Tarot Lá Bài Phán Quyết

Chương 43: Phán quyết cuối cùng (6)




Mạnh Trác Dao ngoài miệng nói cứng, chỉ chửi thề không đời nào hỏi han đến chuyện tế tổ nữa, nhưng rốt cuộc vẫn ngồi không yên, bèn nói rằng trong mình không khỏe, muốn ăn cơm tối trong phòng, rồi tới Phật đường xem một vòng. Vì khách mời quá đông, mỗi lần mở tiệc đều phải kê bàn ra cả sân. Do đó vừa bước vào sân đã thấy kê kín mấy chiếc bàn tròn phủ vải, chỉ thấy mấy chậu cá mè hoa và cá trắm cỏ đợi làm thịt để cả bên ngoài, thớt gỗ cũng xếp dọc phơi khô dưới chân tường, lông gà vẩy cá chất đống một góc, mùi tanh xộc vào mũi, bầu không khí phấn khởi như đón Tết. Bà ta không kìm được thở dài, cảm giác tuổi tác lớn dần, từ lâu đã sợ nhiều hơn mong trước những lễ mừng to nhỏ kia, cứ giao hết lại cho Tô Xảo Mai cũng chẳng sao. Nhưng nghĩ vậy rồi lại thấy ấm ức, tháng năm cùng chung vinh nhục với Hoàng Thiên Minh ở cả đấy, đâu thể nói buông tay là buông tay được? Thế nên vẫn phải nể tình vợ chồng. Bà biết ông ta chỉ nóng giận nhất thời, lại không chịu xuống nước đi làm hòa, bát cháo cánh yến Đỗ Lượng đưa tới ban tối chính là một minh chứng, việc hòa giải giữa hai bọn họ trước giờ đều dựa vào sự thấu hiểu trong lòng, khi ông ta cưới hai bà vợ lẽ, đều phải trải qua quy trình này, đôi bên mỗi người lùi một bước là lại bình yên vô sợ.
Nhà bếp lúc này vẫn còn sáng đèn, bà đi một vòng bên ngoài, cuối cùng thấy quá bẩn, không bước nổi chân vào, bèn thôi. Bà còn thầm kinh nagcj trước sức ì của mình, nếu đổi lại mấy năm trước, dù trước mặt là Tô Xảo Mai thao túng hết mọi chuyện, bà ta vẫn đi sau theo dõi rất sát sao, không để xảy ra một li sai sót, ra vào nhà bếp đều hùng hùng hổ hổ, nào quan tâm đế giày có bẩn hay không. Lẽ nào bà ta đã mệt mỏi thật rồi? Hai chữ “báo ứng” thốt ra từ miệng Bạch Tử Phong như âm hồn đeo bám, liên tục quấy rối thần kinh, đầu lưỡi bà đến giờ vẫn còn vị đắng của cao thuốc cô ta bôi cho, chẳng khác nào bùa chú đóng dấu vào ký ức.
Đang định quay về thì thấy Hoàng Mộ Vân xồng xộc bước tới, không buồn nhìn mà đi sượt qua vai bà ta. Bà ta biết gã có vẻ đang có việc gấp, nhưng vẫn gọi giật lại: “Sao giờ trong mắt không thấy ai cả thế, đến ta mà cũng không quen sao?”
Hoàng Mộ Vân đành cứng lại, cung kính hết mức chào mẹ Cả.
Mạnh Trác Dao hỏi: “Sao thế này? Người ngợm mặt mũi bẩn như vậy, vừa lăn dưới bùn hả?”
Hoàng Mộ Vân đáp: “Mẹ con không thấy đâu nữa, con đang đi tìm khắp nơi, sợ bà trốn ở đâu đó trong hang giả sơn nên chui vào mấy chỗ tìm, mới thành ra bẩn thế này.”
Mạnh Trác Dao nghe vậy, quả nhiên cũng không để tâm, chỉ nói: “Mẹ con bệnh tật thế, không đi xa được đâu, cứ qua các phòng khác tìm xem sao.”
Hoàng Mộ Vân dợm bước định đi, nhưng lại bất ngờ quay đầu hỏi Mạnh Trác Dao: “Mẹ Cả, mẹ có nghe thấy tiếng súng không?”
Mạnh Trác Dao nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi lắc đầu đáp: “Ta không nhớ, chị Hai con suốt ngày chơi trò súng ống, sắp điếc lỗ nhĩ chúng ta rồi, dẫu có tiếng súng ta cũng không để tâm.”
“Để con tới phòng chị ấy xem, chưa biết chừng mẹ con bị chị ấy dọa sợ nên mới chạy mất!”
