Thương Tiến Tửu

Chương 141: Mưa rơi




Thổ phỉ sao ngờ được dân chúng ngoài thành sẽ đồng loạt tấn công, tiếng dậm chân vang rền như sấm, tiếng khóc, tiếng chửi hỗn tạp như hồng thủy nhấn chìm đám thổ phỉ. Bọn họ đã đỏ vằn cả mắt, vừa đánh vừa gào: “Ác tặc đáng chết!”
Thổ phỉ nào địch lại nổi nhiều người như vậy, đá, bát vỡ bay tứ tán, đập vào lũ thổ phỉ khiến chúng ôm đầu chạy trốn như chuột. Đường chủ thấy tình hình không ổn thì định chạy, nhưng quay đầu lại nhìn đã thấy thân tín của Thái Vực đã chạy về rồi!
“Đồ con rùa!” Đường chủ giận tím mặt, cũng ba chân bốn cẳng chạy theo.
Nhưng vận may của hắn lại không tốt, bị Phí Thịnh tay lanh mắt lẹ túm ngay lại. Tên đường chủ này chẳng qua chỉ là một tên dân tầm thường mà thôi, sao đánh nổi Cẩm y vệ đã được huấn luyện nghiêm chỉnh như Phí Thịnh, giờ ngã vào giữa đám đông, bị cả đoàn vây đánh, che mặt lăn lộn gào khóc.
Những tên thổ phỉ còn lại đã sợ mất mật, thấy bách tính ngoài thành giống như ác quỷ ăn thịt người vậy, nhìn đường chủ bị đánh, thế mà lại vứt hết mũ giáp chạy về phía trong thành.
***
Thái Vực đang chờ tin trong phủ, đồ ăn đặt trên bàn cũng đã nguội, bỗng dưng lại nghe thấy tiếng hỗn loạn bên ngoài. Hắn vội vàng đứng dậy, chưa đi được mấy bước đã thấy người lảo đà lảo đảo xông vào, mất hồn mất vía mà nói: “Lão gia, bên ngoài có nhiều người đến lắm, đang bao vây phủ viện của chúng ta rồi!”
Chủ lực của Thái Vực đã phái ra ngoài thành, bây giờ ở lại trong thành chỉ còn không quá năm trăm người. Hắn hiểu ngay tức thì, nghiến răng mà gằn: “Trúng kế rồi!”
Hiện giờ bên cạnh hắn không có ai, chính là cơ hội cho các bang phái nhỏ.
Thái Vực nói ngay tức thì: “Để hộ vệ và nhân thủ còn thừa canh cổng các viện, mang áo choàng của ta đến, ta muốn đích thân ra cửa chào đón!”
Thái Vực khoác áo choàng vào, đeo lên cả đao của hắn, dẫn theo tùy tùng bước nhanh ra ngoài. Cửa phủ đóng kín, cách lớp cửa, Thái Vực thấp thoáng thấy cơ man là đuốc qua kẽ hở. Lòng hắn nặng trĩu, nhưng trên mặt lại cười lớn: “Vị tiểu hữu nào đây? Hôm tay ta không mời tiệc, cũng chẳng có chuyện vui, sao lại phải gióng trống khua chiêng đến chúc mừng thế này?”
La Mục bên ngoài thản nhiên đáp: “Ta nghe nói dạo này huynh trưởng ác mộng quấn thân, ngủ không được ngon, bởi vậy mới đặc biệt mời các vị huynh đệ, tối nay đến chỉ để xua sát khí trong phủ cho huynh trưởng đấy.”
Thái Vực nhận ra giọng của La Mục, trên mặt lộ vẻ không vui, nói: “Mộng Chính, ta gả em gái cho ngươi, cũng đối xử với ngươi không hề tệ, ngươi lấy oán trả ân như vậy, e là trái đạo nghĩa rồi.”
La Mục không biến sắc mà đáp lại: “Thái Vực, ngươi đóng kho bán lương, thừa nước đục thả câu, bỏ mặc bách tính lang thang ngoài thành, sớm đã không còn là nghĩa hiệp. Ta thân là châu phủ Trà châu, để khiến ngươi mất phòng bị nên mới buộc phải giao thiệp với ngươi suốt nhiều năm. Giờ ngươi đã mất hết nhân tính, tốt nhất hãy giơ tay chịu trói đi.”
Thái Vực vốn không phải người giỏi giả vờ, ngay tức thì nổi trận lôi đình mà quát: “Thằng ranh vô sỉ này! Lúc ngươi cầu hôn em ta, thành khẩn đến mức nào, giờ lại quay ra phản bội ta, ngươi, ngươi là cái thứ tiểu nhân đê tiện!”
La Mục bước lên mấy bước, không muốn đôi co với Thái Vực nữa: “Ngươi mau mở cửa đầu hàng đi, không thì bọn ta sẽ phá cửa đấy!”
Thái Vực nắm lấy bội đao bên hông, lớn giọng gầm lên: “Ta xem ai dám phá! Đao của Thái Vực ta còn chưa cũ đâu, kẻ nào dám tới, ta lấy mạng chó của kẻ đó!”
Nhưng dù Thái Vực có khí thế như hổ, cũng không cản lại nổi tận mấy phe vây đánh. Hộ vệ của Thái phủ đều là người bình thường, thấy đao kiếm dày đặc bên ngoài cửa thì đều nổi ý bỏ chạy.
