Percy Jackson Tập 4: Cuộc Chiến Chốn Mê Cung

Chương 3:




Sáng hôm sau, bữa ăn sáng có khá nhiều điều thú vị.
Hình như vào khoảng ba giờ sáng, một con rồng Aopian đã được phát hiện ở rìa trại. Tôi đã quá mệt nên ngủ say như chết bất chấp những tiếng huyên náo ngoài kia. Các đường ranh giới phép thuật đã chặn con quái vật ở ngoài, nhưng nó vẫn đi lảng vảng quanh khu đồi tìm kiếm những điểm yếu trong phòng ngự của chúng tôi, và cũng không muốn bỏ đi cho đến khi Lee Fletcher đến từ nhà thần Apollo cùng hai anh em rượt đuổi nó. Sau một vài tá mũi tên bắn vào những khe hở trên bộ giáp của nó, con rồng mới chịu hiểu ra và rút lui.
“Nó vẫn còn ngoài đó,” Lee cảnh báo chúng tôi. “Hai mươi mũi tên găm vào da nó, và điều đó chỉ làm nó thêm tức giận”. “Nó dài hơn chín mét và có màu xanh lá non. Mắt nó...” nói đến đây Lee rùng mình.
“Cháu đã làm rất tốt, Lee.” Bác Chiron vỗ vào vai cậu ta và nói tiếp, “Mọi người hãy cảnh giác và bình tĩnh nhé. Chuyện này đã từng xảy ra trước đây rồi mà.”
“Ái chà,” Quintus lên tiếng từ chiếc bàn lớn. “Và nó sẽ lại xảy ra lần nữa. Ngày càng thường xuyên hơn nữa đấy.”
Các trại viên thì thào với nhau.
Ai cũng biết những tin đồn đó: Luke và đội quân quái vật của hắn đang lên kế hoạch tấn công khu trại. Phần lớn chúng tôi hiểu điều đó sẽ xảy ra vào mùa hè này, nhưng không biết cụ thể khi nào và như thế nào. Bất lợi hơn nữa là số lượng trại viên của chúng tôi đã giảm. Chúng tôi chỉ còn khoảng tám mươi người tham gia. Cách đây ba năm, khi tôi mới gia nhập, con số trại viên lúc đó là hơn một trăm người. Một vài người đã chết, một vài người khác theo Luke, và một vài người thì biến mất.
“Đây là một lý do tuyệt vời cho các trò chơi đánh trận mới,” Quintus tiếp tục, một tia sáng chợt lóe lên trong mắt ông ta. “Chúng ta sẽ xem liệu tất cả các cậu sẽ làm được gì vào tối nay.”
“Đúng vậy...” bác Chiron nói. “Được rồi, thông báo như vậy là đủ. Chúng ta hãy cầu nguyện và ăn thôi.” Bác Chiron nâng cốc. “Vì các vị thần!”
Tất cả chúng tôi đều nâng cốc và nhắc lại lời cầu nguyện.
Tyson và tôi mang đĩa thức ăn đến lò than bằng đồng và trút một phần thức ăn của chúng tôi vào ngọn lửa. Tôi hy vọng các vị thần thích bánh mỳ nho khô nướng và món Froot Loops(4).
“Thần Poseidon,” tôi nói. Sau đó thì thầm, “Xin cha hãy giúp con giải quyết các vấn đề liên quan đến Nico, Luke và
Có quá nhiều điều để lo lắng đến nỗi tôi còn có thể đứng đó cả buổi sáng, nhưng sau đó tôi đã quay về bàn.
Khi mọi người đang ăn, bác Chiron và Grover ghé ngang qua chỗ tôi. Mắt Grover vẫn còn lờ đờ và cậu ấy còn mặc lộn áo trái nữa. Grover đẩy chiếc đĩa lên bàn và ngồi thụp xuống cạnh tôi.
Tyson nhấp nhổm đầy khó chịu. “Em đi, ừm..., đánh bóng mấy con cá ngựa con của em đây.”
Rồi cậu ấy uể oải đứng lên, bỏ lại bữa sáng đang ăn dở.
Bác Chiron cố nở một nụ cười. Có lẽ bác ấy muốn chúng tôi yên tâm, nhưng trong hình dạng của một nhân mã, bác ấy cao vượt hẳn so với tôi và cái bóng của bác ấy bao trùm cả cái bàn. “À, Percy, cháu ngủ ngon chứ?”
“Vâng, cháu ngủ ngon.” Tôi thắc mắc tại sao bác ấy lại hỏi tôi điều đó. Có thể bác ấy biết được điều gì đó về thông điệp Iris kì lạ mà tôi nhận được chăng?
“Bác đem Grover tới chỗ cháu,” bác Chiron nói, “vì bác nghĩ hai cháu có thể sẽ muốn nói chuyện với nhau. Còn bây giờ thì xin lỗi nhé, bác cần phải gửi một thông điệp Iris. Gặp lại các cháu sau.” Bác Chiron nhìn Grover một cách đầy hàm ý, rồi sau đó chạy lóc cóc ra khỏi sảnh ăn.
“Bác ấy đang nói về chuyện gì thế?” Tôi hỏi Grover
Grover nhai nốt miếng trứng. Tôi nghĩ Grover đang bị phân tâm, bởi cậu cắn cả răng của chiếc nĩa và nhai luôn nó. “Bác ấy muốn cậu thuyết phục tớ,” Grover nói nhỏ.