Mạnh Trác Dao nghe vậy bất giác sốt sắng, cảm giác thằng bé này nhìn thế nào cũng đáng tin hơn anh nó, tuy bà ta cũng động một tí là làm khó Trương Diễm Bình, nhưng với Hoàng Mộ Vân lại không thể nào ghét nổi, khác hẳn Hoàng Mộng Thanh, sau lưng ít nhiều vẫn tỏ ý xem thường đứa em trai vại thuốc này, chỉ coi nó là một phế nhân.
Nhưng dù phế nhân thì cũng là con trai. Mà không thể sinh cho nhà họ Hoàng một nam đinh, e sẽ là tâm bệnh cả đời này của bà, lại thêm đứa con gái cũng thuộc hạng người không ham danh lợi, chẳng mảy may quan tâm tới mấy thứ như quyền thế gia nghiệp, khiến bà càng bực bội, không tránh khỏi muốn trút hết oán hận lên đầu hai ả tiểu thiếp kia. Song với Hoàng Mộ Vân, bà lại có chút tình cảm khó diễn tả, thậm chí còn có thể cảm giác được nét gì đó giống Hoàng Mộng Thanh trên người nó, ví như thông minh, đạm bạc, cùng mối chung tình với vài người hay việc nào đó.
“Phi Phi không thể so được với chị Cả con, tính khí nó con cũng biết rồi đấy, phải hết sức chú ý.” Bà không kìm được căn dặn.
Gã sững người giây lát, nhớ đến màn đánh lộn kinh thiên động địa giữa bà ta và Trương Diễm Bình mấy ngày trước, câu “cảm ơn” đã ra đến miệng cuối cùng vẫn không thốt nổi thành lời, bèn sầm mặt quay người đi, tới phòng Hoàng Phi Phi.
Mạnh Trác Dao cảm thấy chán chường, lại quay về chỗ con gái, thấy cô đang xoay lưng ra cửa, nằm nghiêng trên chiếu thần người ra, bèn đi tới vỗ một cái vào vai, đối phương quay đầu lại, hóa ra là Đỗ Xuân Hiểu.
“Cô mặc quần áo của Mộng Thanh làm gì?” Mạnh Trác Dao giật mình nhảy dựng lên, nhìn chòng chọc Đỗ Xuân Hiểu.
Chỉ thấy Hoàng Mộng Thanh bưng một khay lựu bước ra, đặt xuống chiếu, Đỗ Xuân Hiểu vội nhỏm dậy lấy một quả, chăm chú bóc vỏ. Hoàng Mộng Thanh cười nói: “Quần áo trên người cô ấy nào còn mặc nổi nữa? Đành tắm rửa ở đây, mặc tạm quần áo của con.”
Đỗ Xuân Hiểu bỏ hạt lựu đỏ tươi vào miệng, nhổ ra hột ướt vàng nhạt, vừa ăn vừa nói: “Bà Cả, Xuân Hiểu có chuyện này muốn cầu xin bà.”
“Bộ dạng cô thế này đâu giống cầu xin tôi. Giống ra lệnh kia.” Mạnh Trác Dao che miệng cười, bà ta trước kia còn hơi sợ cô nương kì dị cổ quái này, nào ngờ cô ta dời đi mấy ngày, lại thấy nhớ nhớ.
“Ngày mai tế tổ, cháu biết ngoài người nhà họ Hoàng và mấy người hầu cần thiết, người ngoài không ai được vào trong Phật đường, nhưng giờ trong nhà liên tiếp xảy ra án mạng, rốt cuộc vẫn không an toàn. Cháu muốn cùng Hạ Băng làm bảo tiêu, canh trong Phật đường phòng chuyện bất trắc, có được không ạ?” Bài diễn văn này của Đỗ Xuân Hiểu giống như đã được duyệt đi duyệt lại trong đầu.
Mạnh Trác Dao nhìn sang Hoàng Mộng Thanh chỉ cười không đáp, cúi đầu nhấp một ngụm trà.
Đỗ Xuân Hiểu vội nói tiếp: “Ngoài Hạ Băng ra, cháu còn muốn dẫn theo một người nữa.”
Giây phút bước vào Phong Nguyệt lâu, tim Hạ Băng đã dâng đến cổ họng, đối với anh, nơi này cũng chẳng phải cấm địa gì. Năm kia có hai khách làng chơi vì tranh giành một cô nương mà xô xát, còn thuê lũ côn đồ cứa gân chân của đối phương, Lý Thường Đăng khi đó dẫn theo anh đến hỏi chuyện. Trong ấn tượng của anh, Phong Nguyệt lâu chỉ là một tòa lầu hai tầng cũ kỹ không bắt mắt, hễ đến mùa hè, vật liệu gỗ đều bị hút ráo nước, phát ra những tiếng lách tách nho nhỏ. Bước vào là một thế giới xa hoa hoàn toàn khác, trên trần treo đèn hoa Đăng vẽ hình trang trí tinh mỹ, ngay bàn ghế đỏ chót cũng như toát lên vẻ phóng túng, hương phấn son lẫn với mùi rượu bao phủ cả gian đại sảnh. Lần này anh tới vào ban ngày, những phong vị lạ thường ấy đều đã nguội ngắt, nhưng cũng đủ phản ánh cuộc hoang dâm vô độ đã từng xảy ra ở đây vào đêm qua, khi ấy, khao khát đàn bà của đàn ông đều là quang minh chính đại, nhờ vậy mỗi ly rượu các kỹ nữ chuốc cho khách, mỗi điếu thuốc các cô châm cho khách, mới thấm đẫm khêu gợi.
