Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd

Chương 7:




Tôi chớp mắt vì ánh nắng phản chiếu vào con sông Cooper River rọi vào mắt khi tôi lái xe qua cầu để đi vào khu trung tâm Charleston. Chúng tôi đã làm việc với cảnh sát cho đến tận hai giờ sáng, và cho đến khi tôi vừa thiếp ngủ thì cũng là gần đến lúc tôi phải thức dậy. Thật may, trong nhà không mất gì cả, mà tôi cũng không rõ liệu như thế có phải là may mắn hay không, mà việc này gây ngạc nhiên không chỉ với cảnh sát mà cho cả Jack và tôi. Và những mảnh thủy tinh vỡ ấy không phải là ô cửa sổ Tiffany mà là một chai bia bị ném vào cánh cửa đang đóng. Nhưng phần đáng ngạc nhiên nhất là việc cánh cửa khi ấy đang mở rộng mà không hề có dấu hiệu bị phá cạy từ bên ngoài, mà cũng chẳng hề có dấu hiệu có ai đó đã thực sự đi vào ngôi nhà. Gần như có thể kết luận rằng kẻ trộm và/hoặc kẻ phá hoại ấy đã khiếp sợ phải bỏ chạy vì cái người hoặc vật nào đó đã mở cửa ngôi nhà. Tôi chẳng muốn suy xét thêm về những gì đã có thể xảy ra trước đó, mặc cho Jack cứ liếc ngang liếc dọc tôi suốt.
Mắt tôi đỏ và cảm giác như có sạn vì thiếu ngủ, và tôi cảm thấy tội cho những khách hàng mà tôi phải gặp trong ngày, nhưng tôi cũng cố gỡ gạc bằng cách nhờ dì Ruth pha cà phê đậm đặc hơn cho tôi. Việc ấy ít ra cũng sẽ giúp tôi sống sót cho đến cuộc gặp lúc mười một giờ với Chad Arasi, vốn là người cực kỳ dễ tính và thoải mái, anh ta thậm chí có lẽ sẽ chẳng để ý nếu tôi ngủ gật khi đang nói giữa chừng. Tôi vẫn chưa nghĩ ra cách nào để sắp xếp cho anh ta gặp Sophie, và tôi cũng không chắc Sophie có xứng đáng được gặp anh ta hay không. “Sự ức chế tình dục mà cậu mang quanh người cứ như cái vòng đai trinh tiết,” nó còn dám nói thế! Tôi có cảm giác vui vui khi nghĩ rằng Jack Trenholm sẽ dùng cái câu ấy để chọc quê tôi hết lần này sang lần khác, cho đến khi phát ngán thì thôi. Mà tại sao ý nghĩ ấy lại khiến tôi mỉm cười?
Tôi đậu xe ở chỗ quen thuộc rồi hướng về tiệm bánh dì Ruth. Tiếng chuông treo trên cửa kêu leng keng khi tôi đẩy cửa bước vào. “Chỉ có một chút thay đổi so với thường lệ thôi dì Ruth ạ.”
Dì ấy chống hai cái khuỷu tay đầy thịt lên mặt tủ kính. “A, cầu Chúa lòng lành, cô Melanie à. Tui làm món trứng và xúc xích cho cô nghen? Tui mới mua sáng nay cho cô đó, còn tươi rói đây nè.”
Tôi mỉm cười. “Cám ơn dì, nhưng cháu chỉ cần thêm đường thôi. Hay là dì cho cháu thêm một cái bánh tiêu có tráng thêm nhiều bơ và cho cháu gấp đôi lượng cà phê thường ngày nhé. Cháu sẽ thử món trứng và xúc xích vào lúc khác vậy.”
Dì Ruth lắc đầu và tặc lưỡi. “Một ngày nào đó những thói quen xấu của cô sẽ lén tấn công cô lúc nào không hay, và rồi cô sẽ thức giấc và nhìn giống y như tui bây giờ.”
Tôi nghía bộ ngực đồ sộ của dì, vốn có thể kiêm luôn nhiệm vụ của một cái kệ, rồi cười vang. “Việc ấy cũng chẳng đến nỗi tệ lắm dì ạ. Ít ra thì cháu cũng sẽ có một lý do để mặc nịt ngực.”
Dì ngả ngửa đầu ra phía sau và cười ngất, hàm răng trắng lóa trên làn da nâu đậm của gương mặt dì. “Ðúng vậy, cưng à. Ðúng vậy.”
