Thương Tiến Tửu

Chương 136: Ly gián




Thẩm Trạch Xuyên nói chắc nịch như vậy, là bởi Trà châu là nơi không thể dùng hùng binh để đánh hạ. Vào năm Vĩnh Nghi, hai châu Đôn, Đoan giàu có nhất Trung Bác, lúc đó Thẩm Vệ triệu tập tất cả quân phòng vệ của các châu, vừa có tiền, lại vừa có binh, thế mà vẫn không thể diệt tận gốc nạn thổ phỉ ở Trà châu. Trước khi Thẩm Trạch Xuyên đến Trà châu, Chu Quế và các phụ tá của Từ châu đã làm báo cáo chi tiết về Trà châu, bọn họ đều nhất trí cho rằng, đối với Trà châu, chỉ có thể dùng cái đầu.
Thái Vực quả thực không phải Lôi Thường Minh, điểm khác nhau lớn nhất giữa thổ phỉ Trà châu và thổ phỉ núi Lạc chính là Trà châu vẫn chỉ là thổ phỉ, trong khi ở núi Lạc lại là bầy đảng tụ họp, không chỉ hình thành lãnh địa, mà còn có ý đồ khuếch trương ra bên ngoài, Lôi Kinh Chập núp bóng sau lưng Lôi Thường Minh hiển nhiên đã không còn thỏa mãn với việc chỉ làm một thổ phỉ, hắn có dã tâm thay da đổi thịt, nhưng Thái Vực thì không. Cho nên với núi Lạc phải đánh, còn với Trà châu phải mưu.
La Mục có lẽ không cần mẫn thương dân như Chu Quế, nhưng Thẩm Trạch Xuyên ngầm cho phép Khổng Lĩnh đến thăm hỏi trước là đã cho thấy bọn họ cần La Mục. La Mục thân là châu phủ Trà châu suốt mười mấy năm, không có ai hiểu nội tình của Trà châu hơn ông ta.
“Đại nhân được điều đến Trà châu vào năm Vĩnh Nghi, lúc đó có chính tích lẫy lừng, đã từng cố gắng khuyên Thẩm Vệ trừ phỉ, nhưng Thẩm Vệ cho rằng Đôn châu cách Trà châu khá xa, ở giữa còn có cả Phàn châu, mang binh đường dài có nhiều bất tiện, hơn nữa phí tổn lớn, mà phần thắng thì quả thực quá nhỏ, cho nên Thẩm Vệ mới bác bỏ tấu gián của đại nhân.” Lúc Thẩm Trạch Xuyên nhắc đến tên Thẩm Vệ, ngay cả mắt cũng không mảy may chớp, y nói, “Ta thấy chủ trương sau này của đại nhân, bắt đầu thay đổi từ chính lúc ấy.”
La Mục khoát tay: “Việc gì phải nhắc đến chính tích lẫy lừng? Đó là đồng tri đang quá khen rồi. Sau khi đến Trà châu, ta cũng chưa có thành tích gì đáng nói đâu. Năm Vĩnh Nghi Trà châu nổi tiếng vì nạn thổ phỉ, lúc đó Khuất đô xem xét điều quan viên xuống, ta với Giang Thanh Sơn đều nằm trong danh sách. Sau đó là ta được điều đi, lúc đến quả thật có lòng trổ tài, nhưng khó quá.”
Vẻ mặt La Mục dần trầm xuống.
“Hai năm đầu, mục tiêu của ta là chấn hưng quân phòng vệ, mặc dù Thẩm Vệ không đồng ý nhưng cũng không ngăn cản. Bộ Binh nghĩ là làm được, cho nên dựa theo tấu gián của ta mà tăng thêm quân phí cho Trà châu, thế nên ta mới trang bị được cho quân phòng vệ. Lúc đó ta rất mãn nguyện, một lòng muốn diệt phỉ. Nhưng đến lúc đánh thật mới nhận ra không làm được. Thổ phỉ của Trà châu có thể truy ngược về tận trước năm Vĩnh Nghi, tận cái lúc mà quân phòng vệ Trà châu còn chưa được thành lập, từ lúc đó đã có một bộ phận giặc cỏ rồi. Hà châu trước đây cũng không hề sung túc như bây giờ, hồi đó Nhan thị còn chưa phát tài, thương nhân buôn trà trên con đường này chủ yếu là phú thương đến từ mười ba thành Quyết Tây, thổ phỉ Trà châu sống nhờ vào việc cướp bóc các lái buôn này, đến lúc triều đình chú ý đến thì đã muộn rồi, thổ phỉ đã sớm mọc rễ ở Trà châu, sau đó còn sinh ra cả bang phái.”