Vì vẫn còn sớm, Đào Chi còn chưa trang điểm, chỉ buông lơi cổ áo, mặt mày xanh tái ngồi trước cửa sổ, tay cầm kéo tỉa tót một chậu văn trúc. Hạ Băng dè dặt đứng cạnh cửa, đợi ả ngẩng đầu lên chào anh. Ả đã liếc thấy anh, nhưng trước sau vẫn cắm cúi như thể nhất định phải đợi anh mở lời.
“Cô nương Đào Chi, tìm tôi gấp thế chắc có việc gì quan trọng?” Anh cảm thấy vẻ phong tình bộc lộ trong điệu bộ uể oải của ả có chút gì đó hung bạo, nên cố ý cúi gằm mặt không nhìn.
Ả ngẩng đầu cười, khuôn mặt không son phấn đoan trang hơn nhiều so với lúc ăn diện, anh không hề biết ả lại là một mỹ nhân, giờ mới thấy khâm phục tâm cơ của ả, làm cho mình đẹp lên thì dễ, nhưng nếu rắp tâm muốn lẫn vào đám má phấn môi son tầm thường xung quanh lại phải có kỹ xảo nhất định.
“Anh nhớ trước kia từng hỏi tôi chuyện cái đê vàng không?”
“Có, khi đó cô nói chưa từng nhìn thấy thứ ấy ở chỗ Thúy Chi.” Hạ Băng gật đầu.
Đào Chi vỗ tay, che miệng nói: “Giờ tôi nhớ ra rồi, quả thật có thấy, lúc cùng khâu vá với con bé, nó có đem ra dùng, tuy chỉ thoáng qua, nhưng tôi vẫn thấy kỳ lạ, món đồ quý giá như thế từ đâu mà ra, về sau lâu dần tôi cũng quên mất.”
Hạ Băng giơ tay ra ý cho ả ngừng lời, không hiểu sao, tim anh cứ thấy nhức nhối, bèn tiếp tục truy hỏi: “Giản Chính Lương ở cùng cô mấy đêm? Có nói gì với cô không?”
“Lão ta thì nói gì với tôi? Chẳng qua huyên thuyên bốc phét, khoe khoang mình sức như trâu, thực ra chỉ là một…” Cô ta không nói tiếp mà đưa khăn tay lên che miệng cười vụng.
Hạ Băng lập tức đỏ mặt, đằng hắng một tiếng, đổi ngay đề tài: “Ngày mài nhà họ Hoàng tế tổ, cô biết chứ?”
“Ai mà không biết? Chỉ đáng tiếc chúng tôi làm cái nghề này, còn khong bằng ăn mày, đâu có số tới trước cửa nhà họ xin gạo.” Đào Chi nửa đùa nửa thật vuốt ve mấy lá văn trúc như lông măng.
“Vậy tha thiết mời cô nương Đào Chi ngày mai nhất định phải tới nhà họ Hoàng một chuyến.”
Cây kéo trong tay Đào Chi run run, không may cắt phải một phiến văn trúc xanh biếc, ả ngạc nhiên nói: “Tôi nào có tư cách ấy, sao vào nổi từ đường nhà họ Hoàng?”
“Cô không cần lo lắng gì hết, tôi và Xuân Hiểu đã sắp đặt đâu vào đấy, tới lúc đó cô cứ đi vào là được, không ai ngăn cô đâu.”
Hạ Băng nói chắc như đinh đóng cột, khiến Đào Chi nhất thời không biết phải trả lời thế nào, chỉ ngẩn người ra, hồi lâu mới định thần được, cười nói: “Vậy thì phải phiền anh giai rồi, để tôi mở mang tầm mắt. Chỉ không hiểu vì sao ngày mai tôi nhất định phải đến đó? Có lien quan gì đến vụ em gái tôi không?”
“Có.” Cặp mắt Hạ Băng sau lớp kính lộ rõ vẻ phấn khởi, “Vì chúng tôi sẽ vạch trần hung thủ thực sự đứng sau chuỗi mưu sát liên hoàn này tại đó.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.