Thương Tiến Tửu

Chương 113: Gặp lại




Đinh Đào ngồi khoanh chân dưới hành lang, chọc hoa quả trong cái khay bạc, đếm đi đếm lại. Cậu canh ở đây, không cho bất kỳ ai vào quấy rầy. Trời sắp tối rồi, trên tường viện còn sót lại mấy tia nắng chiều, hoàng hôn vỡ ra trên lá cây hòe.
Thẩm Trạch Xuyên vừa mới dậy, bởi vì ngủ quá lâu với quá sâu nên giờ lưng eo đều nhức, uể oải lạ thường. Y mở cửa phòng ra, bắt gặp Đinh Đào thì hơi ngây người một lát.
Đinh Đào bị Thẩm Trạch Xuyên nhìn mà luống cuống tay chân, cả người mất tự nhiên. Cậu rụt bàn tay đang mân mê hoa quả ra sau lưng, bối rối nói: “Công tử, ăn, ăn cơm đi.”
Thẩm Trạch Xuyên tựa vào cửa phòng, đứng một lát rồi mới hơi khàn giọng hỏi: “… Mấy giờ rồi?”
“Giờ Dậu,” Đinh Đào lạ sao lại hiểu ngay, vội vàng nói tiếp, “Công tử ngủ cả ngày rồi! Giờ Mão chủ tử rời thành, Chu đại nhân với Thành Phong tiên sinh cùng đi tiễn.”
Khóe mắt Thẩm Trạch Xuyên vẫn còn vương chút sắc đỏ, trong ánh chiều tà màu vỏ quýt chưa chìm hẳn ấy, nhuộm đến như thể đang say rượu. Y vốn đã trắng, lúc rũ mắt xỏ giày, Đinh Đào cảm thấy y thật là đẹp.
“Quyết Tây chưa gửi thư à?” Thẩm Trạch Xuyên bước xuống thềm, cũng không sốt sắng đi ngay mà đứng lại dưới tán cây hòe, hơi ngẩng đầu nhìn sắc trời, sức lực còn dư lại từ đêm qua lắng xuống.
“Chưa.” Đinh Đào theo sau Thẩm Trạch Xuyên, nhân lúc Thẩm Trạch Xuyên chưa xoay đầu thì thoắt cái nhét nốt hoa quả mới ăn phân nửa vào miệng, nhai ngấu nghiến hết sạch.
Thẩm Trạch Xuyên không thấy bóng dáng của Mãnh, biết ngay là Tiêu Trì Dã đã mang đi mất rồi. Y quay đầu lại, dọa Đinh Đào phát nghẹn mà ho sù sụ. Y im lặng giây lát rồi nói: “Không ai cướp của ngươi đâu, ăn chậm một chút cũng không sao.”
Đinh Đào sặc đến chảy cả nước mắt, cậu vừa xua tay, vừa kéo áo vạt áo trước, khó khăn bật ra một câu: “Công, công tử khụ! Chúng ta đi tìm Chu đại nhân à? Đại nhân mới dùng bữa chiều với Thành Phong tiên sinh xong, giờ đang bàn bạc đấy.”
Thẩm Trạch Xuyên vuốt cằm rồi nói: “Đi.”
***
Chu Quế vừa mới ăn xong, giờ đang nghị sự trong thư phòng với Khổng Lĩnh và quan viên các cấp của Từ châu, hắn nghe thấy Thẩm Trạch Xuyên đến, bèn đứng dậy ngay, bảo người ngoài lui ra trước.
“Hầu gia bảo hôm nay người đồng tri không khỏe, chúng ta vốn tưởng đến mai mưới có thể thảo luận quân vụ, không ngờ đồng tri vẫn đến.” Khổng Lĩnh nghênh đón Thẩm Trạch Xuyên vào ghế trên, để Thẩm Trạch Xuyên khỏi khó xử, sau đó ngồi xuống, hơi quay về phía bọn họ rồi nói, “Tuy giờ đang là tháng Sáu, nhưng trong phủ chúng ta trồng toàn cây cao tán dày, ban đêm cũng lạnh. Đồng tri ở Khuất đô quanh năm, giờ ở đây phải chú ý cơ thể.”
Thẩm Trạch Xuyên uống trà cho nhuận họng, giọng bớt khàn, không còn rõ như trước nữa rồi mới nói: “Thành Phong tiên sinh nói phải. Tiên sinh chỉ định rõ ngày là có thể thảo luận quân vụ rồi, hôm nay hai vị đã nghĩ ra điều mục gì chưa?”
“Từ lúc đồng tri lập minh ước với bọn ta, ta đã triệu tập các phụ tá trong quý phủ, bao gồm cả quan viên các cấp của Từ châu, nói chung trong mấy hôm nay đã làm thành một quyển.” Một tay Chu Quế chống đầu gối, nhìn Khổng Lĩnh đứng dậy trình quyển lên trước mặt Thẩm Trạch Xuyên, rồi nói tiếp, “Đều là ý tưởng thôi, cụ thể thì phải đợi đồng tri gật đầu đã. Ngươi xem xem, nếu có chỗ nào chưa ổn thì tối nay chúng ta có thể mang ra bàn lại.”
Tuy hắn bảo phải đợi Thẩm Trạch Xuyên gật đầu, nhưng cũng bảo “mang ra bàn lại”, chứng tỏ thực ra bọn họ đã chốt phần lớn nội dung trong quyển này rồi. Đây là cái vướng mắc hiện giờ của Thẩm Trạch Xuyên, y có tiền, nhưng trong tay y lại không có thực quyền, y có thể ngồi đây nói chuyện với hai người này, thái độ của Tiêu Trì Dã mới là cái then chốt. Chu Quế có thể cảm ơn y, thậm chí là tôn kính y, nhưng Chu Quế sẽ không vì thế mà trao cho y quyền quyết sách Từ châu, bởi vì bọn họ là lập minh ước, chứ không phải là quy thuận.
Thẩm Trạch Xuyên nhìn quyển tập, thư phòng tĩnh lặng. Bên ngoài chỉ có Đinh Đào đang đùa con chim sẻ, không có người phụng dưỡng qua lại quấy rầy. Khổng Lĩnh uống trà, bỗng dưng sinh ra chút thấp thỏm. Ông không biến sắc mà quan sát biểu cảm của Thẩm Trạch Xuyên, nhưng lại không nhìn ra nổi bất cứ cảm xúc gì của Thẩm Trạch Xuyên. Ông lại nhìn Chu Quế, đã bắt đầu hơi sốt ruột, không khỏi nghĩ thầm.
Thẩm Trạch Xuyên này còn trẻ mà lòng dạ lại thâm sâu. Sau mấy ngày mọi người ở chung, không nhìn ra nổi rốt cuộc là y vui hay là không vui, không thể bốc thuốc đúng bệnh. Bọn họ làm quyển này, cũng là có ý thăm dò trước khi hành động.