Chuyện ấy khiến cho dân chúng Trà châu dữ hơn, so với những nơi khác thì không nhiều quy củ như vậy, nhập tịch hoàng sách đến đây là khó làm nhất, gần như một nửa người đều đã từng làm thổ phỉ, không thể tính là lương tịch, chỉ có thể tính thành quân hộ. Lúc đó khi quan lại Đông cung bàn đến nơi đây, đã tính để những người này nhập ngũ, làm quân chính quy, có quân điền và lương tháng, có thể bảo đảm gia đình tạm đủ sống qua ngày, không đến nỗi phải đi làm giặc cỏ, đi làm việc trái pháp luật, đồng thời cũng có thể hạn chế lưu chuyển nhân viên, để bọn họ yên tâm cày cấy ở Trà châu, bớt phiền toái cho những vùng xung quanh, nâng cao năng lực quản chế của châu phủ.
Nhưng quan lại Đông cung lại phạm phải một điều đại kỵ, đó chính là đàm binh trên giấy, áp dụng đường lối của các châu khác trong Trung Bác lên Trà châu mà không điều chỉnh cho phù hợp. Thổ phỉ của Trà châu trở thành quân chính quy, nhưng đất nào dễ khai khẩn như vậy, bọn họ an phận thủ thường chưa được bao lâu, đã bắt đầu vừa ăn lương quân đội vừa tiếp tục làm thổ phỉ. Lần này đến cả thông điệp cũng chẳng cần ngụy tạo, chỉ cần lấy danh diệt phỉ là có thể xông ra cướp bóc. Tự mình đuổi mình, mãi mãi xoay vần với triều đình. Châu phủ được điều đến không chống cự nổi thế lực đã thành hình của thổ phỉ, La Mục nhanh chóng bị đánh bại, bị thổ phỉ hung hăng dạy cho một trận ra trò.
Không chỉ có thế, Trà châu giai đoạn sau còn xuất hiện trùm phỉ như Thái Vực, bọn chúng vừa trọng hiệp nghĩa giang hồ, lại chịu chia tiền tiếp tế các anh em trên đường, qua lại càng nhiều danh tiếng càng vang, so với đám văn nhân cứng nhắc thì càng được đi theo nhiều hơn, châu phủ chẳng khác gì đồ bỏ.
La Mục nói đến đó thì Thẩm Trạch Xuyên đã hiểu đại khái, vì sao Thẩm Vệ lại không chịu xuất binh.
Bởi vì Thẩm Vệ không dám.
Thẩm Vệ được phong làm Kiến Hưng vương, đó chẳng qua chỉ là một cái danh êm tai, nếu nhìn vào tận gốc rễ thì lão ta với quan viên điều xuống như La Mục chẳng có gì khác biệt cả, lão ta cũng là hộ ngoại lai. Ban đầu lão ta không đồng ý cũng không phản đối chủ trương của La Mục, chỉ ngóng xem, nếu La Mục thành công, lão có thể nhìn mèo vẽ hổ, nếu La Mục thất bại, lão càng có thể truy cứu trách nhiệm. Lão không chịu thò đầu ra mà đắc tội đám thổ phỉ ở Trà châu, bởi vì lão rất rõ ràng, so với La Mục, đám Thái Vực mới là “quan phụ mẫu” của Trà châu.