Tôi sục tay vào cặp da và lôi ra một phong bì dày. “Cháu mang cho dì vài cái phiếu mua hàng giảm giá đây.”
Dì cầm lấy phong bì và liếc nhìn vào bên trong. “Cô tử tế quá, cứ làm việc này cho tui hoài cô Melanie à, tôi cảm kích lắm.” Dì nhét một ngón tay nần nẫn thịt vào bên trong và lật lật những cái phiếu mua hàng. “Và cô luôn sắp xếp chúng thật ngay ngắn, lại còn phân loại và kẹp riêng thành từng xấp nữa.”
Tôi chỉ tay vào một xấp phiếu dì đang cầm trong tay. “Và lần này cháu còn kèm thêm mảnh giấy ghi chú để chỉ ra phiếu nào có ngày hết hạn trong tuần tới để dì biết mà dùng chúng trước.”
Dì Ruth nhìn tôi chằm chặp một hồi lâu với đôi mắt đầy vẻ biết ơn, nhưng tôi cảm thấy rất rõ là dì đang cố hết sức để nhịn cười. “Cô nhiều chuyện quá, cô Melanie ơi. Nhiều chuyện quá. Thật lòng tui rất biết ơn cô.”
Tôi nhún vai, cảm thấy mắc cỡ vì thái độ biết ơn ấy của dì. Tôi biết rằng dì sống với mười sáu đứa trẻ, vừa cháu gái vừa cháu trai, cùng những đứa con của dì, và từ lâu tôi đã biết rằng dì rất trông chờ vào những tấm phiếu mua hàng giảm giá của tôi để tránh khỏi phải nương dựa vào từ thiện. “Có vài món ngũ cốc ‘mua một tặng một’ cháu nghĩ dì có thể dùng cho hai em bé vừa mới bắt đầu tập ăn dặm.”
Dì gật đầu, rồi đặt những tấm phiếu trở lại vào phong bì và nhét nó bên dưới quầy. “Bánh tiêu gọi thêm của cháu là quà tặng của tiệm bánh nhen.” Dì cầm cái kẹp lên và cho thêm một cái bánh tiêu vào cái túi giấy đã chờ sẵn trên quầy rồi quay lại máy pha cà phê. “Cái hình của cô đăng trên báo Chủ Nhật nhìn thiệt là đẹp đó, cô Melanie à. Trước đây tui đâu có biết cô làm chủ cái nhà bự đó ở phía nam khu Broad.”
“Cái gì? Cháu được lên báo à?”
“Chắc chắn luôn. Cô chưa đọc báo hả?”
Tôi chờ dì đi lạch bạch về phía cuối tiệm và quay trở ra với tờ báo Chủ Nhật trong tay. Rồi dì thảy phạch nó lên trên tủ kính đựng bánh và mở tìm mục tin vắn. Trên trang đầu, trong một cột ngắn bên tay phải, là tấm hình thẻ của tôi được tìm thấy trên trang web của công ty tôi làm. Thật không may, tấm hình đó được chụp ngay sau khi tôi đi làm tóc và người làm tóc mới đã thuyết phục được tôi thử kiểu tóc xoăn ngắn. Kiểu tóc này là kết hợp của kiểu tóc nhân vật Bé gái mồ côi Annie và của một ngôi sao nhạc rock thời những năm tám mươi, và tôi may mắn không phải chịu đựng lâu vì tóc của tôi vốn không giữ nếp xoăn được dù có dùng thuốc. Việc thay thế tấm hình ấy cho đến nay đã từng nằm lơ lửng đâu đó trong danh sách những việc cần làm của tôi. Thế là tôi tự nhủ phải đặt nó lên vị trí ưu tiên hàng đầu.
Rồi tôi nhìn sang cột ngắn bên dưới tấm hình có ghi vài dòng chú thích về “của trời cho thần tốc” của tôi vì đã thừa kế ngôi nhà của gia tộc Vanderhorst từ khách hàng đã quá cố của mình. Tôi tự hỏi không biết có ai khác bắt được cái ẩn giọng đầy cạnh khóe ấy với ngụ ý rằng tôi đã không đủ đạo đức trong phi vụ này hay không.