Đến khi trời đã hơi tối, Thẩm Trạch Xuyên mới đóng quyển tập lại. Ngón tay y cà qua chén trà, không nói gì.
Khổng Lĩnh là cố vấn, khi đang nghị sự trong thư phòng thì không thể vượt Chu Quế. Chu Quế bảo ông thắp đèn, vừa lúc cũng hơi nghiêng người, quay mặt về phía Thẩm Trạch Xuyên, cẩn thận hỏi: “Đồng tri thấy sao?”
“Đại nhân ghi lại cả dao động giá cả củi gạo dầu muối của Từ châu mấy năm nay, khoản mục rõ ràng, ước tính chi tiêu năm sau sẽ không thành vấn đề, ta thấy đại nhân còn viết cả tỉ lệ quân lương phải phát cho quân phòng vệ sau này. Đại nhân đã miệt mài cả đêm, bao quát đủ các mặt.” Thẩm Trạch Xuyên mỉm cười nói.
Chu Quế khẽ thở ra, ông cũng chẳng biết tại sao mình phải thấp thỏm. Nghe Thẩm Trạch Xuyên nói thế thì bảo luôn: “Quyển này một mình ta không viết được, may mà có Thành Phong với các vị đồng liêu. Vậy chúng ta bắt đầu bàn qua về phòng ngự tường thành đi?”
Ngón tay Thẩm Trạch Xuyên ngưng lại, y nói: “Gượm đã, ta có một câu hỏi.”
Chu Quế vội vàng nói: “Xin nói.”
“Chi tiêu ước tính năm sau của Từ châu mà đại nhân tính, ngoài xây dựng lại quân phòng vệ, còn phải bồi thường một ván sáu ngàn thạch lương thực cho hai vạn cấm quân, tổng cả hai quân là mười một vạn thạch lương thực.” Thẩm Trạch Xuyên suy nghĩ, “Đây là căn cứ vào hạn mức phát xuống trong năm được mùa năm ngoái của Từ châu, cũng đã được để dành ra dựa theo số người hiện tại của Từ châu mà đã được định từ trước, nhưng ta thấy còn một vạn thạch lương thực đại nhân đang để trống.”
“Đúng vậy.” Chu Quế đáp.
Tuy Tiêu Trì Dã bảo không cần thù lao, nhưng bọn họ không thể thật sự không cho. Một vạn sáu ngàn thạch lương thực này chỉ đủ để hai vạn cấm quân ăn trong hai tháng rưỡi, nhiều hơn cả mức bọn họ phát cho quân phòng vệ Từ châu hàng tháng, tuy không thể cung cấp được lương thực của cả một năm, nhưng cũng đã thật sự cố hết sức rồi.
Chu Quế sợ Thẩm Trạch Xuyên thấy ít, bèn chân thành giãi bày: “Hôm nay ta đưa sổ sách của Từ châu cho đồng tri xem, chính là mong đồng tri và hầu gia có thể hiểu cho. Bởi vì Đại Chu năm nay có quá nhiều chuyện bất ổn, lương thực năm ngoái của chúng ta phải cho Ly Bắc rồi đến núi Lạc, đây đều là những việc nằm ngoài dự tính, việc cấp quân lương trong những năm trước đều do một mình kho lương của Quyết Tây gánh, bây giờ lại đè lên hai châu Từ, Hòe, tình hình cụ thể của Hòe châu thì ta không nắm rõ, nhưng Từ châu bọn ta quả thực phải ăn tiêu tiết kiệm mới để dành ra được. Cũng không phải ta muốn than với đồng tri, ta nói thật, giờ lương thực của hai vạn cấm quân của hầu gia tạm thời do Từ châu cung cấp, chúng ta là đang cắn răng mà gánh, nhưng cũng chỉ có thể gánh được một hai tháng mà thôi, may mà sắp đến vụ gặt mùa thu, có thể đếm được ngày, cho nên mới không đến nỗi cùng đường bí lối. Một vạn sáu ngàn thạch lương thực này của chúng ta, cũng mong đồng tri sẽ thay Từ châu nói lại với hầu gia, dời sang năm sau không phải vì ăn quỵt, mà là thật sự có quá nhiều thứ phải suy xét.”
Bởi vì Chu Quế lúc nào cũng cau mày lo nghĩ, giữa trán đã xuất hiện nếp chữ xuyên (川). Ông đứng dậy, bước chầm chậm vài bước trong không gian trống, nói với Thẩm Trạch Xuyên.
“Từ châu là nơi kiếm cơm nhờ trời, nhưng không ai biết trước được năm sau ông trời có còn chịu thưởng cơm cho Từ châu hay không. Ta thấy Đại Chu đã đi đến tình trạng này rồi, sợ sang năm lại thêm cả chiến sự, ruộng mới khai khẩn của Từ châu sẽ bị phá hủy chỉ trong một ngày, đến lúc đó dân chúng trong các thành liền kề Từ châu sẽ ăn không đủ no, có thành lập quân phòng vệ cũng không nuôi nổi. Chúng ta để dư ra rất nhiều quân lương, cũng không chỉ là vì muốn giữ lại lương để giữ mạng, mà còn để chuẩn bị cho thiết kỵ Ly Bắc. Đồng tri, không phải bọn ta không chịu tăng hạn mức cho hầu gia, mà là thiết kỵ Ly Bắc là hàng tuyến đầu tiên trấn giữ bộ Hãn Xà của Biên Sa, so với hai vạn cấm quân thì quả thực bọn họ thiết yếu hơn nhiều.”
“Từ châu chịu lập minh ước như vậy với hai vị, một nửa nguyên nhân là do ta bị án quân lương của Ngụy thị đả kích, cũng là nhờ thân phận Tiêu nhị công tử của hầu gia mới bớt được rất nhiều nỗi lo. Tình nghĩa này, là ta cho hai vị, nhưng cũng là cho thế tử gia. Tuy đồng tri đã hứa đường lương mã Đông Bắc vẫn có thể tiếp tục dùng, nhưng ta vẫn phải để lại một đường lui, nói cho cùng thì Quyết Tây cũng là kho lúa của Đại Chu, đó là khu vực tranh chấp của các gia tộc, đồng tri muốn, Thái hậu còn muốn hơn.”
“Những lời ta nói với đồng tri đều xuất phát từ đáy lòng,” cuối cùng Chu Quế dừng lại, chậm rãi bái Thẩm Trạch Xuyên rồi nói, “mưu sinh thời loạn, chẳng dễ cho ai. Ta là châu phủ của Từ châu, an nguy của Từ châu là ưu tiên hàng đầu đối với ta. Lần này hầu gia và đồng tri cứu nguy cho Từ châu, ta sẽ không ngần ngại vượt qua nước sôi lửa bỏng vì hai vị. Nếu năm nay Từ châu vẫn được mùa, sang năm một vạn sáu ngàn tạ lương thực này chúng ta lại có thể tăng thêm, nhưng Từ châu thật sự không thể cung cấp cho cấm quân giống như cho thiết kỵ Ly Bắc được. Ta cũng nói thẳng, sang thu mà Biên Sa xâm chiếm, hoặc là mùa xuân năm sau Ly Bắc thiếu lương thực, Từ châu sẽ cung cấp lương cho thiết kỵ Ly Bắc trước, sau đó mới đến cấm quân.”