Một người khác ngồi xuống cạnh tôi trên chiếc ghế dài: Annabeth.
“Tớ sẽ nói cho cậu biết đó là cái gì,” Annabeth nói. “Mê Cung.”
Thật khó để tập trung vào những gì Annabeth đang nói, bởi vì mọi người trong sảnh ăn đang lén nhìn chúng tôi và thì thầm. Còn Annabeth thì đang ngồi kế bên tôi. Ý tôi là sát ngay bên cạnh.
“Cậu không nên ở đây,” tôi nói.
“Chúng ta cần nói chuyện,” cô ấy khăng khăng.
“Nhưng luật đã đề ra là...”
Cả hai chúng tôi đều biết trại viên không được phép đổi bàn của mình. Các thần rừng thì khác. Họ không hẳn là những á thần. Nhưng các con lai phải ngồi theo nhà của mình. Thậm chí tôi còn không chắc về hình phạt dành cho việc đổi bàn là như thế nào. Tôi chưa chứng kiến chuyện này bao giờ cả. Nếu Ngài D ở đây, hẳn ông ta chắc chắn sẽ siết cổ Annabeth bằng những dây nho ma thuật hoặc một cái gì đó tương tự như vậy rồi. Nhưng Ngài D lại không có ở đây. Bác Chiron đã rời khỏi sảnh ăn, còn Quintus thì nhìn qua chỗ chúng tôi và nhướn mày nhưng không nói gì.
“Nghe này,” Annabeth nói. “Grover đang gặp rắc rối. Chỉ có một cách chúng ta có thể giúp được cậu ấy. Đó chính là Mê Cung. Đó là điều mà Clarisse và tớ đang tìm hiểu.”
Tôi nhấp nhổm, cố suy nghĩ một cách rõ ràng. “Ý cậu là cái mê cung mà Minotaur đã bị giam giữ trước đây?”
“Chính xác.” Annabeth nói.
“Vậy... nó không còn nằm bên dưới cung điện nhà vua ở Crete nữa,” tôi đoán. “Mê Cung hiện đang nằm dưới một tòa nhà nào đó ở nước Mỹ.”
Thấy chưa? Chỉ mất có vài năm để tôi hiểu ra mọi thứ. Tôi biết rằng những địa điểm quan trọng luôn đi theo Nền Văn minh phương Tây, như đỉnh Olympus hiện đang ở phía trên tòa nhà Empire State, và lối vào Địa Ngục lại ở Los Angeles. Tôi cảm thấy khá tự hào về bản thân mình.
Annabeth đảo tròn mắt. “Ở dưới một tòa nhà ư? Làm ơn đi, Percy. Mê Cung thật khổng lồ. Nó còn không thể nằm dưới một thành phố, thì nói gì đến một tòa nhà.”
Tôi nghĩ tới giấc mơ về Nico ở dòng sông Styx. “Vậy... Mê Cung là một phần của Địa Ngục à?”
“Không.” Annabeth nhíu mày. “Nhưng có những con đường từ Mê Cung hướng thẳng xuống Địa Ngục. Tớ không chắc. Nhưng Địa Ngục ở rất, rất sâu bên dưới. Mê Cung chỉ ở ngay bên dưới bề mặt của thế giới loài người, giống như một lớp da thứ hai vậy. Nó đã phát triển hàng ngàn năm nay, các con đường đan vào nhau dưới các thành phố phương Tây, nối tất cả mọi thứ dưới lòng đất với nhau. Cậu có thể đi khắp mọi nơi thông qua Mê Cung này.”
“Nếu cậu không bị lạc và phải chết một cách tàn khốc,” Grover lẩm bẩm.
“Grover, phải có cách nào chứ.” Annabeth nói. Tôi có cảm giác họ đã nói về chuyện này trước đây. “Clarisse đã sống sót.”
“Trong đường tơ kẽ tóc!” Grover nói. “Còn người kia thì...”
“Cậu ta chỉ bị điên. Cậu ta không
“Ồ, mới vui làm sao.” Môi dưới của Grover run rẩy. “Điều đó khiến tớ cảm thấy dễ chịu hơn đấy.”
“Oa, từ từ đã nào. Chuyện về Clarisse và anh chàng bị điên đó là thế nào?” Tôi hỏi.
Annabeth liếc qua bàn nhà thần Ares. Clarisse đang nhìn chúng tôi như thể cô ta biết chúng tôi đang nói về chuyện gì, nhưng sau đó cô ta lại dán mắt vào chiếc đĩa.
“Năm ngoái,” Annabeth hạ giọng, “Clarisse đi thực hiện nhiệm vụ cho bác Chiron.”
“Tớ vẫn còn nhớ,” Tôi nói. “Đó là một bí mật.”
Annabeth gật đầu. Mặc dù cô ấy tỏ vẻ rất nghiêm trọng nhưng tôi thấy vui vì cô ấy không còn tức điên lên với tôi nữa. Và tôi khá là thích việc cô ấy phá luật để đến ngồi cạnh tôi.
“Đó là một bí mật,” Annabeth đồng ý, “vì cô ấy đã tìm được Chris Rodriguez.”
“Anh chàng ở nhà thần Hermes ấy hả?” Tôi biết cậu ta cách đây hai năm. Chúng tôi đã nghe lỏm được từ Chris Rodriguez trên con tàu của Luke mang tên Công Chúa Andromeda. Chris là một trong số những con lai đã bỏ trại và gia nhập quân đội của thần khổng lồ Titan.