“Thật là kinh khủng,” tôi nói và đoán rằng có lẽ ông Handerson đã gọi cho tờ báo để khoe khoang về cú “thành công rực rỡ” của tôi theo như cách mà ông ta sẽ gọi nó. Lần đầu tiên tôi bỗng nhận ra rằng có lẽ ông ta muốn tôi bán ngôi nhà ấy cho công ty vào cuối năm, vốn sẽ không chỉ mang về nhiều tiền cho công ty mà còn tạo nên uy tín lớn nữa.
Dì Ruth chỉ vào tấm hình với bàn tay mang găng nhựa. “Nhìn cũng đâu tệ lắm đâu cô Melanie. Nhưng mà, nó nhỏ quá, tôi nghĩ chẳng ai màng đến đâu. Tôi chỉ nhìn vì tôi nhận ra gương mặt ốm nhom của cô trong tấm hình đó thôi.”
Chuông lại kêu leng keng ở cửa, và một doanh nhân bước vào tiệm, tay ôm chiếc cặp da. Tôi biết chắc mình chưa gặp anh ta lần nào, nhưng anh ta lại mỉm cười với tôi như thể chúng tôi là bạn cũ.
“Vui lòng cho tôi một bánh vòng đặc biệt của tiệm cùng trứng và thịt muối,” anh ta nói với dì Ruth và thảy tờ bạc hai mươi đô la lên mặt kính.
Tôi vẫy chào dì Ruth rồi đi thụt lùi ra cửa, tay ôm túi bánh và ly cà phê. Người đàn ông quay lại nhìn tôi. “Hình cô đăng trên báo thật xinh.”
Tôi dừng lại. “Tôi có biết anh không nhỉ?”
“Không. Nhưng ai cũng nhìn thấy những tấm hình đăng trên trang đầu của mục tin vắn.” Rồi anh ta chỉ vào tóc của tôi. “Tôi cũng thích kiểu tóc mới này của cô.”
“Ừm, cám ơn,” tôi nói rồi chuồn ra khỏi tiệm bánh, vô cùng xấu hổ.
Tôi đi bộ về văn phòng, tự hỏi không biết có phải trí tưởng tượng đã khiến tôi nghĩ rằng mọi người bắt đầu nhìn tôi thật khác thường hay không. Nancy Flaherty gặp tôi tại bàn tiếp tân. Cô ta mang bộ tai nghe điện thoại trên đầu và đang đứng trước bàn tiếp tân, cố đánh một quả bóng golf đặt trên một chiếc cốc lật úp. Cô ta nhìn lên và mỉm cười khi tôi bước vào.
“Chào buổi sáng chị Melanie. Sáng nay chị nổi tiếng ghê đấy. Em đoán thế, dựa vào bài báo hôm qua. Nhân tiện, đó là ý kiến của Tom đấy. Với lại, em đã nhận năm cú điện thoại cho chị rồi đấy, chưa đến chín giờ nữa là.”
Tôi đưa bàn tay đang cầm túi giấy tờ cho cô ta kẹp những tờ giấy ghi tin nhắn màu hồng giữa những ngón tay mình.
“Một trong những tin nhắn này là của anh Jack Trenholm ngon xơi đấy. Chị phải cho anh ta đến gặp chị tại văn phòng để em có dịp ngắm kỹ anh chàng này mới được.”
“Jack gọi à?” Tôi bắt đầu thấy bực với anh ta, vì bây giờ thậm chí chưa đến mười hai giờ. Tôi đã đến nhà mới lúc bảy giờ sáng hôm ấy và ở đến khoảng tám giờ rưỡi, gặp thợ sửa mái nhà, và Jack đã chẳng màng vác mặt đến. Tôi cố gọi cho anh ta vào cả di động lẫn điện thoại nhà, nhưng cả hai số đều nhanh chóng chuyển vào hộp tin thoại. Tôi muốn nghĩ rằng có lẽ vì tôi xao lãng không đưa cho anh ta một bản sao kế hoạch làm việc và anh ta đã không nhớ cần có mặt khi nào, nhưng rõ ràng tôi đã nói thật cụ thể rằng anh ta cần có mặt ở ngôi nhà vào bảy giờ sáng để lục tìm giấy tờ trên căn gác mái. “Anh ta muốn gì?”
“Có ghi trên tin nhắn mà. Cái gì đấy về việc anh ta đến muộn sáng nay bởi vì anh ta đã tìm tòi nghiên cứu ở thư viện và không thể bỏ đi được.”