Ánh nến trong thư phòng mù mờ, Chu Quế ăn tiêu rất giản dị, ngoại trừ bữa thết đãi Thẩm Trạch xuyên với Tiêu Trì Dã đó, thường ngày cả nhà chỉ ăn rau dưa bình đạm, năm gặp thiên tai cũng đã từng phải nấu vỏ cây. Bây giờ thoạt nhìn thì Từ châu có vẻ là địa phương giàu có nhất Trung Bác, thật ra so với các nơi khác còn hỗn loạn hơn rất nhiều, hắn chịu cho lương thực, đó đã là phải chịu áp lực rất lớn rồi. Khi Tiêu Trì Dã mới rời thành lần đầu tiên, Chu Quế đã từng đề nghị thiết kỵ Ly Bắc trợ giúp, đó không phải là đề nghị ngẫu hứng, mà là ý nghĩ đã bén rễ trong đầu từ lâu rồi.
Bọn họ đã nói đi nói lại vô số lần về án binh bại ở Trung Bác, nhưng người ngoài sẽ mãi mãi không bao giờ hiểu được. Vì án binh bại mà Chu Quế thậm chí còn sinh ra một cái bệnh, ban đêm nghe thấy tiếng huýt sáo, ông sẽ trằn trọc, nỗi hoảng sợ dậy lên trong lòng. Dọc sông Trà Thạch thua rất thảm, tàn sát, tàn sát, hai chữ ấy truyền từ Đoan châu về tới tận Khuất đô, năm đó ai ai cũng nói về hai chữ ấy, nhưng máu chảy thành sông đối với Khuất đô chỉ là một nét bút trên tấu chương, đối với Trung Bác lại là hiện thực tan cửa nát nhà.
Từ châu có thể thoát nạn trong gang tấc, chính là nhờ thiết kỵ Ly Bắc. Trong mắt Chu Quế hay thậm chí là mọi người ở Từ châu, thiết kỵ Ly Bắc quan trọng hơn cấm quân nhiều. Tiêu Ký Minh là vị thần binh từ trên trời rơi xuống, “thiết mã sông băng” chính là kim bài miễn tử cho Đại Chu phải đối mặt với kỵ binh Biên Sa ở hai đường biên Đông Bắc. Lôi Kinh Chập dám giành Từ châu, nhưng không có ý định ở lâu, hắn thậm chí còn cướp sẵn lương, ngay lập tức chuẩn bị tranh công với Khuất đô, điều hắn sợ chính là Tiêu Ký Minh lại điều binh xuống phía Nam.
Tiêu Ký Minh bị thương trong án quân lương, nhưng không ai trong bọn họ đã nhìn tận mắt, người chờ hắn không dám tin, người sợ hắn không dám cược. Nếu nói về các trọng thần bảo thủ do Hải Lương Nghi cầm đầu, người họ dè chừng chính là Tiêu Phương Húc, vậy thì lớp trẻ bên dưới còn dè chừng Tiêu Ký Minh hơn.
Thư phòng tĩnh mịch, ánh nến lập lòe.
Cả eo lẫn lưng Thẩm Trạch Xuyên đều nhức, cổ áo của y đã che đi vết cắn Tiêu Trì Dã để lại trên xương quai xanh. Nhưng điều lạ lùng chính là, trong giờ phút nghiêm túc này, y lại nhớ đến gương mặt mướt mồ hôi của Tiêu Trì Dã, nhớ đến cánh tay mạnh mẽ của Tiêu Trì dã, nhớ đến nụ hôn kề sát bên cổ trong hơi thở gấp gáp của Tiêu Trì Dã lúc chạy.
Y nhớ đến hết thảy của Tiêu Trì Dã, lại chỉ không nhớ nổi Tiêu Trì Dã kém Tiêu Ký Minh ở đâu.
Thẩm Trạch Xuyên chỉ im lặng trong giây lát, đầu óc cũng chỉ lảng đi trong nháy mắt, y nói: “Những chuyện mà đại nhân đã nói, ta đều hiểu. Ta với Sách An đã đến đây, lương thực tạm vay, sang năm xin trả đủ.”
Lúc bấy giờ mặt Chu Quế trắng bệch, toan giải thích: “Đồng tri, bọn ta không phải…”
“Vấn đề mà ta muốn nói với đại nhân, không phải là lương thực các ngươi cho cấm quân quá ít, mà là lương thực các ngươi cho cấm quân quá nhiều.” Thẩm Trạch Xuyên ra hiệu cho Chu Quế ngồi xuống, nói rành mạch: “Từ quân chịu cung cấp nhiều lương thực đến vậy cho quân, thế đã đủ thấy thành ý rồi. Nhưng như chúng ta đã đề cập đến lúc ban đầu, cấm quân sẽ chỉ dùng lương thực của Từ châu trong thời điểm này thôi. Quân lương sau này của cấm quân sẽ có nguồn cung, không cần phải nhờ đến kho lương của Từ châu nữa.”
Chu Quế tự biết sự khờ khạo của mình, không dám tự tiện nói tiếp nữa, bèn nhìn về phía Khổng Lĩnh: “Thành Phong là người giám sát việc hoàn thành quyển tập, có mấy việc ông ấy còn hiểu hơn ta. Thành Phong, ngươi giải thích cho đồng tri đi.”
Khổng Lĩnh đứng dậy, tì vào lưng ghế, lại hỏi: “Đồng tri chắc chắn sau này cấm quân không thiếu lương đến vậy, còn bảo đường lương mã Đông Bắc cứ dùng như thường lệ, ta quả thực không nghĩ ra đối sách nào có thể làm vậy cả, mong đồng tri giải thích cho bọn ta, nếu không chỗ lương thực này, vẫn phải mời cấm quân nhận.”
Thẩm Trạch Xuyên nhẹ nhàng bưng chén trà lên, nói: “Trước tiên, ta phải hỏi hai vị, sau này Từ châu vẫn định nuôi ăn bằng đất sao?”
Khổng Lĩnh nói: “Vị trí của Từ châu bị hạn chế, nếu không thế thì làm sao chống chọi được?”