“Ừm,” Annabeth nói. “Mùa hè năm ngoái hắn vừa mới xuất hiện ở Phoenix, bang Arizona, gần nhà của mẹ Clarisse.”
“Ý cậu vừa mới là thế nào?”
“Hắn ta đi thơ thẩn khắp sa mạc, trong cái nóng lên đến 120 độ C, với bộ áo giáp Hy Lạp và lảm nhảm về sợi dây.”
“Sợi dây,” tôi nhắc lại.
“Hắn đã bị điên hoàn toàn. Clarisse đã mang hắn về nhà mẹ cô ấy để con người không mang hắn vào nhà thương điên. Cô ấy cố gắng chăm sóc hắn khỏe lại. Bác Chiron đã đến và nói chuyện với hắn, nhưng cũng không thu được kết quả gì nhiều. Thông tin duy nhất moi được từ hắn là: đội quân của Luke đã và đang thăm dò Mê Cung.”
Tôi rùng mình, mặc dù không biết tại sao lại như thế. Tội nghiệp Chris... Anh ta không đến nỗi tệ. Điều gì đã khiến anh ta phát điên? Tôi nhìn Grover, cậu ấy đang nhai nốt phần còn lại của chiếc nĩa.
“Được rồi,” tôi hỏi “Tại sao bọn chúng lại thăm dò Mê Cung?”
“Bọn tớ không rõ,” Annabeth nói. “Đó là lý do tại sao Clarisse có mặt trong cuộc tìm kiếm. Bác Chiron giữ kín mọi chuyện vì bác ấy không muốn mọi người hoảng sợ. Bác ấy để tớ tham gia vì... ừm, vì Mê Cung luôn là một trong những đề tài hấp dẫn tớ. Nghệ thuật kiến trúc được sử dụng...” Vẻ mặt cô ấy chuyển sang hơi mơ màng. “Người xây dựng nên nó, Daedalus, là một thiên tài. Nhưng vấn đề là lối vào Mê Cung ở khắp mọi nơi. Nếu Luke có thể tìm ra được lối đi xuyên qua nó, hắn ta có thể cùng đội quân của mình di chuyển với tốc độ không thể tin được.”
“Mỗi tội đó là một mê cung phải không?”
“Đầy những cái bẫy khủng khiếp,” Grover đồng ý. “Ngõ cụt. Ảo ảnh. Những con quái vật bị bệnh thần kinh thích ăn thịt dê.”
“Nhưng sẽ không như thế nếu cậu có sợi dây của Ariadne,” Annabeth nói. “Ngày xưa, sợi dây của Ariadne đã dẫn dắt Theseus ra khỏi mê cung. Nó là một công cụ hoa tiêu ở một dạng nào đó và được Daedalus nghĩ ra. Và Chris Rodriguez lại lẩm bẩm về sợi dây.”
“Vậy Luke đang cố tìm kiếm sợi dây của Ariadne,” tôi nói. “Tại sao? Hắn đang âm mưu gì đây?”
Annabeth lắc đầu. “Tớ không biết. Tớ nghĩ có thể hắn muốn đi qua mê cung để xâm chiếm trại, nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì cả. Những lối vào gần nhất Clarisse tìm được là ở Manhattan, chúng sẽ không giúp Luke vượt qua các ranh giới của chúng ta được. Clarisse đã thử thăm dò một con đường nhỏ dẫn vào những đường hầm, nhưng... nó rất nguy hiểm. Clarisse đã nhiều lần thoát chết trong gang tấc. Tớ đã nghiên cứu mọi thứ tớ có thể tìm kiếm về Daedalus, nhưng e rằng điều này cũng không giúp được nhiều. Tớ không biết chính xác Luke đang âm mưu gì, nhưng tớ chắc chắn một điều: Mê Cung có thể là lời giải cho vấn đề của Grover.”
Tôi chớp mắt. “Cậu nghĩ thần Pan đang ở dưới lòng đất sao?”
“Điều này giải thích tại sao bọn tớ không thể tìm thấy ông ấy.”
Grover run bắn lên. “Các thần rừng ghét đi xuống lòng đất lắm. Chẳng có người tìm kiếm nào muốn thử đi đến nơi đó cả. Không hoa cỏ. Không ánh mặt trời. Không quán cà phê!”
“Nhưng,” Annabeth nói, “Mê Cung có thể dẫn cậu đến hầu như bất cứ nơi đâu. Nó đọc được ý nghĩ của cậu. Nó được xây nên để lừa cậu, cho cậu vào bẫy và giết cậu; nhưng nếu cậu có thể khiến Mê Cung tuân lệnh thì...”
“Nó có thể đưa cậu với vị thần thiên nhiên,” tôi nói.
“Tớ không thể làm điều đó.” Grover ôm bụng. “Chỉ nghĩ về nó thôi đã khiến tớ muốn nôn tất cả đồ bạc của tớ ra rồi.”
“Grover, đây có thể là cơ hội cuối cùng của cậu,” Annabeth nói. “Hội đồng rất nghiêm túc đấy. Một tuần hoặc cậu sẽ phải học nhảy gõ nhịp bằng bàn chân.”
Ở bàn chính, Quintus hắng giọng. Tôi có cảm giác ông ta không muốn gây chuyện, nhưng Annabeth đang thực sự làm tới vì ngồi quá lâu ở bàn của tôi.