“Nghiên cứu,” tôi cười khìn khịt rồi bỏ đi vào phòng làm việc của mình.
Nancy gọi với theo, “Anh ta còn nói gì đấy nữa về việc điều chỉnh lịch làm việc sao cho anh ta có thể làm việc với cùng thời lượng như nhau và em có bảo anh ấy là chị sẽ không màng. Ðừng có nói với em là chị đã phác thảo một bản làm việc tỉ mỉ chi tiết và đã thực sự đưa cho anh ta xem nhé.”
Tôi bước vào văn phòng của mình và xoay người đóng sập cửa lại.
“Chị Melanie ơi! Làm ơn nói với em là chị đã không làm việc ấy!”
Tôi đóng cửa vừa kịp lúc nên tránh được cú lốp bóng golf của Nancy về hướng tôi đi.
Tôi đặt mọi thứ lên bàn và bắt đầu lật xem qua các tin nhắn. Tôi cố gọi cho Jack một lần nữa nhưng vẫn chỉ nghe hộp tin nhắn tự động trả lời. Có một tin nhắn của Sophie nói rằng nó sẽ đến vào khoảng ba giờ để hoàn tất việc đánh giá sơ bộ của nó - tôi ghi chú về việc điều chỉnh bản làm việc - và một tin nhắn của ba tôi với chỉ một con số bốn trên ấy. Tôi vò tờ giấy và vứt nó vào sọt rác. Rồi có một tin nhắn khác của Chad Arasi nói rằng anh ta sẽ đến muộn cho buổi hẹn gặp và hỏi xem tôi có thể gặp anh ta ở đâu đó gần khuôn viên Ðại học Charleston hay không. Lẽ ra tôi nên hành xử theo cách khác tốt hơn, thì tôi lại ghi chú là sẽ gọi lại cho anh ta và hẹn gặp anh ta tại ngôi nhà trên phố Tradd vào lúc ba giờ khi tôi biết rằng Sophie sẽ có mặt ở đấy. Một ngày nào đó bọn họ sẽ phải cám ơn tôi vì điều này, tôi chắc chắn như thế. Mà có lẽ hai người sẽ còn dùng tên tôi đặt cho con đầu lòng của họ cũng không chừng.
Tin nhắn cuối cùng khiến tôi khựng lại. Ðó là tin nhắn từ một người đàn ông tên Marc mà không có tên họ. Tôi khá chắc chắn rằng mình chẳng biết ai tên là Marc cả. Tôi ăn chiếc bánh tiêu thứ nhất trong yên lặng, gõ gõ móng tay lên mặt bàn trong khi cố nhớ lại xem tôi đã có thể gặp người này ở đâu. Không có số điện thoại hay tin nhắn gì, chỉ có một dấu đánh vào ô ghi đề “sẽ gọi lại.”
Tôi nhấn nút gọi ra quầy tiếp tân và chờ Nancy trả lời.
“Dạ, chị Melanie.”
“Tôi vừa nhìn vào tin nhắn này từ một anh tên là Marc. Anh chàng không đọc cho cô tên họ à?”
“Không. Và anh ta cũng chẳng muốn để lại lời nhắn hay cho em số điện thoại gì cả. Chỉ nói là anh ta sẽ gọi lại khi có dịp.”
“Cám ơn nhé Nancy.” Tôi gác điện thoại, rồi vò tờ tin nhắn và quẳng đi, quên phứt về vụ này ngay trước khi tờ giấy rơi vào sọt rác. Rồi tôi mở máy tính lên và đưa tay lấy cái bánh tiêu tiếp theo. Chưa kịp cắn miếng đầu tiên thì Nancy đã gọi vào máy của tôi.
“Chị có khách.”
Có cái gì đó trong giọng nói của cô ta mà tôi chẳng ưa, giống như con mèo con rất hài lòng vì đã được cho nhiều kem hơn khẩu phần của nó. “Ai thế?”
Lần này thì tôi hoàn toàn có thể nghe tiếng cười tự mãn. “Jack Trenholm. Anh ấy bảo chị đang đợi anh ấy.”
Tôi thở dài. “Tôi chẳng đợi anh ta, nhưng thôi làm ơn cứ đưa anh ta vào vậy.”
“Vâng ạ.”