“Quan điểm của ta lại ngược hẳn với tiên sinh.” Thẩm Trạch Xuyên đặt chén trà xuống rồi nói, “Lúc đầu vị trí của Từ châu quả thực rất bất lợi, phía Bắc đụng Ly Bắc, phía Nam đụng Trà châu, phía Đông bị hai châu Đôn, Đoan chặn đứng, phía Tây lại bị thành Đan kiềm hãm, không dám tự ý động đậy, cũng không thể tự ý động đậy. Nhưng đấy là lúc Từ châu còn lệ thuộc vào Khuất đô, bây giờ các ngươi và Ly Bắc có giao tình sâu sắc, thành Đan đã không còn có thể dựa vào uy thế của Khuất đô để sai khiến Từ châu nữa, Đôn châu bị thổ phỉ chiếm giữ, nhanh chóng rơi vào cảnh bị bỏ bê. Như vậy, ba mặt tường vây Từ châu đã đổ, Trà châu còn lại không phải vật cản, mà là cơ hội.”
Chu Quế lại ngồi thẳng dậy, ông vò nhúm áo choàng, e dè hỏi: “Ý đồng tri là sao?”
“Trà châu nằm dọc tuyến đường thủy nối đến Hà châu, sau án binh bại thương nhân ở Hà châu lợi dụng tình hình để thét giá lương thực ở Trung Bác. kiếm lợi nhuận lớn theo các loại thổ phỉ lớn nhỏ. Con đường này nếu chỉ dùng để cho người khác phát tài thì tiếc lắm.”
“Nhưng bây giờ thổ phỉ cũng đang lộng quyền ở Trà châu, lại còn có quan hệ với Nhan thị Hà châu, sẽ không dưng cho Từ châu chúng ta mượn đường để buôn bán đâu.” Khổng Lĩnh nói xong thì lại hơi cuống, “Vả lại chúng ta bán cái gì được? So với Hà châu, Từ châu đúng là cái nơi hoang vu hẻo lánh.”
“Bán lương thực.” Thẩm Trạch Xuyên nói.
“Đại nhân cứ gượm đã.” Ánh mắt Thẩm Trạch Xuyên rất bình tĩnh, bình tĩnh đến nỗi khiến cho Chu Quế vô thức ngồi xuống lại. Y nói: “Sở dĩ có người thét giá đầu cơ trục lợi quan lương ở Quyết Tây với Hà Châu, chính là bởi cả vùng Trung Bác đều thiếu lương, trong đó Trà châu là thiếu nhiều nhất. Ở Khuất đô, một lượng bạc mua được hai thạch lương thực, ở Quyết Tây, một lượng bạc mua được năm đấu lương thực, nhưng ở Trà châu, một lượng bạc chỉ mua được hai đấu lương thực. Bạc trong tay thổ phỉ ở Trà châu đều là bạc vơ vét từ những bá tánh còn lại ở Trà châu, thế nên lương dân có hộ tịch mới không sống nổi, bởi vậy mà bí quá hóa liều, người đi làm thổ phỉ ngày càng nhiều. Đại nhân, Lôi Thường Minh —— cũng chính là Lôi Kinh Chập, trong vòng nửa năm hắn có thể mở rộng quân số đến cỡ này, căn nguyên cũng là như thế. Cho nên Từ châu chịu dùng giá hơi cao hơn giá cố định ở Khuất đô để bán lương thực cho Trà châu, trái lại lại là đang giúp Trà châu.”
“Nhưng mà,” Khổng Lĩnh hơi cau mày, “bọn ta mà bán lương thực cho Trà châu, kho lương ắt sẽ theo đó mà rỗng. Chúng ta chỉ nắm bạc trong tay, vậy thì khác gì hoàn cảnh hiện giờ của Trà châu đâu? Đến lúc đó lương thương thâm hiểm ở Quyết Tây với Hà châu sẽ chỉ ngày càng đòi tiền bọn ta một cách táo tợn hơn thôi.”
“Hà châu ở xa, Từ châu muốn giao thương với nó thì trong một hai năm này chưa cần phải vội. Lúc ta rời Khuất đô, có biết một ít về Hoè châu. Trù bị quân lương lần này, Hòe châu đóng góp một nửa, kho lương cực kỳ dồi dào. Phía Tây Nam bọn họ chính là thành Địch bao ngoài Khuất đô, thành Địch lại thông với cảng biển Quyết Tây, Hòe châu muốn buôn bán thông qua thành Địch, nhưng đúng lúc lại thiếu tiền. Trước tiên Từ châu có thể bán lương thực cho Trà châu, sau đó dùng giá thấp hơn của Trà châu để mua lại từ Hòe châu, bạc còn thừa có thể trợ cấp cho các nơi khác, kho lương có thể duy trì mức dư dả ở mọi lúc, có thể cung ứng cho thiết kỵ Ly Bắc lúc cấp bách, hoặc là Từ châu để lại một đường lui cho chính mình.”
Việc “thính ký” của Cẩm y vệ, chính là ghi lại kỹ càng giá cả ở khắp các phố phường. Lúc Thẩm Trạch Xuyên nhậm chức nam trấn phủ quản lý quân thợ của Cẩm y vệ, có thể xem ghi chép hằng năm về các nơi của Cẩm y vệ. Ban đầu Cát Thanh Thanh muốn sao ra bản nữa, nhưng Thẩm Trạch Xuyên thức thâu đêm để học thuộc tất cả. Y đã sớm cảnh giác một tương lai khó lường, không chịu khinh suất mà giao một thứ quan trọng như vậy cho trang giấy đảm nhận. Thực tế chứng minh y đã làm đúng, bọn họ rời khỏi Khuất đô quá vội vã, chẳng kịp mang một thứ gì theo. Nhưng y rời đi, mọi ghi chép, hồ sơ, sách vở cũ mà y đã đọc cũng rời đi cùng y.
Chu Quế suy nghĩ miên man, ông hết nghĩ rồi lại nghĩ, cuối cùng nói: “Nhỡ Hòe châu mà không chịu…”
“Làm được! Hòe châu đi về phía Đông sẽ là Lạc Hà quan, ở đây ta có thể chuyển được một ít hàng biên cảnh từ Ly Bắc thẳng đến cảng rất tiện.” Khổng Lĩnh càng nghĩ càng phấn khích, ông không kìm được mà bước mấy vòng, vỗ đùi bép một cái rồi nói, “Làm được! Phải làm từ lâu rồi mới phải! Từ châu mà còn không biết linh hoạt thì chẳng phải vẫn mắc kẹt trong cái lồng giam như trước kia sao? Làm được, làm được!”
Thẩm Trạch Xuyên không hề giải đáp cho ông chuyện phải làm sao để tiếp tục sử dụng đường lương mã Đông Bắc, nhưng Khổng Lĩnh chẳng rảnh mà để ý đến nữa. Ông tắm trong ánh nến, dường như nhìn thấy được cơ hội phục hưng của Từ châu. Vì chuyện của Lôi Thường Minh mà ông cảm thấy Thẩm Trạch Xuyên là người đi những con đường rất “quái”, nhưng giờ ông đã quên sạch, muốn kéo Thẩm Trạch Xuyên nói câu cảm ơn nồng nhiệt, nhưng vừa đưa tay ra lại nhớ đến Tiêu Trì Dã, bèn vội vàng theo đúng phép tắc mà rụt tay về, nói không ngớt lời: “Nếu thế, mấy năm sau mà có nhiều lương thực hơn, cũng chẳng sợ bị tồn đọng đến phát mốc trong kho nữa.”