“Chúng ta sẽ nói chuyện sau.” Annabeth siết cánh tay tôi hơi mạnh. “Cậu sẽ thuyết phục cậu ấy chứ?”
Annabeth quay về bàn nhà nữ thần Athena, lờ đi tất cả ánh mắt nhìn chằm chằm vào mình của mọi người.
Grover lấy hai tay ôm đầu. “Tớ không thể làm việc đó, Percy. Giấy phép tìm kiếm của tớ. Thần Pan. Tớ sẽ mất tất cả. Tớ sẽ phải xây dựng một nhà hát múa rối.”
“Đừng nói thế. Chúng ta sẽ nghĩ ra cách nào đó.”
Grover nhìn tôi mắt giàn giụa nước. “Percy, cậu là bạn tốt nhất của tớ. Cậu đã từng thấy tớ ở dưới lòng đất. Trong cái hang của quái vật Cyclops. Cậu có thực sự nghĩ rằng tớ có thể...”
Grover ngập ngừng. Tôi nhớ đến Biển Quái Vật, khi Grover bị nhốt trong hang của Cyclops. Ngày trước Grover chưa bao giờ thích những nơi dưới lòng đất, và bây giờ thì cậu ấy căm ghét chúng. Cyclops khiến cậu ấy sởn tóc gáy. Thậm chí cả Tyson... Grover cố giấu điều đó, nhưng tôi và cậu ấy phần nào có thể đọc được cảm xúc của nhau nhờ vào sợi dây giao cảm Grover đã tạo ra giữa chúng tôi. Tôi hiểu cậu ấy cảm thấy như thế nào. Grover khiếp sợ gã to lớn.
“Tớ phải đi đây,” Grover nói một cách khổ sở. “Juniper đang đợi tớ. Thật may là cô ấy lại thấy những thằng nhát gan như tớ hấp dẫn!”
Sau khi Grover rời đi, tôi nhìn sang Quintus. Ông ta gật đầu một cách nghiêm nghị cứ như chúng tôi đang cùng nắm giữ một bí mật đen tối nào vậy. Sau đó ông ta quay lại dùng dao găm cắt xúc xích trên đĩa của mình.
Vào buổi chiều, tôi đi xuống chuồng ngựa pegasus thăm anh bạn Blackjack.
A, chào sếp. Blackjack vui mừng nhảy cỡn lên trong chuồng ngựa, đôi cánh màu đen đập mạnh trong không khí. Sếp có mang cho tôi một ường miếng chứ?
“Blackjack, cậu thừa biết chúng không tốt cho cậu mà.”
Phải, nhưng sếp có mang cho tôi chứ?
Tôi phì cười và cho cậu ta một nắm. Blackjack và tôi đã có thời gian dài bên nhau. Đại loại là tôi đã cứu nó từ con tàu ma quỷ của Luke cách đây vài năm, và kể từ đó nó cứ khăng khăng đòi trả ơn tôi.
Vậy sắp tới chúng ta có bất cứ cuộc tìm kiếm nào không? Blackjack hỏi. Tôi đã sẵn sàng bay, thưa sếp!
Tôi vỗ vào mũi nó. “Không chắc, anh bạn ạ. Mọi người đang vẫn đang nói về những mê cung dưới lòng đất.”
Blackjack hí lên đầy lo lắng. Khôngggg. Không phải dành cho con ngựa này chứ! Sếp không khùng đến mức đi vào mê cung phải không? Sếp sẽ kết thúc cuộc đời trong một nơi rối như tơ vò!
“Có thể cậu đúng, Blackjack. Chúng ta sẽ xem thế nào.”
Blackjack nhai những viên đường miếng một cách giòn giã. Nó lắc lắc cái bờm thể đang bị co giật do đường vậy. Oa, ngon quá! Sếp, khi ngài tỉnh táo và muốn bay đi bất kì đâu, chỉ cần huýt sáo một tiếng. Blackjack và các bạn của mình sẽ làm cho bất cứ người nào cong mông chạy tán loạn vì ngài.”
Tôi nói với Blackjack rằng tôi sẽ khắc ghi điều này. Sau đó, một nhóm trại viên trẻ vào chuồng ngựa để bắt đầu bài học cưỡi ngựa, và tôi thấy đã đến lúc phải đi. Tôi có cảm giác không hay rằng tôi sẽ không gặp lại Blackjack trong một thời gian dài.
Đêm hôm đó, sau bữa tối, Quintus ra lệnh cho chúng tôi mặc áo giáp trận giống như chúng tôi đang chuẩn bị chơi trò cướp cờ, nhưng không khí lại nghiêm túc hơn nhiều. Không biết lúc nào trong ngày, những chiếc thùng trong đấu trường đã biến mất, và tôi có cảm giác dù những thùng này đựng cái gì thì chúng cũng đã bị mang vào rừng.
“Được rồi,” Quintus đứng trên chiếc bàn lớn và nói. “Tập hợp thành vòng tròn.”
Quintus mặc bộ đồ bằng da đen và đồng. Trong ánh đuốc, mái tóc muối tiêu khiến ông giống như một bóng ma. Con O’Leary nhảy vui vẻ xung quanh ông ta, nhặt nhạnh những mẩu thức ăn vụn của bữa tối.