Tôi hầu như không đủ thời gian để cất giấu túi bánh tiêu vào ngăn kéo bàn thì đã nghe có tiếng gõ cửa nhanh gọn. Nancy mở cửa và Jack bước vào. Cô nàng nhìn tôi và nháy nháy cặp mày từ phía sau vai anh và đưa hai lòng bàn tay về phía tôi để ám chỉ số mười, như cách ta cho điểm một người, trước khi đóng cửa lại.
“Cô ta còn độc thân phải không?” Jack hỏi, ám chỉ về phía cánh cửa vừa đóng.
“Ðã có gia đình. Một gia đình thật sự, với hai cô con gái. Còn lời bình luận nào giúp tỉnh ngủ vào sáng nay nữa không?”
Anh đưa lên một quả bóng golf. “Cô ấy nhờ tôi ký tặng vào đây khi nào có dịp. Thật ra chưa bao giờ tôi được nhờ ký tặng vào quả bóng golf cả. Trên ngực một cô gái, thì cũng đã có, và thậm chí trên một thực đơn, nhưng mà ký tặng vào quả bóng golf là lần đầu tiên đấy. Tôi bảo với cô ấy tôi cần có một cây bút lông không phai mực và sẽ mang quả bóng lại cho cô ấy sau khi tôi đã ký vào. Nhớ nhắc tôi nhé nếu tôi quên.”
Tôi cười khìn khịt thay cho câu trả lời.
Jack mang một tờ báo được cuộn tròn và đang mặc cùng bộ đồ anh đã mặc vào đêm trước, chiếc áo sơ mi vốn được hồ cứng giờ đây đã nhàu nát và trông hơi tệ hơn là một chiếc áo hơi nhăn vì được mặc trên người.
“Áo đẹp nhỉ,” tôi nói, giọng có vẻ hơi đàng hoàng hơn ý thật sự của mình.
“Tóc xinh nhỉ,” anh nói, rồi mở tờ báo ra nơi có trang tin vặt và tấm hình của tôi đang mỉm cười, rồi trượt nó lên bàn về hướng tôi. “Tôi nghĩ cô cũng muốn có thêm một bản để cắt dán tấm hình vào album ảnh.”
Tôi nhìn vào mắt anh. “Làm sao anh biết rằng tôi có album hình cắt dán?”
Anh nhún vai. “Chỉ là đoán mò thôi.”
Tôi giật lấy tờ báo từ tay anh và quẳng mạnh nó vào sọt rác. “Tại sao anh lại đến đây? Lẽ ra anh đã phải đến ngôi nhà cổ chứ?”
“Chẳng phải Nancy đã gửi lại tin nhắn cho cô rồi à?”
“Ðúng, nhưng tôi nghĩ rằng sau khi anh đã ‘nghiên cứu’ xong thì anh sẽ quay về ngôi nhà để lên gác mái soạn giấy tờ chứ. Nhớ không - anh sớm lấy được thông tin anh cần thì chúng ta cũng sớm chia tay.”
Anh gãi lên má, và tôi nhận thấy bắt đầu có chút tối tăm ở đấy. “Phải, việc là thế này. Tôi thật sự giống một con cú đêm hơn, và thời gian làm việc hiệu quả nhất của tôi lại là sau giờ làm việc thông thường của mọi người. Còn buổi sáng thì, rõ ràng là chúng ta không hợp giờ giấc rồi.”
Tôi dựa lại vào ghế mình, nghĩ về tất cả những thay đổi tôi cần phải làm cho bản kế hoạch làm việc của mình. “Vậy thì anh đến đây làm gì?”
“Tôi hứa là sẽ đến đấy ngay sau khi tôi ngủ được một chút và tắm táp xong. Nhưng tôi muốn cho cô biết những gì tôi tìm được trước. Tôi hy vọng là những điều tôi sắp kể cho cô nghe sẽ làm cho cô mềm lòng đôi chút và không còn giận tôi nữa vì tội đã cho cô leo cây sáng nay.”
Tôi xoay xoay cây bút chì giữa những ngón tay mình. “Tôi chẳng tin đâu, nhưng cứ thử xem.” Tôi lắng nghe chỉ với một bên tai, vì đầu óc tôi hầu như bị ám ảnh với lịch làm việc cho cả ngày hôm ấy.