“Vậy giờ nói đến chuyện quân phòng vệ,” Chu Quế nói qua cái bàn, “cả chuyện phòng ngự tường thành nữa.”
Thẩm Trạch Xuyên uống trà nóng, chưa lên tiếng, bỗng thấy Đinh Đào ngoài cửa thò đầu vào trong phòng, ra sức vẫy tay với mình.
“Sao thế?” Thẩm Trạch Xuyên đứng dậy đi ra ngoài cửa.
Đinh Đào vừa mới ra ngoài, chạy nhanh đến mức mặt đầu cổ vã mồ hôi. Cậu mở miệng nói: “Công tử, công tử! Đến đây!”
Chu Quế và Khổng Lĩnh cũng lại gần, thấy Đinh Đào vừa mới còn đang kích động, ngay sau đó bỗng nhắm mắt òa khóc. Thẩm Trạch Xuyên như cảm nhận được điều gì đó, ngỡ ngàng nhấc chân ra khỏi cửa. Quả nhiên nghe thấy Đinh Đào nghẹn ngào nói: “Công tử! Các ca ca về rồi! Kiều Thiên Nhai cũng đã về rồi! Cả Kỷ——”
Thẩm Trạch Xuyên đã sải bước ra ngoài cửa đi vào trong viện, ngoài trời tối om. Trong tay y vẫn còn nắm chén trà, một ít trà vãi ra lúc y đi, nóng đến mức ngón tay y đã đỏ ửng, nhưng hình như y còn chẳng nhận ra, hoàn toàn không cảm thấy gì. Y đi một mạch ra ngoài phủ, con đường rất ngắn, nhưng cả người lại toát mồ hôi.
Bên ngoài phủ có mấy chiếc xe ngựa chở hàng đang đỗ, vài bóng người cao lớn đứng rải rác dưới đèn lồng. Người thấp hơn một ít vẫn đang khoác áo choàng, nghiêng người đứng nghỉ cạnh xe ngựa.
Ngực Thẩm Trạch Xuyên phập phồng, vành mắt đã đỏ, nhưng lại cứng đầu không chịu để lộ ra ở đây.
Kỷ Cương nghe thấy tiếng động, quay lại nhìn, nhìn thấy Thẩm Trạch Xuyên, nhưng quên mất bậc thềm đá trước mặt mà suýt nữa vấp. Ông để lộ ra mái đầu bạc rối mù, môi mấp máy, còn chưa kịp nói cả tên, gương mặt già đã giàn giụa nước mắt.
“Xuyên…” Kỷ Cương tựa như một đứa trẻ đầu bạc, vừa giận mình không gọi nổi một câu hoàn chỉnh, vừa luýnh quýnh vẫy tay, “Con, con…”
Thẩm Trạch Xuyên bước hai bước xuống thềm, đến dìu Kỷ Cương. Kỷ Cương trở tay nắm ngược lại cánh tay Thẩm Trạch Xuyên, nhìn người một lượt từ trên xuống dưới. Đời này của ông đầu tiên làm Cẩm y vệ ở Khuất đô, rồi đến làm thợ rèn ở Đoan châu, sau đó gặp đại nạn, mất vợ mất con, lại luôn luôn trưng ra dáng vẻ cứng rắn trước mặt người khác. Nhưng giờ phút này khi ông nhìn thấy Thẩm Trạch Xuyên, lại không kiềm chế nổi dòng nước mắt đang tuôn trào.
“Xuyên nhi…” Kỷ Cương lau nước mắt bằng ngón tay chai sần, nhìn đi nhìn lại Thẩm Trạch Xuyên, ngàn vạn lời muốn nói đều đã hóa thành một câu “Không sao là tốt rồi”.
Ông long đong mệt mỏi, đã gầy đi nhiều lắm. Tề Huệ Liên chết rồi, lòng ông không yên nổi, vì sợ Thẩm Trạch Xuyên sau khi rời Khuất đô phải chịu khổ mà cấp tốc thúc ngựa chạy một mạch, ăn không ngon ngủ không yên. Hết thảy những khổ sở ông mang đều đè trĩu lên sống lưng già lọm khọm, từ lâu rồi ông đã chẳng còn là Kỷ Cương danh vang thiên hạ, nhưng tấm thân xơ xác này của ông vẫn sẵn sàng che mưa chắn gió cho Thẩm Trạch Xuyên như xưa. Vì đứa con này, ông có thể phi thật nhanh ngàn vạn dặm, có thể đương đầu với hào kiệt trong thiên hạ. Ông thật sự chẳng cầu mong điều gì hết, chỉ mong cho Thẩm Trạch Xuyên một cuộc đời thật bình yên.
“Sao lại gầy thế này!” Kỷ Cương không kìm được mà thốt lên.
“Sư phụ,” giọng Thẩm Trạch Xuyên run run, “Sao sư phụ lại gầy đi nhiều thế.”
“Ta già rồi, lăn lộn nhiều không chịu nổi.” Kỷ Cương cuống cuồng nước mắt, phấn chấn mà nói, “Giờ gặp được con, sư phụ khỏe hẳn rồi!”
Kiều Thiên Nhai gạt chén trà rơi vỡ ra, quỳ một gối xuống đất, toan xoa dịu bầu không khí ảm đạm này, bèn cười mà nói: “Dù đi đường hơn mấy tháng, nhưng may mà nhiệm vụ không thất bại. Chủ tử, thưởng cho bữa cơm chén rượu được không? Sư phụ, chúng ta ngồi rồi nói tiếp!”
***
Trong cái viện vốn đã chẳng lớn chật ních người, Khổng Lĩnh dặn nhà bếp làm nóng chảo để xào rau, đặt một cái bàn ở ngay giữa sân, lấy Mã Thượng Hành ra thết đãi tẩy bụi cho Cẩm y vệ và nhóm cận vệ Ly Bắc.
Kiều Thiên Nhai dùng đũa đuổi theo con chim sẻ béo tròn của Đinh Đào, nói: “Người ta ai cũng chạy gầy cả người, ngươi thì lại cho nó ăn đến loáng cả mỡ, định cho các ca ca nhắm rượu đúng không?”
Đinh Đào vốn đang rất thích chí, nghe thấy thế thì vội vàng bọc con chim lại mà la lên: “Không cho!”