“Các cậu sẽ hoạt động theo nhóm hai người,” Quintus thông báo. Khi mọi người bắt đầu nói chuyện và lôi kéo bạn bè vào nhóm, ông ta hét lớn: “Theo như tôi đã chọn sẵn.
“Aaaaaaaa!” mọi người kêu lên.
“Mục tiêu của các cậu rất đơn giản: sống sót và tìm được vòng nguyệt quế vàng. Vòng nguyệt quế được bọc trong một gói lụa và buộc vào sau lưng của một trong những con quái vật. Có sáu con quái vật tất cả. Mỗi con có một bọc lụa, nhưng chỉ có một con giữ vòng nguyệt quế mà thôi. Các cậu phải tìm được vòng nguyệt quế trước các đội khác. Và tất nhiên... các cậu phải giết con quái vật để lấy được nó, và sống sót.”
Các trại viên bắt đầu thì thầm một cách háo hức. Nhiệm vụ nghe rất dễ hiểu. Này nhé, trước đây chúng tôi đều từng giết quái vật, và chúng tôi được huấn luyện để làm việc đó.
“Bây giờ tôi sẽ thông báo các cặp đôi,” Quintus nói. “Không thương lượng. Không trao đổi. Không phàn nàn.”
“Húuuuu!” O’Leary vùi mặt vào một đĩa pizza.
Quintus đã ghi sẵn trên một cuộn giấy dài và bắt đầu đọc tên. Beckendorf cùng nhóm với Silena Beauregard, và điều này khiến Beckendorf khá vui vẻ. Anh em nhà Stoll, Travis và Connor, sẽ chung một đội. Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Họ lúc nào cũng làm mọi việc cùng nhau. Clarisse đi cùng Lee Fletcher của nhà thần Apollo – sự kết hợp giữa hỗn chiến và tham trận có kế hoạch, họ sẽ là một cặp đôi khó đánh bại. Quintus cứ ra rả đọc tên cho đến khi, “Percy Jackson và Annabeth Chase một đội.”
“Tuyệt.” Tôi cười toét với Annabeth.
“Áo giáp của cậu bị cong kìa,” là câu bình luận duy nhất của cô ấy, và thắt lại đai áo cho tôi.
“Grover Underwood,” Quintus nói, “cặp với Tyson.”
Grover suýt nữa nhảy ra khỏi bộ lông dê của cậu ta. “Gì cơ? Nhưng...”
“Không, không,” Tyson rên rỉ. “Chắc là nhầm lẫn rồi. Anh chàng người dê...”
“Không phàn nàn!” Quintus ra lệnh. “Hãy tập hợp với cộng sự của mình. Các cậu có hai phút để chuẩn bị.”
Tyson và Grover đều nhìn tôi khẩn nài. Tôi cố gật đầu khuyến khích họ, và ra dấu rằng họ nên kết hợp với nhau. Tyson hắt xì hơi. Grover bắt đầu nhai cái dùi cui gỗ một cách lo lắng.
“Họ sẽ ổn thôi,” Annabeth nói. “Đi nào. Hãy nghĩ về việc chúng ta làm thế nào để sống sót thì tốt hơn
Trời vẫn còn sáng khi chúng tôi vào rừng, nhưng các bóng cây khiến không gian giống như lúc nửa đêm. Trời lạnh nữa, dù bây giờ là mùa hè. Annabeth và tôi gần như tìm thấy ngay dấu vết – những dấu vết chạy trốn vội vã của một thứ gì đó có rất nhiều chân. Chúng tôi bắt đầu lần theo các dấu chân đó.
Chúng tôi nhảy qua một con suối và bỗng nghe thấy tiếng cành cây nhỏ gãy răng rắc gần đó. Chúng tôi núp vào sau một tảng đá cuội, nhưng hóa ra đó là anh em nhà Stoll vấp ngã trong rừng và đang làu bàu nguyền rủa. Cha của họ là vị thần của những tên trộm, nhưng họ lại rón ra rón rén như những con trâu vậy.
Khi anh em nhà Stoll đi khỏi, chúng tôi tiến sâu hơn vào các cánh rừng phía tây, nơi những con quái vật trở nên hung dữ hơn. Chúng tôi đứng trên gờ trông ra một cái đầm lầy. Annabeth hồi hộp. “Đây là nơi chúng ta đã ngừng việc tìm kiếm.”
Phải mất một giây để tôi nhận ra ý của Annabeth. Mùa đông năm ngoái, khi chúng tôi tìm kiếm Nico Di Angelo, đây là nơi chúng tôi từ bỏ hy vọng tìm thấy cậu bé. Grover, Annabeth và tôi đã đứng trên tảng đá này, và tôi đã thuyết phục họ đừng nói với bác Chiron sự thật rằng Nico là con trai của thần Hades. Vào lúc ấy, đây dường như là một việc làm đúng đắn. Tôi muốn bảo vệ danh tính của cậu ấy. Tôi muốn mình là người tìm thấy cậu ấy và chuộc lại lỗi lầm vì những gì đã xảy ra với chị cậu bé. Giờ đây, sáu tháng đã trôi qua, tôi thậm chí còn chưa tìm thấy cậu bé đâu cả. Tôi cảm thấy vị đắng trong miệng.
“Tớ đã thấy cậu nhóc đêm qua,” tôi nói.
Annabeth nhíu mày. “Ý cậu là gì?”