Anh ngồi lên mép bàn làm việc của tôi, một việc mà không ai trong văn phòng dám cả gan làm, thậm chí là sếp của tôi. Tôi nhìn anh bằng cái nhìn giận dữ, nhưng anh hoặc là phớt lờ hoặc là không nhìn thấy. “Sau khi tôi về nhà vào tối qua, tôi cứ nghĩ mãi về Joseph Longo. Ông ta đã là một nhân vật chính yếu của Charleston trong một thời gian dài, và ông ta đã có ba người con trai và cả ba đều có liên quan đến các phi vụ làm ăn của gia đình vào thời điểm Joseph qua đời.”
Anh ngừng nói, nhìn tôi một cách kỳ lạ. “Cô còn cái bánh tiêu nào nữa không?”
“Bánh tiêu nào?” Tôi cố ra vẻ ngây thơ.
Anh phủi một vụn bánh tưởng tượng trên mép miệng. “Trên má cô vẫn còn những hạt đường còn sót lại kia kìa. Tôi hy vọng là cô còn chiếc bánh nào đó vì tôi vẫn chưa ăn gì và đang đói gần chết đây.”
Một cách miễn cưỡng, tôi mở ngăn kéo cuối cùng ra và đưa cho anh cái túi có chiếc bánh tôi đã mua thêm hồi sáng. “Anh nợ tôi đấy,” tôi vừa nói vừa dùng tay quẹt ngang miệng.
Anh cắn một miếng bánh và mỉm cười. “Còn tôi thì mong được sớm trả nợ cho cô.”
Tôi trợn mắt. “Kể tiếp đi nào. Có người cần phải làm việc đấy.”
“Dù sao chăng nữa, tôi nghĩ nếu một người có đến ba con trai thì ắt hẳn hậu duệ của ông ta vẫn phải còn sống ở đây. Và có thể đâu đó trong nhà của họ sẽ có thư từ chẳng hạn, hoặc những câu chuyện gia đình được kể lại từ đời này sang đời khác, những thứ như thế có thể lấp đầy những chỗ còn khuyết. Chẳng hạn Joseph đã có thể đi đến nơi nào sau khi ông ta xem như đã rời khỏi thành phố cùng Louisa. Có thể ông ta có một ngôi nhà ở Pháp hoặc một căn hộ ở New York chẳng hạn, ai mà biết được? Rất có khả năng là nếu có bất cứ thứ gì được truyền lại sau một thời gian dài như thế thì tôi cho rằng thế hệ ngày nay sẽ biết đi tìm chúng ở đâu.”
Tôi ngồi thẳng người lên. “Ý hay đấy. Thế anh đã tìm thấy những gì?”
Anh cắn một miếng bánh rõ to và cười rạng rỡ rồi nhai miếng bánh. “À, hiện giờ đang có một vài người với cái tên Longo đang sống ở đây tại Charleston, mặc dù họ hơi kín tiếng một chút. Thường thì mình sẽ không thấy họ nhiều trên các trang mục xã hội của tạp chí Charleston hay tại các buổi khiêu vũ St. Cecilia. Họ có vài doanh nghiệp nhưng giờ đây chúng có vẻ là các dạng làm ăn hợp pháp. Và cũng đa dạng nữa. Người cháu nội cả, Marc Longo, là nhân vật có tiếng nhất. Anh ta có vài công ty kinh doanh bất động sản, một lò đúc gạch và một công ty công nghệ cao mới mở có liên quan gì đấy đến vệ tinh. Và nghe này. Anh ta đã mua đồn điền của dòng họ Vanderhorst, Magnolia Ridge, vào năm ngoái. Nghe đồn là họ đang lên kế hoạch biến nó thành đồn điền trồng nho để tự sản xuất rượu vang.”
“Một nhà máy làm rượu vang? Ở tiểu bang Nam Carolina này à?”
“Thật khó mà tin, nhưng họ không phải là người đầu tiên làm việc này. Chỉ với một vài loại nho nhất định, nó là một ngành có thể sống được. Nhưng vẫn còn đang ở giai đoạn thai nghén thôi, cho nên sẽ có nhiều điều thú vị để xem mọi việc sẽ diễn ra như thế nào.”
Tôi nhận thấy Jack đang nhìn chằm chặp vào đôi chân chéo ngang của tôi lúc này đang đánh lên đánh xuống. Cố tập trung, tôi ngưng không đánh đu chân nữa, thay vào đấy tôi lại gõ gõ móng tay lên bàn. “Anh có nghĩ là mình có thể tiếp cận họ được không? Cứ cho là họ biết gì đó về quá khứ dòng họ mình, thì họ sẽ biết về mối tư thù giữa hai dòng họ Vanderhorst và Longo, và một khi họ biết rằng bọn mình đang cố khơi trong thanh danh cho Louisa, thì họ có thể sẽ chẳng hồ hởi gì mà giúp đỡ kẻ thù, cứ tạm cho là vậy.”