“Nhưng thời thế đã thay đổi,” giọng Thẩm Trạch Xuyên hơi khàn, y ho nhẹ mấy cái rồi mới nói tiếp, “giờ Thái Vực ăn tiền lãi Nhan thị cho, kiếm toàn máu và nước mắt, đám thổ phỉ đã thành thế bọn chúng phát đều là tài của nạn dân. Bên trong Trà châu ăn mặc không lo, bên ngoài lại la liệt người chết đói, càng để lâu, đến dân thường cũng phải sinh oán.”
“Không gạt đồng tri,” La Mục cân nhắc nặng nhẹ, cẩn thận nói, “sau khi Trung Bác binh bại, lương thực của Trà châu đã giảm sút hẳn, ít đến thảm. Ban đầu nội các lấy từ kho lương của các châu chuyển đến Quyết Tây trên danh nghĩa cứu tế, theo lý, việc này phải ký giấy nợ với Trung Bác. Nhưng Thẩm Vệ lại chết, Khuất đô mãi không phái một vị chủ quản đến, sáu châu mạnh ai người nấy làm, chỉ duy trì kế sinh nhai thôi cũng đã chật vật vô cùng, không còn sức để truy cứu chuyện Khuất đô thiếu lương nữa, tất nhiên là có truy cứu cũng chẳng đến đâu. Mấy năm gần đây lương tịch bí quá hóa liều ngày càng nhiều, đó đều là vì đói quá, không còn đường nào để sống, chỉ có thể đi làm giặc cỏ. Thổ phỉ Trà châu do Thái Vực cầm đầu ban đầu cũng chịu cứu tế dân nghèo, nhưng sau đó Nhan thị Hà châu cũng xuống nước, muốn mượn thế lực của Thái Vực để bóp chết cơ ngơi của Hề thị, bởi vậy mới đi buôn lương thực. Bọn họ bắt tay kiếm được đầy chậu đầy bát, Thái Vực có hàng núi vàng bạc, lại còn tuổi càng cao, càng thích nghe người khác nịnh, dần dần mất đi lòng hiệp nghĩa trước đây, bèn dỡ cả lều cháo, cửa hàng lương bên ngoài, rắp tâm làm vua một cõi Trà châu, tiếng oán dậy trời ở Trà châu, hắn đã không còn bằng ngày trước.”
Nhưng lạc đà gầy vẫn còn lớn hơn ngựa, uy lực của Thái Vực ở phía Nam Trung Bác và biên giới Hà châu vẫn còn dư âm, tiếng “A gia” mà Nhan Hà Như gọi hắn vẫn rất có sức nặng. La Mục lén tài trợ mấy bang phái nhỏ khó ăn nên làm ra, đối với hiện trạng ăn không đủ no của Trà châu thì ông chỉ có thể lo lắng mà thôi.
Trong phòng rơi vào một bầu yên tĩnh ngắn ngủi, hoa nguyệt quế lấp ló qua ô cửa sổ mở một nửa, sương mưa còn chưa khô. Bầu trời âm u, đã qua một hồi lâu, thời gian La Mục có thể ở đây không còn nhiều lắm.
Mặc dù cửa sổ đang mở, Thẩm Trạch Xuyên vẫn cảm thấy bí, ngón tay của y đặt bên dưới chén trà đã lạnh, y lại nói lời mâu thuẫn với những lời vừa rồi: “Nếu Thái Vực vẫn còn duy trì cảnh giác, phải hiểu cái gọi là than oán dậy trời chẳng qua chỉ là ma mưu quỷ kế của các bang phái khác mà thôi. Đại nhân là em rể của hắn, có thể nhắc nhở hắn một chút về chuyện này.”
La Mục khẽ run lên, không hiểu ý này.
Thẩm Trạch Xuyên khều nắp chén trà trắng noãn như ngọc, nói: “Lôi Thường Minh chết rồi, Thái Vực chính là đại phỉ danh chấn Trung Bác, giờ đúng là thời điểm hăng sức của hắn, cho dù là với Trà châu hay với Nhan thị, hắn đều không thể chấp nhận ai khác được ké phần. Vả lại người tuổi càng cao, sợ nhất chính là ‘không bằng ngày trước’, nếu hắn nghĩ lòng căm phẫn của dân chúng bây giờ đều là do hậu sinh tiểu bối giở trò, hiển nhiên sẽ không bỏ qua cho bọn họ.”