Cốt Tân rất đói, lúc cắm mặt và cơm cũng không quên duỗi đũa đánh Kiều Thiên Nhai về, cáu kỉnh nói: “Ngươi ngứa da à? Sao cứ phải bắt nạt trẻ con thế nhỉ.”
“Lúc đi có cắt bớt cơm của ngươi đâu,” Thần Dương uống rượu, nói, “Sao mà lại đói đến mức này?”
“Cốt huynh đệ chia hết đồ ăn cho trẻ con ăn xin dọc đường,” Phí Thịnh mới đi theo bọn họ, biết sau này tất cả đều là người cùng đường, cho nên cũng chỉ chọn lời hay mà nói, “Ta thấy Cốt huynh đệ hiền lành nghĩa hiệp, bỏ ra rất nhiều tiền để mua bánh bao cho bọn nó đấy.”
“Cứu người nguy không cứu người nghèo,” Thân Dương chân thành mà khuyên, “Cái thói cứ thấy người ta khóc là mềm lòng của ngươi phải sửa đi thôi. Giờ đâu đâu cũng thiếu ăn, không phải không cho ngươi làm việc tốt, nhưng phải có chừng mực.”
“Huynh tiêu hết tiền rồi à?” Đinh Đào ghé vào hỏi, “Tân ca, chả phải lần trước huynh còn bảo sẽ đưa cho ta đấy sao? Ta tích cho huynh cưới vợ. Ta đã bảo cứ để ta giữ, ta ghi rõ vào rồi đây.” Nói xong thì cậu lôi cuốn sổ ra, “Tết năm ngoái, huynh vay ta ba đồng uống rượu còn viết trong còn viết trong đây này. Tất nhiên là tí tiền đó ta không quan trọng, ta không cần, ca đích thực, ta chính là…”
Cốt Tân ăn đã rồi nhét bông mang theo người vào tai phải, quay sang bên trái, nói: “Rượu nhà đúng không? Lấy cho ta một vò.”
“Chỉ uống ba chén thôi,” Kiều Thiên Nhai đã ngưng đũa từ lâu, hắn nói, “Lát nữa còn phải trình báo với chủ tử của ta, ngươi mà lại say bét nhè, quên mất hầu gia phạt lần trước rồi đấy à? Thời điểm bây giờ, ta khuyên ngươi hành xử cho cẩn thận vào.”
Bình thường hắn toàn cười đùa cợt nhả, nhưng dáng vẻ làm Đồng tri Cẩm y vệ ngày trước của hắn đã thật sự lộ ra, quả thực khá có uy. Giọng điệu thì hòa nhã, lời nói lại không hề dễ nghe như vậy.
Cốt Tân khó chịu mà nhăn mặt, nhưng vẫn gật đầu, nói: “Thèm thật, mấy tháng liền ta chưa uống rượu rồi.”
Tràng liến thoắng của Đinh Đào dần tắt. Cậu bé tuổi nhất trong đám này, từ xưa đến nay toàn được chăm như em trai, chưa ca ca nào từng ki bo không mua kẹo cho cậu. Chính vì thế, cậu chẳng sợ ai, ai cũng dám thân, cậu trời sinh tinh mắt, đặc biệt nhạy với những biến động cảm xúc giữa người với người. Cậu cảm thấy các ca ca bên trong không thả lỏng như vẻ bề ngoài, bởi vậy cậu bế con chim sẻ con của mình lên, ngoan ngoãn ngồi một bên, không làm ồn cũng không làm loạn.
Bữa cơm sắp xong, Khổng Lĩnh lại thu xếp người ra khỏi viện, để chỗ nghỉ ngơi cho các vị khách đã bôn ba suốt cả đường. Giờ đã là nửa đêm, Thẩm Trạch Xuyên sai Đinh Đào dẫn Kỷ Cương đi nghỉ, mấy người dẫn đầu đều có việc để trình báo, đứng xếp hàng ngoài hiên, chuẩn bị lần lượt đi vào.
“Vào cả ngồi xuống đi, có chuyện thì cùng nói.” Đợi đến khi tất cả đã vào, Thẩm Trạch Xuyên ngồi ở ghế chủ, hỏi Thần Dương trước tiên, “Chuẩn bị quân lương suôn sẻ chứ?”
Thần Dương ngồi ngay ngắn, hắn chỉnh sửa lại câu từ một lát rồi nói: “Không suôn sẻ, đúng như công tử dự đoán trước khi bọn tôi đi, quan viên Hòe châu làm việc qua loa bằng mọi cách, mãi không chịu chuẩn bị. Lúc đó chiến sự Ly Bắc khẩn trương, sắp hết kỳ hạn hai ngày của chru tử, tôi sốt ruột đến phát cáu, phải đến khi Khương đại nhân thủ vệ Lạc Hà quan đứng ra đảm bảo, Hòe châu mới đồng ý phát lương. Cũng may mà kịp, đi thẳng bằng đường lương mã, mới không lỡ mất quân sự.” Hắn nói tới đó thì hơi im lặng trong chốc lát, rồi tiếp tục, “Tôi gặp thế tử gia ở Ly Bắc, thế tử gia bị thương rất nặng, nghe nói chủ tử bị bao vây ở Khuất đô thì muốn dẫn binh đi đón, tiếc là bị vương gia bác bỏ.”
Thẩm Trạch Xuyên không hỏi cụ thể nữa mà quay sang Cốt Tân, nói: “Lúc đó ngươi đến Từ châu điều lương, Chu Quế đâu có khó nhằn như châu phủ Hòe châu, sao giờ cũng cau có mặt mày thế?”
Cốt Tân bị gọi đến tên, vậy mà lại hơi giật mình. Mọi người ở đây đều nhận ra hắn không tập trung, Thẩm Trạch Xuyên nhìn hắn, hắn nói: “… Tôi đến Từ châu đốc thúc việc chuẩn bị quân lương, đúng là không bị gây khó dễ. Đã sớm gửi cho quân ở tiền tuyến rồi, còn gặp được vương gia ở rặng Đông dãy Hồng Nhạn nữa.”
Hắn nói không nhanh, rồi lại ngưng lại ngập ngừng một lúc.
“Ta nghe nói chủ tử rời Khuất đô, chờ hắn về nhà mãi. Sau đó gặp Thần Dương ở trong quân mới biết chủ tử đang ở Từ châu, cho nên mới chạy đến đây.”
Ly Bắc nằm ở phía Bắc Từ châu, lẽ ra bọn họ phải đến sớm hơn Kiều Thiên Nhai mới phải.
Ngón tay Thẩm Trạch Xuyên gõ nhẹ xuống mặt bàn, liếc mắt qua, nói với Kiều Thiên Nhai: “Ngươi thì sao? Kể rõ đi.”