Anh nhướn mày. “Rất đúng.” Rồi anh lau mặt bằng chiếc khăn giấy mà dì Ruth đã nhét vào túi, và đứng dậy. “Ðó chính là lý do tại sao chúng ta sẽ đi gặp một người có quen biết tất cả mọi người ở Charleston này - dù là kín tiếng hay không - và có thể cho chúng ta biết người nào trong số họ là dễ tiếp cận nhất.”
Tôi nhìn vào đồng hồ, nhận thấy rằng tôi không phải đi gặp khách hàng cho đến ba giờ chiều. “Tôi có chút thời gian rảnh.” Tôi đứng lên và cầm lấy túi xách đặt trên ghế. “Tôi hy vọng đây không phải là bạn gái cũ của anh hay đại loại là thế.”
Jack mở cửa và giữ cửa lại cho tôi. “Hầu như không phải đâu. Ðó là mẹ tôi.”
“Ồ,” tôi nói, rồi nhìn lên anh. “Chúng ta đi gặp mẹ của anh à?”
Anh nhìn xuống tôi và cười ngoác miệng. “Trông cô được lắm, đừng lo.”
Tôi bắt gặp cái nhìn của anh, cảm thấy bực bội. “Không phải là thế. Trước đây anh có đề cập đến ba mẹ mình, nên chẳng phải là tôi không biết. Mà chỉ là, anh dường như không phải là loại người có mẹ.”
Anh cười to. “Không phải là loại người ấy à? Tôi sẽ kể cho bà ấy về việc này. Cô sẽ thích bà ấy thôi. Mọi người ai cũng thích mẹ tôi.”
“Có lẽ vì họ cảm thấy tội nghiệp cho bà ấy, bởi vì anh là con một.”
“Ha ha! Vậy là cô đã Google tôi. Tôi biết, đó chỉ là vấn đề thời gian thôi.”
May thay, chúng tôi đã ra đến khu vực tiếp tân, để tôi không phải nói dối về việc làm cách nào mà, trong một khắc yếu lòng sáng sớm hôm ấy trước khi thợ sửa mái nhà đến, tôi đã dùng máy tính xách tay chỉ để làm cái việc đó thôi. Thay vào đấy, tôi cố làm ra vẻ phẫn nộ một cách chính đáng khi chúng tôi đối mặt với cô tiếp tân.
Nancy cười rạng rỡ với tôi và Jack. “Này chị Melanie, có phải hôm nay chị và ông Trenholm đi ra ngoài cả ngày hôm nay không?”
“Tôi hy vọng thế,” Jack nói.
“Dĩ nhiên là không,” tôi nói cùng lúc với Jack.
Jack cười tươi với Nancy. “Tôi hy vọng sớm gặp lại cô. Và tôi sẽ nhớ mang trả lại cho cô quả bóng golf có chữ ký. Và cứ gọi tôi là Jack nhé.”
Nancy đỏ mặt. “Cám ơn, anh Jack. Thế nào chị em nhóm đánh golf chín lỗ của em cũng sẽ ghen tị cho mà xem. Không phải là em sẽ dùng nó trong lần đánh golf sắp tới, mà là em chỉ mang đến để khoe mẽ thôi.”
Jack bắt tay cô ta bằng cả hai tay. “Nancy, thật là vinh hạnh được gặp cô.”
“Em cũng rất hân hạnh được gặp anh, Jack ạ.”
Sắp lộn mửa vì hoạt cảnh giao lưu với người hâm mộ như thế này, tôi đẩy mạnh cửa chính bước ra ngoài. “Tôi sẽ để điện thoại mở để chị có thể liên lạc tôi nếu cần. Tôi sẽ gặp Chad Arasi vào lúc ba giờ chiều tại ngôi nhà ở phố Tradd, sau đó sẽ về văn phòng để gọi cho vài người.”
“Xong! À, nhân tiện, em có để dành bài báo ấy cho chị cắt hình dán vào album. Thật ra em thích kiểu tóc hiện giờ của chị hơn rất nhiều.”