Lúc bấy giờ La Mục mới hiểu, không khỏi thầm nói một tiếng quá ác.
Thẩm Trạch Xuyên đây là muốn khiến Thái Vực dùng dân oán để gây ra nội đấu trong bang phái, là có người cố tình xúi giục. Một khi Thái Vực đã nghĩ thế, sẽ bèn nắm chặt tiền tài trong tay, chèn ép đám thổ phỉ nhỏ ngày một thậm tệ. Đám thổ phỉ nhỏ vốn đã sinh lòng bất mãn, lại còn bị Thái Vực đè đầu nữa, ba phần bất mãn cũng sẽ biến thành bảy phần, chỉ cần hai bên tích tụ thù oán, sẽ khó có thể tiếp tục bắt tay, thậm chí sẽ còn đối chọi nhau gay gắt.
“Các bang phái nhỏ mà đại nhân từng lén tài trợ đều có ích, chờ đến lúc từng người bọn họ đều bị Thái Vực đánh đau, đánh đến tàn nhẫn, ngươi hãy ra tay tương trợ bọn họ, hào phóng tặng lương, để cho bọn họ tụ tập lại, trở thành anh em trong hoạn nạn.” Thẩm Trạch Xuyên uống hết trà, ra dấu cho Kiều Thiên Nhai rót thêm. Y nhìn La Mục, nói: “Nhỏ mà quần tụ, ắt sẽ thành thế, đây giống như một bầy sài cẩu vậy, việc chúng ta phải làm không phải đánh trực diện, mà là đổ dầu vào lửa.”
La Mục nghe mà lạnh cả người, hắn chỉ cần nói bóng gió mấy câu với Thái Vực là đã có thể khiến Thái Vực tự hủy trường thành rồi. Kế ly gián không phải là lạ, nhưng Thẩm Trạch Xuyên mới đến Trà châu có một đêm mà thôi, lại đã có thể nắm rõ lai lịch của Thái Vực và Trà châu đến vậy, khiến La Mục không khỏi nhớ đến thân phận ban đầu của Thẩm Trạch Xuyên —— Cẩm y vệ.
“Đến lúc Thái Vực ngã rồi, chúng ta sẽ có thể bàn chuyện buôn bán lương thực giữa hai châu.” Thẩm Trạch Xuyên nói thản nhiên, “Quãng thời gian ngậm đắng nuốt cay này của đại nhân, sau này sẽ trở thành câu chuyện ca tụng ở Trà châu. Trăm họ được no bụng chính là chính tích lẫy lừng nhất của đại nhân, dù có sang các châu khác, cũng vẫn sẽ là quan phụ mẫu khiến người ta phải ngưỡng mộ. La đại nhân, đi đường cẩn thận.”
***
La Mục đi chưa được bao lâu, trời đã lại bắt đầu nổi mưa.
Thẩm Trạch Xuyên ngồi trong xe trở về đình viện, lúc xuống nhìn thấy tay Kiều Thiên Nhai đang vắt áo choàng, bèn bảo: “Tháng Bảy trời vẫn còn nóng, chưa đến mức mặc đến cái này… Sao cái này ngươi cũng mang theo vậy?”
Kiều Thiên Nhai che ô, đáp: “Tôi không có nghĩ đến đâu, là sư phụ đặc biệt dặn đấy.”
Thẩm Trạch Xuyên bước qua cửa vào, đình viện này là bảo Cát Thanh Thanh ở Quyết Tây xa xôi mua lại để giả vờ làm ăn, không lớn, rất cũ. Trước hiên đọng nước, trong sân không trồng mấy hoa cỏ.
“Sau khi đến Trung Bác ta đã bỏ bê công phu, khiến cho sư phụ lo lắng, sau khi về đừng báo cho người chuyện ta bị bệnh nữa.” Thẩm Trạch Xuyên vừa nói vừa ngoảnh mặt lại, cười với Khổng Lĩnh, “Vất vả cả cho Thành Phong tiên sinh rồi.”