Tôi kể cho cô ấy nghe về thông điệp Iris. Khi tôi nói xong, Annabeth lại nhìn chăm chú vào bóng đêm trong khu rừng. “Cậu ấy đang triệu hồi những người đã chết ư? Thật chẳng tốt chút nào.”
“Con ma đang đưa cho cậu ấy những lời khuyên xấu,” tôi nói. “Nó còn bảo cậu ấy trả thù.”
“Ừ... những linh hồn không bao giờ là một quân sư tốt cả. Chúng có ý đồ của riêng chúng. Những hận thù trong quá khứ. Và chúng căm thù người sống.”
“Nico sẽ tìm đến tớ,” tôi nói. “Linh hồn đó đã nhắc đến một mê cung.”
Annabeth gật đầu. “Điều này giải quyết tất cả. Chúng ta phải tìm ra Mê Cung.”
“Có thể nói không được thoải mái lắm. “Nhưng ai đã gửi đi thông điệp Iris? Nếu Nico không hề biết rằng tớ đã ở đó...”
Một cành cây gãy rắc trong rừng. Lá khô lạo xạo. Một cái gì đó rất lớn đang di chuyển giữa các cây trong rừng, ngay phía trên dải đất hẹp trên đỉnh đồi.
“Đó không phải anh em nhà Stoll,” Annabeth thì thầm.
Chúng tôi cùng rút kiếm ra.
Chúng tôi lên tới đỉnh Nắm Tay Của Thần Zeus, một núi sỏi cao ở giữa rừng phía tây. Đó là một mốc quan trọng nơi các trại viên thường hẹn nhau trong những chuyến đi săn, nhưng bây giờ thì chẳng có ai ở đó.
“Ở đằng kia,” Annabeth thì thầm.
“Không, đợi đã,” tôi nói. “Nó ở sau chúng ta.”
Thật kì lạ. Những tiếng động vụt qua dường như đến từ nhiều hướng khác nhau. Khi chúng tôi đi quanh núi sỏi với lưỡi kiếm trên tay thì một tiếng nói cất lên từ ngay sau lưng chúng tôi, “Chào.”
Chúng tôi xoay người lại, và nữ thần cây Juniper hét lên.
“Bỏ chúng xuống! Nữ thần cây không thích những lưỡi kiếm nhọn đâu, được không?” cô ấy kháng nghị.
“Juniper,” Annabeth thở phào nhẹ nhõm. “Cậu đang làm gì ở đây vậy?”
“Tớ sống ở đây.”
Tôi hạ kiếm xuống. “Trong đá sỏi ư?”
Cô ta chỉ tay về phía rìa khoảng rừng trống. “Trong cây bách xù. Ngốc ạ.”
Đúng vậy, và tôi thấy mình khá là ngốc. Tôi đã ở bên các thần cây trong nhiều năm, nhưng tôi chưa bao giờ thực sự nói chuyện nhiều với họ. Tôi biết họ không thể đi quá xa cái cây của họ vì đó là nguồn sống của mỗi người. Ngoài ra tôi không biết thêm gì nữa.
“Các cậu đang bận à?” Juniper hỏi.
“Ừm, bọn tớ đang có một trò chơi chống lại một đám quái vật và đang cố gắng không để mất mạng đây!” tôi nói.
“Không bận đâu, có chuyện gì vậy Juniper?”Annabeth trả lời.
Juniper sụt sịt. Cô ta lấy ống tay áo bằng lụa lau nước mắt: “Là về Grover. Cậu ấy dường như đang quẫn trí. Cả nay cậu ấy đi tìm thần Pan. Và mỗi lần cậu ấy trở về, mọi việc lại tệ hại hơn. Đầu tiên, tớ nghĩ có lẽ cậu ấy đang hẹn hò với một cái cây khác.”
“Không,” Annabeth an ủi trong khi Juniper bắt đầu khóc. “Chắc chắn không phải như vậy đâu.”
“Cậu ấy từng cảm nắng một bụi cây việt quất đấy thôi,” Juniper nói với vẻ mặt đầy đau khổ.
“Juniper,” Annabeth nói, “Grover thậm chí còn không nhìn một cái cây nào khác. Cậu ấy chỉ căng thẳng vì giấy phép tìm kiếm của mình thôi.”
“Cậu ấy không thể đi xuống lòng đất!” Juniper phản đối. “Các cậu không được để Grover làm thế.”
Annabeth trông hơi khó chịu. “Đó có thể là cách duy nhất để giúp cậu ấy; nếu bọn tớ biết được nơi để bắt đầu.”
“À.” Juniper lau một giọt nước mắt xanh trên má. “Về chuyện đó...”
Một tiếng lạo xạo khác trong rừng, và Juniper hét lên, “Trốn đi!”
Trước khi tôi kịp hỏi tại sao, cô ta đã biến mất vào làn sương màu xanh.
Annabeth và tôi quay lại. Đang bò ra khỏi rừng là một con côn trùng sáng lấp lánh màu hổ phách, dài hơn ba mét với những cái càng có răng cưa lởm chởm, một cái đuôi được bọc sắt và một cái vòi dài bằng thanh kiếm của tôi. Một con bọ cạp. Một bọc bằng lụa đỏ được buộc trên lưng nó.
“Một trong hai chúng ta sẽ luồn ra đằng sau nó,” Annabeth phân công, trong khi con quái vật rầm rầm tiến về phía chúng tôi. “Chặt đứt đuôi nó, còn người kia sẽ đứng đằng trước đánh lạc hướng.”