“Trời ạ, cám ơn nhé Nancy. Tôi sẽ ghi nhớ việc ấy nếu lần tới tôi lại muốn đi uốn tóc.”
Jack mở cửa cho tôi và Nancy vẫy chào khi chúng tôi bước ra ngoài. “Xe cô hay xe tôi?” anh hỏi.
Chiếc Porsche đang đậu trước chiếc Cadillac trắng của tôi. “Nếu tôi muốn dùng xe tôi thì anh sẽ không hề lặng lẽ vâng lời, đúng không?”
“Có lẽ là không,” anh nói rồi đi vòng sang phía bên kia chiếc Porsche để mở cửa xe cho tôi.
Khi vừa bước đến cửa xe, tôi dừng lại đột ngột, mồm há hốc vì ngạc nhiên.
“Cô định bẫy vài con ruồi hay cô có việc gì muốn nói cho tôi nghe thế?”
Tôi đập lòng bàn tay lên trán. “Marc Longo. Anh đã nói anh ta là cháu trai cả của Joseph Longo. Có một tay nào đó tên là Marc đã gọi cho tôi ở văn phòng nhưng chẳng để lại tin nhắn hay số điện thoại gì cả - chỉ một cái tên ấy thôi. Tôi chẳng quen ai tên là Marc, và tôi chỉ nghĩ rằng thật kỳ lạ là chúng ta vừa nói đến Marc Longo. Có lẽ cùng là một người và anh ta cần người môi giới bất động sản chăng?”
Jack nhướn mày. “Ðó là một khả năng.”
Tôi ngồi vào xe và chờ Jack đóng cửa lại và đi vòng qua bên kia. “Nếu đó cùng là một người, anh có nghĩ đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên không?”
Jack nhìn tôi với một vẻ mặt tương tự như trong tấm hình phía sau tấm bìa ngoài của quyển sách anh viết, và mọi việc bỗng trở nên rõ ràng với tôi về việc tại sao anh lại thành công đến thế trong các chương trình phỏng vấn buổi sáng trên truyền hình - thêm một thứ mà tôi biết về anh trong lần tôi tìm thông tin về anh trên Google.
“Mellie à, tin tôi đi. Trong lĩnh vực nghề nghiệp của tôi, nơi mà những bí mật xưa luôn được che dấu trong một thời gian thật dài, thì không có cái gì là trùng hợp ngẫu nhiên cả.” Anh khởi động xe và lái ra đường.
Tôi định bảo anh một lần nữa rằng tên tôi không phải là Mellie, và rằng cái người duy nhất vốn từng dùng tên ấy để gọi tôi đã hoàn toàn làm bại hoại cái tên ấy rồi, nhưng tôi lại thôi. Tôi nhìn nghiêng qua mặt anh, thấy quai hàm anh bắt đầu hơi giật nhẹ, lông mày anh cau lại vì tập trung cao độ. Tôi nghĩ có lẽ anh đang tình cờ cho tôi nhìn thấy con người thật của Jack Trenholm - một Jack Trenholm khác mà anh đã che giấu khỏi đôi mắt của người hâm mộ và những người dẫn chương trình phỏng vấn truyền hình.
Anh chàng Jack mà tôi vừa nhìn thấy đang âm ỉ một cái gì đó ảm đạm và phừng phựt bên trong - một thứ đã khiến anh phải tiến nhanh để anh không còn thời gian mà ngồi lại và nghỉ ngơi nữa. Và tôi có cảm giác chắc chắn rằng, dù nó là gì đi nữa thì ắt phải có liên quan gì đấy đến bóng ma của người phụ nữ mà bộ dạng không ổn định của cô ta vẫn còn vất vưởng trong anh. Hiện giờ tôi đang cảm nhận sự hiện diện của cô ta: sự buồn bã, nỗi mất mát. Tôi còn cảm giác một cái gì khác nữa; rằng người phụ nữ này, dù cô ta là ai đi chăng nữa, có mang trong mình một bí mật. Một bí mật mà cô ta muốn Jack được biết. Và, không may là, cô ta lại chọn tôi để tìm hiểu về nó.
Tôi quay mặt đi và nhìn trừng trừng vào cửa sổ xe, ngó ra những con đường xưa cũ của Thành phố Thánh và thầm cầu mong, không phải là lần đầu, rằng những người chết kia hãy để cho tôi được yên.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.