Khổng Lĩnh bèn vội vàng nói không dám.
“Mới vừa rồi ngồi trong phòng, thấy hoa nguyệt quế trồng bên cửa sổ dưới mưa xanh tốt, rất thích mắt.” Thẩm Trạch Xuyên thuận miệng nói, “Lúc nào về nhà trồng một ít đi.”
Bọn họ vừa bước lên thềm đã thấy Phí Thịnh cung kính chờ bên trong ra đón. Hắn không dám chểnh mảng nhiệm vụ, cười tươi đón Thẩm Trạch Xuyên, nói: “Cuối cùng chủ tử cũng về rồi.”
Thẩm Trạch Xuyên nói: “Xem ra có tin tốt muốn báo hả?”
“Chủ tử anh minh,” Phí Thịnh vén rèm cho Thẩm Trạch Xuyên, “trước khi đi ta nhận được đồ hầu gia sai người mang về, biết là vật quan trọng, bèn đi cấp tốc không dám dừng lại để mau chóng mang tới cho chủ tử đây.”
Tên này lúc nói năng rất ưa nịnh, Kiều Thiên Nhai nghe mà buồn cười, bật cười thành tiếng ở đằng sau, cứ thế chui vào theo mà trêu: “Phí Lão Thập vừa đến là ta đã thấy thú vị rồi, rất có ý tứ, có vui.”
Thẩm Trạch Xuyên cởi áo choàng ra, nói: “Để ta xem một chút.”
Phí Thịnh lơ Kiều Thiên Nhai đi, nhận lấy đồ từ thuộc hạ rồi mang đến trước mặt Thẩm Trạch Xuyên. Thẩm Trạch Xuyên sờ cái bị, vẫn còn lạnh.
“Hầu gia sai người mang về trạch, đặc biệt dặn phải ướp lạnh. Trong nhà chúng ta không có băng nên đã xin của Chu đại phu nhân, tiếc là đi đường không đậy kín, nên chưa đi được bao xa đã tan hết mất rồi.”
Trong lòng Thẩm Trạch Xuyên tò mò, nhưng không để lộ ra trước mặt mọi người. Đầu ngón tay véo cái bị một cái, bên trong đựng đồ dạng nước, y còn chưa kịp mở ra xem, đã bị một mùi chua xộc thẳng vào mũi.
Kiều Thiên Nhai đứng gần nên cũng ngửi thấy mùi, hỏi: “Đây không phải là sữa bò sao?”
“Không phải chứ,” Phí Thịnh thắc mắc, “hầu gia sai người mang sữa bò từ xa đến làm gì? Để qua đêm cũng khỏi uống rồi.”
Bọn họ vừa nói vừa nhìn Thẩm Trạch Xuyên, Thẩm Trạch Xuyên không ghét cái mùi này, khóe môi cong lên rất khẽ, nhận ra bọn họ đang nhìn mình thì bèn liếc một cái, hỏi: “Làm sao?”
Nào còn ai dám nói gì.
Thẩm Trạch Xuyên đóng nắp lại, mở ra một cái hộp khác, bên trong quả nhiên là trà thô. Y đứng đó hồi lâu, khẽ thở dài một hơi, cảm thấy đúng là y hiểu Tiêu Trì Dã quá rõ.
Sữa bò đối với người khác thì ở đâu cũng thế cả, nhưng đối với Tiêu Trì Dã, của Ly Bắc chính là của Ly Bắc, đồ của nơi khác không thể thay thế được. Hắn để dành ra một ngụm ấy, thừa biết là không để được, nhưng vẫn muốn bảo người mang về cho Thẩm Trạch Xuyên.
Ngộ nhỡ đuổi kịp, vẫn còn uống được thì sao? Có thứ gì ăn ngon, uống ngon, bọn họ đều muốn cùng nhau nếm.
Tiêu Trì Dã nghĩ thế, người khác không hiểu, nhưng Thẩm Trạch Xuyên lại hiểu nhất.
===

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.