Kiều Thiên Nhai tì tay lên tay ghế, nói rất nhanh: “Tôi nhận lệnh của chủ tử đến tìm người, điều tra dấu vết trong Tiết phủ, phát hiện Tiết Tu Trác chuyển sư phụ sang chỗ người môi giới ở Đông Long, nhưng tung tích của tiên sinh thì không rõ. Chúng ta chậm một bước… Không ra được khỏi cổng thành, đành chỉ có thể trốn trong Khuất đô.” Hắn dứt lời, nhìn về phía Phí Thịnh, “Đúng lúc hắn cũng đang dẫn theo người trốn thế gia lục soát, bọn tôi tìm mọi cách để ra khỏi thành, Hàn Thừa vây Khuất đô đến con kiến không lọt. Bọn tôi thật sự hết chỗ để đi rồi, đành trốn trong mai trạch của hầu gia. Lúc ở trong mai trạch, ta vừa may lại phát hiện sơ đồ bố trí cống rãnh của Khuất đô mà hầu gia lấy được từ chỗ Phan gia.”
Đây là vật Tiêu Trì Dã lấy được từ tay Phan Lận lúc mở tiệc thăng tước, ngay từ lúc đó hắn đã định bụng sẽ để lại một thứ để phòng ngừa vạn nhất cho chính mình rồi, cũng không nghĩ hi hữu thế nào mà lại thành chìa khóa cho đám Kiều Thiên Nhai thoát khỏi Khuất đô.
“Bọn tôi bò ra bằng đường cống,” Phí Thịnh nói rồi giơ tay ra, so ngón tay, “cống trên phố đều là cống mới đào, không biết có phải ý của hầu gia hay không, tất cả đều ngoài hẹp trong rộng, ở những chỗ khô ráo còn có đuốc với cả một ít lương khô. Một nhóm hơn năm mươi người chúng tôi, chính là dựa vào chỗ lương khô này, lòng vòng hơn mười ngày với tám đại doanh, cuối cùng đến gần núi Phong thì ra được khỏi Khuất đô.”
“Sau khi ra ngoài thì phát hiện kiểm tra trên quan đạo trong tám thành rất nghiêm, phải để lại hết vàng bạc ngọc bội trên người, cải trang thành du thương, đi đường vòng ở phía Nam thành Thuyên đến Trà châu, nghe nói Hàn Thừa đã đưa hoàng tự vào trong cung rồi. Nhưng sau khi rời Trà châu thì tin tức bị cắt, nên sau đó thế nào không rõ, những cái khác phải chờ thư của Cát Thanh Thanh thôi.”
Thẩm Trạch Xuyên trầm ngâm suy nghĩ, không ai phá đám. Y nghe thấy tiếng bước chân của Đinh Đào ở dưới hành lang, đợi Đinh Đào đi đến cửa rồi thì y nói: “Hai người các ngươi cũng mệt rồi, tối nay theo Đinh Đào đi nghỉ trước đi.”
Phí Thịnh có ý, nhưng cũng không vội vã bộc bạch lòng trung thành ngay tối nay, nhanh nhẹn đứng dậy, gọi chủ tử với Kiều Thiên Nhai rồi lui đi.
***
Ánh nến khẽ bùng lên, hơi lập lòe.
Từ nãy đến tận bây giờ, Cốt Tân vẫn không hề ngẩng đầu mở miệng tiếp, hắn chìm trong ánh sáng mù mờ, bóng nến chiếu lên sườn mặt hắn, giống như hai bóng người nhỏ đang xông vào vật lộn nhau.
Thẩm Trạch Xuyên điềm tĩnh đến kỳ lạ, y nói: “Các ngươi gặp chuyện gì ở Ly Bắc?”
Thần Dương nâng tay che đi nửa mặt, chống khuỷu tay lên tay ghế. Hắn nói: “… Tôi ở với thế tử, không gặp chuyện gì, là Cốt Tân.”
Trong bầu không khí tĩnh lặng, Cốt Tân khó nhọc cởi từng chiếc cúc, cởi áo ra, quay lưng lại, khiến cho toàn bộ phần lưng hoàn toàn lộ ra trước mắt Thẩm Trạch Xuyên. Hắn nói: “Vốn việc này phải báo thẳng cho chủ tử, nhưng mấy hôm nữa chủ tử mới về, theo như chủ tử dặn ở Khuất đô, tôi có thể bẩm báo cho công tử trước. Tôi đến vùng giao chiến dữ dội nhất, vương gia với Tả soái đều bình an. Sau khi kiểm tra xong quân lương, tôi tạm thời vào nhóm tiên phong trong đội trinh sát ban đầu, tiếp xúc với kỵ binh bộ Hãn Xà hàng ngày. Không nhớ là ngày nào, tôi dẫn tiểu đội về theo rặng Đông núi, trên đường gặp mai phục.”
Phần lưng bị khoét rữa, những chỗ nặng đã cạo hết, còn những chỗ quấn băng vẫn có thể thấy máu đang rỉ ra.
“Tôi bị trúng một tên, nhưng thoát được. Ban đầu tôi tưởng là người của bộ Hãn Xà, cho nên mới dẫn theo hai trăm anh em còn lại đi vòng qua đồng cỏ bộ Hãn Xà hay lui tới, quay về theo đầm lầy Đồ Đạt Long Kỳ, nào ngờ đến đêm Đồ Đạt Long Kỳ lại gặp phải mai phục.” Cốt Tân kéo áo lên, hắn vừa đóng cúc vừa nói, “Công tử, tôi xuất thân làm lính trinh sát, có thể được vương gia tuyển vào làm cận vệ, chính là nhờ đôi tai đôi mắt. Mấy năm nay ở Khuất đô tuy không bì được với trước kia, nhưng sau khi chủ tử khuyên răn cũng không còn dám lơ là nữa, nhất là trên chiến trường thì lại càng cẩn trọng. Đêm đó đường hành quân của tôi đều là lệnh truyền thẳng xuống từ bên trên, không hề trao đổi qua với bất kỳ ai khác, thế mà lại bị phục kích những hai lần, cho nên tôi bắt đầu nghi trong quân có mật thám của bộ Hãn Xà.”
“Trên đường bỏ chạy lần hai, tôi phát hiện tên có độc, độc này trước đây Đinh Đào từng tẩm lên kim sắt rồi, là đồ từ rặng Tây dãy Hồng Nhạn. Lúc ấy lưng tôi bị rữa rất ghê, lại còn bị đuổi sát nút trong đầm lầy, rồi bị côn trùng độc cắn, không chịu nổi, đến tảng sáng thì bắt đầu lên cơn sốt.”
Cốt Tân nói đến đó thì dừng lại.
Giọng hắn nặng nề, chốc chốc lại dừng lại, như thể phải liên tục xác nhận, đề phòng mình nói sai một chữ, hắn biết những lời tiếp theo mang ý nghĩa gì.
