong khi chúng tôi nhìn chăm chăm vào cái hốc rỗng tối tăm sâu hoắm bên trong chiếc đồng hồ, con lắc bằng đồng của nó bắt đầu đẩy những phút cuối qua nhanh và phản chiếu ánh sáng mờ sương trong căn phòng. “Cô có nghe thấy không?”
Tôi quỳ gối xuống cạnh Jack và lắng nghe thật chăm chú. Tôi nghe thấy tiếng của bộ máy điểm chuông của chiếc đồng hồ đang vận động, nhưng có thêm tiếng gì khác nữa, là tiếng lách cách yếu ớt vọng ra từ bên trong chiếc đồng hồ. “Nó nằm trong ngăn bí mật,” tôi nói, giọng tôi the thé và khàn khàn. Tôi đưa bàn tay run rẩy của mình lần vào bên trong và dò dẫm lần tìm cái nút bí mật và nhấn vào. Không có gì xảy ra. Chiếc đồng hồ lại điểm chuông lần thứ mười một, và tôi nhấn chiếc nút mạnh hơn nữa, lúc này tôi nghe thấy tiếng “cách” rồi ngăn kéo bí mật mở ra. Jack nghiêng đầu ra sau để cho ánh sáng bên ngoài chiếu vào vừa kịp lúc cho tôi nhìn thấy một chiếc hộp gỗ nhỏ bắt đầu được đưa lên cao, giống như một chiếc thang máy tí hon lồng bên trong thân chiếc đồng hồ. Tôi khoắng bàn tay vào bên trong và nắm lấy một vật gì đó mềm mại và kềnh càng.
Tôi rút vội tay ra và nhìn chiếc hộp nhỏ lúc này đang từ từ được đưa lên trên cùng của chiếc đồng hồ cho đến khi mặt đáy của nó tạo thành mặt giả bên trên của hộc tủ bí mật. Tiếng quay vù vù và tiếng lách cách ngừng lại, chiếc đồng hồ lặng im cho đến lần nửa đêm sắp đến thì lại bắt đầu cuộc phô diễn trở lại.
Tôi ngồi xổm, cảm thấy chóng mặt.
“Cô có tìm được gì không?” Jack thều thào mặc dù chỉ có hai đứa tôi với nhau. Thậm chí lúc này những hồn ma cũng đã đi mất, chỉ để lại hương hoa hồng đang phai dần.
Tôi mở bàn tay ra, trong ấy có cái túi nhỏ giống hệt như cái túi chúng tôi tìm thấy bên trong chiếc hộp đựng xì gà của ông nội Gus. Tôi nhìn Jack và anh mỉm cười. “Tôi nghĩ quyển sách mà tôi sắp viết sẽ có một kết thúc có hậu.”
Như chúng tôi đã làm lần trước, Jack cầm lấy chiếc túi nhỏ từ tay tôi và tháo dây cột ra, rồi nghiêng nó trên hai bàn tay đang vốc lại của tôi. Chúng tôi lặng nhìn ba viên kim cương to rơi vào lòng bàn tay tôi, lấp lánh dưới ánh đèn từ cửa sổ hắt vào.
Một tiếng sấm nổ vang trời làm lay động cả móng nhà, rồi một cơn cuồng phong táp mạnh vào ngôi nhà, khiến cho mái hiên rít lên. Rồi một tiếng ầm to bên ngoài khiến chúng tôi chạy nhanh đến ô cửa sổ và nhìn ra khu vườn lúc nửa đêm. Một ánh chớp làm sáng rực sân sau trong một khoảnh khắc, cho thấy một nhánh cây sồi đã gãy và rơi trên chiếc đài phun nước và bị chẻ ngọt làm đôi. Một cái lỗ đen xuất hiện bên cạnh chiếc đài phun nước trông giống như vết mực lấm lem, và một hình hài dị dạng trỗi lên từ trong bóng tối, trông thật đáng sợ với hình ảnh mờ đục rõ mồn một ấy.
Gió cuốn đi những chiếc lá và cành con của cây sồi, nhưng hình hài ấy vẫn bất động, như thể đang chờ ai đó. Rồi một hình thể đen tối khác xuất hiện từ bên dưới chiếc đài phun nước và tôi nhận ra gã đàn ông có đội nón mà tôi đã thấy khi gã nhìn tôi chòng chọc từ ô cửa sổ trên lầu. Joseph. Tiếng gào rú lại nổi lên, nhưng lần này tôi biết rằng nó không phải là tiếng gió. Hình hài dị dạng ấy dường như đang thẩm thấu vào Joseph, trông giống như hai đám mây đang sáp nhập lại làm một. Ánh chớp lóe lên thật gần, đi xuyên qua lớp đất nền và lên hai chân tôi khiến xương tủy tôi nhói lên. Toàn bộ khu vườn được chiếu sáng rực trong chốc lát, đủ lâu cho chúng tôi kịp nhìn thấy cái lỗ đen ấy tự động khép lại, chỉ còn cái đài phun nước đã vỡ và cây sồi già ở lại canh giữ cho những bí mật của khu vườn.
Ngôi nhà thở dài, và tôi tựa vào người Jack. “Mọi việc đã qua rồi,” tôi nói và bắt đầu quẹt nước mắt. Không phải là cho tôi, mà là cho một người mẹ chưa bao giờ hết yêu thương con trai mình, và cho người con, cuối cùng đã tìm ra sự thật.
Ðêm ấy, Jack và tôi ngủ trên sàn nhà cạnh chiếc đồng hồ cổ, những viên kim cương bị đè bẹp giữa hai chúng tôi, vốn cuối cùng cũng thức giấc sau một giấc ngủ không mộng mị cho đến khi bình minh ló dạng ở chân trời và ánh nắng vùng Charleston chảy vào những ô cửa sổ của ngôi nhà trên phố Tradd.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.