“Tớ sẽ đứng đằng trước,” tôi nói. “Cậu có mũ tàng hình mà.”
Annabeth gật đầu. Tôi và cô ấy đã cùng nhau chiến đấu nhiều lần đến mức chúng tôi biết rõ từng cử động của nhau. Chúng tôi có thể làm việc này, một cách dễ dàng. Nhưng mọi thứ diễn ra không đơn giản như dự tính của chúng tôi khi có thêm hai con bọ cạp nữa xuất hiện ở rìa rừng.
“Ba con ư?” Annabeth nói. “Không thể nào! Cả khu rừng thế này mà một nửa số quái vật tấn công chúng ta à?”
Tôi nuốt nước miếng. Một con, chúng tôi có thể xử lý được. Hai con, chúng tôi cần một chút may mắn. Ba con ư? Tôi nghi ngờ
Những con bọ cạp di chuyển nhanh về phía chúng tôi, quất mạnh những cái đuôi đầy gai như thể mục tiêu duy nhất khi đến đây là lấy mạng chúng tôi. Annabeth và tôi dựa lưng vào tảng đá gần nhất.
“Trèo lên nhé?” Tôi gợi ý.
“Không có đủ thời gian đâu.”
Cô ấy nói đúng. Những con bọ cạp đã bao quanh chúng tôi. Chúng ở gần đến nỗi tôi có thể nhìn thấy những cái miệng gớm ghiếc đang chảy dãi, mong chờ một bữa đánh chén ngon lành các á thần.
“Coi chừng!” Annabeth gạt được một cái vòi bằng thanh kiếm của mình. Tôi dùng thanh Thủy Triều đâm mạnh, nhưng con quái vật đã lùi ra sau và tránh được. Chúng tôi trèo lên bên hông tảng đá, nhưng lũ bọ cạp vẫn đuổi theo. Tôi vung kiếm chém vào một con khác, nhưng việc bắt đầu tấn công là quá nguy hiểm. Nếu tôi nhằm vào thân nó, cái đuôi sẽ đâm từ trên xuống. Nếu tôi nhằm vào đuôi nó, những chiếc càng của con quái vật sẽ xuất hiện từ hai bên để tóm lấy tôi. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là phòng vệ, và chúng tôi sẽ không thể cầm cự được lâu.
Tôi trèo thêm một bước nữa sang bên, và đột nhiên phía sau tôi là khoảng trống. Đó là khe nứt giữa hai tảng đá cuội lớn nhất, cái mà tôi đã đi qua cả triệu lần rồi, nhưng...
“Trong này,” tôi nói.
Annabeth chém một con bọ cạp rồi quay sang nhìn tôi như thể tôi bị điên vậy. “Trong đó ư? Nó quá hẹp!”
“Tớ sẽ yểm hộ cậu. Đi đi!”
Cô ấy lùi ra phía đằng sau tôi và bắt đầu ép mình luồn qua khe giữa hai tảng cuội. Sau đó Annabeth hét lên và túm lấy dây đai áo giáp của tôi. Và đột nhiên, tôi ngã xuống một cái hố mà cách đó một giây vẫn còn chưa xuất hiện. Tôi có thể trông thấy lũ bọ cạp bên trên chúng tôi, màu trời đêm đỏ tía và cây cối xung quanh. Sau đó cái lỗ đóng lại như ống kính máy ảnh, và chúng tôi hoàn toàn chìm trong bóng tối.
Hơi thở của chúng tôi dội lại từ những phiến đá. Không khí ẩm và lạnh. Tôi ngồi trên một mặt sàn mấp mô, có lẽ được làm bằng gạch.
Tôi nhấc thanh Thủy Triều lên. Ánh sáng yếu ớt từ lưỡi của nó vừa đủ để soi vào gương mặt đầy sợ hãi của Annabeth và những bức tường đầy rêu ở hai bên.
“Chúng ta... đang ở đâu?” nói.
“Dù sao thì ta cũng đã thoát khỏi lũ bọ cạp.” Tôi cố gắng nói bằng giọng bình tĩnh, nhưng thực sự tôi cũng sợ chết đi được. Rõ ràng khe hở giữa hai tảng đã không thể dẫn vào một cái hang được. Nếu có một cái hang ở đây thì tôi phải biết; tôi khá chắc về điều đó. Sự việc xảy ra giống như lòng đất đã mở ra và nuốt gọn chúng tôi. Tất cả những gì tôi nghĩ được là khe nứt ở sảnh ăn, nơi mà các chiến binh xương đã bị nuốt chửng mùa hè năm ngoái. Tôi băn khoăn liệu có phải điều tương tự đã xảy đến với chúng tôi hay không.
Tôi nhấc thanh kiếm lên để lấy ánh sáng một lần nữa.
“Đây là một căn phòng dài,” tôi lẩm nhẩm.
Annabeth nắm chặt tay tôi. “Đây không phải là một căn phòng. Nó là một hành lang.”
Cô ấy nói đúng. Bóng tối phía trước chúng tôi dường như có vẻ... trống rỗng hơn. Một cơn gió nhẹ ấm áp thổi qua, giống như trong đường hầm xe điện ngầm, chỉ có điều nó có vẻ “cũ” hơn và có gì đó nguy hiểm hơn.
Tôi định tiến lên phía trước nhưng Annabeth ngăn tôi lại. “Đừng bước thêm. Chúng ta cần tìm lối ra.”