“Ngựa của bọn tôi chết đuối trong đầm lầy, tôi không đi được. Đi hơn mười dặm về phía Nam Đồ Đạt Long Kỳ là đến được doanh thường trú của thiết kỵ Ly Bắc, nhưng điều kỳ lạ chính là hôm ấy không ai đi tuần, tôi để tiểu tướng thân tín chạy về trước, ở yên đấy chờ viện binh. Kết quả đợi từ chiều tối đến sáng sớm ngày hôm sau mà vẫn không có ai đến. Tôi sợ mật thám sẽ nhân cơ hội tuồn vào doanh thường trú, cho nên cố gắng chịu đựng mà chạy về. Tôi cửu tử nhất sinh quay trở về doanh địa, lại bị thu đao giam lại, ở một đêm trong nhà lao dùng để giam tù binh của Biên Sa, ngày hôm sau bị áp giải vào trong lều, để tướng lĩnh của doanh thường trú Quách Vi Lễ chủ thẩm.”
Cốt Tân không nói chi tiết thẩm thế nào, hắn cũng không muốn nhớ lại, đối với hắn đó không phải là đau đớn về mặt thể xác, mà là sự sụp đổ của một ý niệm nào đó.
Hắn nói bằng một giọng rất nhẹ: “Bọn họ bảo tôi tư thông với bộ Hãn Xà, khiến cho toàn bộ quân tiên phong ở phía Đông Đồ Đạt Long Kỳ đêm đó bị diệt, còn cắt quân hàm của tôi, muốn tôi nói thật có phải nhận được chỉ thị của kẻ khác hay không. Việc tôi không làm, tôi không biết, tôi chất vấn vì sao doanh thường trú lại hai lần liên tiếp mặc kệ quân báo xin viện trợ của tôi, bọn họ bảo không nhận được. Dựa theo quân luật, tôi phải qua ba tướng hội thẩm, sau đó thống soái đương nhiệm tự mình phê duyệt mới được trảm, nhưng Quách Vi Lễ cứ khăng khăng rằng thế tử bị trọng thương chưa lành, bọn họ có quyền đại diện, nếu không phải hôm ấy Thần Dương đến đúng lúc, tôi đã không được gặp công tử rồi.”
Thẩm Trạch Xuyên khều cây kim bạc vào bấc đèn, ngọn lửa tắt phụt. Y nhìn xoáy vào cây nến như đang rơi lệ kia, trong phút chốc vô số ý nghĩ đã vụt qua trong đầu. Y thậm chí không cần Thần Dương với Cốt Tân nhắc, cũng nhớ trông sổ chức vụ của bộ Binh, Quách Vi Lễ kia là người do Tiêu Ký Minh tự mình đề bạt lên.
***
Tiêu Trì Dã lần theo dấu vết Lôi Kinh Chập để lại, đuổi một mạch đến phía Bắc doanh địa cũ. Hắn xuống ngựa bốc một nắm đất lên, hơi nheo mắt.
Đàm Đài Hổ vừa trông về phía dãy núi vừa nói: “Đi tiếp về phương Bắc sẽ đến đường biên Ly Bắc, chúng không dám đi về phía ấy, chỉ có thể chia nhau ra trốn. Chủ tử, tôi nghi hắn đang ở đây, cứ đuổi như vậy rất hao sức.”
“Đúng là hắn đang ở đây,” Tiêu Trì Dã xòe tay ra, “Lại còn chia thành nhóm nhỏ mà chạy, dùng lưới lớn đương nhiên không bắt được, nhưng chúng ta mà phân tán như vậy thì lại rơi vào bẫy của đối phương. Hắn không chịu đánh trực diện với ta, đó là vì không đọ nổi với lực lượng của cấm quân, sợ người của mình bị đánh hỏng cả tinh thần. Đây là đất quen của bọn chúng, cho nên mới tìm đủ mọi cách để dụ chúng ta chia nhóm theo, dễ dàng hạ riêng từng nhóm một.”
“Chúng ta cũng không có đủ kỵ binh,” Đàm Đài Hổ nhìn kỹ địa hình, “Bọn chó này quái lắm rồi!”
“Bình tĩnh.” Tiêu Trì Dã đứng dậy.
Mãnh đã đi tuần về, đậu xuống vai Tiêu Trì Dã, đứng trong gió đêm cùng với Tiêu Trì Dã. Gió rì rào cuốn qua bụi cỏ, vài cọng lá liễu tản mát trước mặt.
“Trong năm binh, chỉ lửa là mạnh nhất [1].” Tiêu Trì Dã lại lên ngựa, “Ta phải đốt đến mức hắn không còn chỗ mà trốn thì thôi.”
Đàm Đài Hổ cũng lên ngựa theo, nói: “Nhưng chỗ này lắm cây, nếu mà đốt thì chỉ sợ thế lửa sẽ lan đến tận thảo nguyên Ly Bắc mất.”
Tiêu Trì Dã bật cười, đáp lại Đàm Đài Hổ: “Không phải ta cho ngươi đốt ở đây. Đi đi, đến tất cả các thôn trấn lớn nhỏ dọc đường, bảo bọn họ dán cáo thị, chỉ cần chứa chấp phỉ tặc, đều sẽ bị trảm trước ngựa. Nhưng nếu báo cho cấm quân, tiền sẽ được cân theo đầu người, có bao nhiêu, ta sẽ thưởng bấy nhiêu. Bảo thêm cho bọn họ, Từ châu sắp phát ban hành thị tuyển binh rồi, ở chỗ khác không có, ngày ba bữa có thể cung, trong đó ưu tiên những ai đã nhận được tiền thưởng của cấm quân. Nếu Lôi Kinh Chập không muốn bị chúng ta tìm thấy, ta sẽ tự khua hắn ra.”
Đàm Đài Hổ đắn đo mấy lần, cuối cùng vẫn nói: “Nhưng không phải chúng ta không có tiền đấy sao…”
“Lúc nào về báo đúng lại số cho Lan Chu,” Tiêu Trì Dã thúc ngựa đi, nhưng rồi lại ghìm cương quay đầu lại, nói, “Có mấy xu mà nhị công tử không lo được chắc?”
Đàm Đài Hổ có vẻ ngại.
Tiêu Trì Dã xoay chiếc nhẫn ban chỉ, lạnh mặt mà nói, “Ha.”
===
• Tác giả có điều muốn nói:
[1]《Kỷ hiệu tân thư》
Nói một chút về lương thực, trong đây 1 thạch ≈ 45kg. Khuất đô có kho lương riêng, giá lương bình thường sẽ không dao động quá mạnh, quan viên có trợ cấp hàng tháng, giá ở Quyết Tây tương đối cao. 1.6 vạn thạch tính sơ sơ có thể nuôi 2 vạn cấm quân trong hai tháng rưỡi, nhưng đây là dựa trên nền tảng là cấm quân không có kỵ binh, không phải đi đi lại lại, không có chiến sự, mình tính sơ sơ thôi, cũng chưa chắc đã tính đúng orz

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.