Bây giờ thì Annabeth có vẻ thực sự sợ hãi.
“Được rồi,” tôi hứa với cô ấy. “Mọi việc sẽ ổn...”
Tôi ngẩng lên và chợt nhận ra tôi không biết được chúng tôi đã rơi xuống chỗ nào. Phía trên đường hầm làm bằng đá rắn chắc. Hàng lang dường như kéo dài bất tận về cả hai phía.
Tay của Annabeth luồn vào tay tôi. Vào những lúc khác có lẽ tôi sẽ bối rối lắm, nhưng ở đây, trong bóng tối, tôi thấy vui vì nhờ thế mà tôi biết cô ấy ở đâu. Gần như đó là điều duy nhất tôi cảm thấy chắc chắn.
“Lùi lại hai bước,” Annabeth khuyến cáo.
Chúng tôi cùng nhau bước giật lùi giống như đang ở trên một bãi mìn.
“Được rồi,” cô ấy nói. “Hãy giúp tớ kiểm tra các bức tường.”
“Để làm gì?”
“Dấu hiệu của Daedalus,” cô ấy nói, như thể điều này có tác dụng gì lắm vậy.
“Ừ, được thôi. Dấu hiệu kiểu gì...”
“Đây rồi,” Annabeth thở phào nhẹ nhõm. Cô ấy đặt tay lên bức tường và ấn vào một khe nứt nhỏ xíu, và nó bắt đầu tỏa ánh sáng màu xanh. Một ký hiệu Hy Lạp xuất hiện: , một chữ cái tiếng Hy Lạp cổ, Delta.
Trần phía trên của đường hầm mở ra, và chúng tôi nhìn thấy bầu trời đêm, những ngôi sao đang tỏa sáng lấp lánh. Trời tối hơn mọi khi. Một cái thang kim loại xuất hiện ở một bờ tường, hướng lên trên, và tôi nghe thấy mọi người đang gọi tên chúng tôi.
“Anh Percy! Annabeth!” Giọng của Tyson vang lên rõ nhất, và những người khác cũng đang kêu tên chúng tôi.
Tôi lo lắng nhìn Annabeth. Và chúng tôi bắt đầu trèo lên.
Chúng tôi đi vòng qua các tảng đá và đâm bổ vào Clarisse cùng một số trại viên khác đang cầm đuốc.
“Các cậu đã ở đâu thế?” Clarisse hỏi. “Chúng tớ đi tìm các cậu mãi.”
“Chúng tớ mới đi có vài phút mà,” tôi nói.
Bác Chiron chạy tới, theo sau là Tyson và Grover.
“Anh Percy!” Tyson hỏi. “Anh không sao chứ?”
“Bọn anh ổn mà,” tôi nói. “Bọn anh bị ngã xuống một cái hố.”
Những người khác nhìn tôi, và sau đó nhìn Annabeth một cách nghi ngờ.
“Thật đấy!” tôi nói. “Có ba con bọ cạp đuổi theo chúng tớ, vì vậy chúng tớ chạy và trốn vào mấy tảng đá. Nhưng chúng tớ chỉ biến mất có một phút thôi.”
“Các cháu đã biến mất gần một tiếng đồng hồ,” bác Chiron nói. “Trò chơi đã kết thúc.”
“Ừm,” Grover lẩm bẩm. “Đáng lẽ bọn tớ đã thắng, nhưng một Cyclops đã ngồi lên người tớ.”
“Chỉ là không may thôi!” Tyson phản đối, và sau đó thì hắt xì.
Clarisse đang đội vòng nguyệt quế vàng, nhưng cô ta không ba hoa về chiến thắng lần này, điều đó chẳng giống cô ta một chút nào. “Một cái hố ư?” Clarisse nói với vẻ nghi ngờ.
Annabeth hít một hơi thật sâu. Cô ấy nhìn các trại viên khác xung quanh. “Bác Chiron... có lẽ chúng ta nên nói chuyện này ở Nhà Lớn.”
Clarisse há hốc miệng. “Cậu đã tìm ra nó, đúng không?”
Annabeth cắn môi “Tớ... Ừm, ừm, bọn tớ đã tìm ra.”
Một đám trại viên bắt đầu lao nhao hỏi và chờ đợi, trông cũng bối rối chẳng khác gì tôi, nhưng bác Chiron giơ tay ra hiệu im lặng. “Đêm nay không phải là thời điểm thích hợp, và đây cũng không phải là chỗ thích hợp.” Bác ấy nhìn vào những tảng đá, có vẻ như bác ấy hiểu chúng nguy hiểm đến mức nào. “Tất cả các cháu quay về nhà. Hãy đi ngủ. Trò chơi rất vui, nhưng đã quá giờ giới nghiêm rồi.”
Có nhiều tiếng xì xào và phàn nàn, nhưng các trại viên đều giải tán. Họ nói chuyện với nhau và nhìn tôi một cách đầy ngờ vực.
“Điều này giải thích nhiều thứ,” Clarisse nói. “Nó giải thích điều Luke đang tìm kiếm.”
“Đợi đã,” tôi nói. “Ý cậu là gì? Chúng tớ đã tìm thấy cái gì thế?”
Annabeth quay sang tôi, đôi mắt cô ấy đầy lo lắng. “Một lối vào Mê Cung. Một con đường xâm lược dẫn thẳng vào giữa trại.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.