Thái Vực tránh được mưa tên nhờ sự bảo vệ ở hai bên, nói tiếp: “Chỉ cần là người có công hộ vệ, đều sẽ được ta trọng thưởng! Ta ở Trà châu, là do công tử tự tay chọn, hắn còn gọi ta là ‘A gia’. La Mục, tối nay chỉ cần ngươi làm ta bị thương một tí thôi, sau này công tử chắc chắn sẽ trả lại ngươi gấp bội lần!”
La Mục còn chưa lên tiếng, đã nghe thấy Khổng Lĩnh bên cạnh nói: “Trà châu này rốt cuộc là Trà châu của ai? Ngươi làm tay sai dưới trướng Nhan thị thì thôi, lại còn ép toàn bộ dân chúng Trà châu cũng phải làm tay sai của Nhan thị sao! Ngươi tiếp tay cho giặc, hại chết vô số dân lành bách tính! Tối nay dẫu gì xảy ra, bọn ta phải bắt được ngươi!”
Khổng Lĩnh vừa dứt lời, cửa ngoại viện đã bị xô tung ra. Thái Vực nhìn bọn họ ào vào, nhưng vẫn không chịu khoanh tay chờ chết, quân còn thừa trong phủ vừa đánh vừa lui, chưa đến nửa canh giờ, đã lui đến hậu viện.
Màn đêm u tối, Thái Vực rơi vào lưới tù. Nửa đời hắn sống nghĩa hiệp, chỉ bởi một chữ “tiền” mà rơi xuống lưới trần, giờ phút này thấy gia trạch tan hoang, vợ con than khóc, không khỏi sinh ra một nỗi bi thương của anh hùng vào lúc đường cùng, nhưng hối hận hay không đã đều quá muộn rồi.
Thái Vực khinh miệt việc mà La Mục đã làm, nên mới liều chết chống cự. Phố xá bên ngoài Thái phủ loạn lạc, các bang phái bè đảng lăn xả chung một chỗ, người của Thái Vực càng ngày càng ít. Ngay khi lòng Thái Vực đã nguội ngắt, quyết chí tự tuyệt thì bỗng nghe thấy một tiếng “Ca ca” truyền tới từ giữa bầu hỗn loạn.
La Mục chỉ nhủ thầm một tiếng “Không xong rồi!”, quay đầu lại hô: “Đưa tiểu phu nhân về!”
Thái thị vốn được cưng chiều trong khuê các, vì chạy đến, chạy nhanh suốt một mạch mà không những làm rơi giày, còn ngã trật cả tay. Nàng chẳng màng đến mái tóc đã sũng mồ hôi, không ngừng run lẩy bẩy chỉ vào La Mục. Tính nàng vốn chua ngoa, thế mà giờ phút này trong cổ họng lại chỉ có tiếng nghẹn ngào không kìm nén nổi: “La… La Mục! Ngươi…” Nàng khóc òa lên, “tên tiểu nhân đê tiện nhà ngươi!”
La Mục để ý Khổng Lĩnh vẫn còn bên cạnh, nhưng cũng không dằn lòng nổi mà bước tới hai bước.
Búi tóc của Thái thị rối mù, ngửa cao đầu trong cơn hoảng loạn, nhổ toẹt một cái về phía La Mục, nước mắt lã chã mà nói: “Ta đã ngu ngốc say mê một con chó! Để cho tên tiểu nhân như ngươi lừa gạt!”
Thái thị là em út của Thái Vực, kém Thái Vực rất nhiều tuổi. Mặc dù là em gái, nhưng Thái Vực lại nuôi nàng như con gái, hai anh em sống dựa vào nhau, tình cảm sâu nặng.
Thái thị thấy Thái Vực đã bị vây kín trong đám đông, biết tối nay Thái Vực không thoát nổi cái chết, ôm mặt thất thanh: “Là muội hại ca ca!”
Khổng Lĩnh thấy Thái thị che mặt thì biết ngay không ổn, bèn vội vàng nói: “Nhanh, ngăn nàng lại!”
Nhưng đã muộn, Thái thị nhân lúc che mặt đã rút ra cây trâm vàng trong tóc, chỉ trong nháy mắt, máu đã bắn lên lụa. Thái Vực nhìn thấy mà như đứt từng khúc ruột, nước mắt tuôn trào, ngửa mặt thê lương gào lên trong vòng vây: “Muội tử ngu ngốc, muội tử ngu ngốc! Rõ ràng là ca ca hại muội!”
Vừa dứt lời đã vứt bỏ ý niệm vung đao tự vẫn, gầm lên một tiếng lao vào giữa bầy thổ phỉ, chém liên tiếp mấy người, cuối cùng kiệt sức mà chết, trước khi tắt thở vẫn kêu: “Ta là Thái Vực Trà châu, đến tận lúc chết!”
Loạn chiến cả một đêm, đến giờ Mão trời tảng sáng, phân tranh trong thành đã ngừng. Tường viện của Thái phủ sập gần một nửa, sự tráng lệ ngày hôm qua đã gần như biến mất, người hầu nha hoàn cuống cuồng bỏ chạy, gói cả vàng bạc trang sức trong phủ vào tay nải, lẩn vào màn đêm.
Khổng Lĩnh đứng bên cạnh Thái thị, nhìn vũng máu dính lên vạt áo mình. Đêm nay cả nhà Thái Vực đã qua đời, phần lớn chết dưới đao thổ phỉ. Khổng Lĩnh chờ La Mục đến nhặt xác cho Thái thị, nhưng lại thấy người hầu bảo, La Mục đã đi xem kho lương của Thái thị rồi.
Khổng Lĩnh đứng ở đấy, đứng đến tận sau giờ Ngọ mà vẫn không chờ được La Mục.
***
Thái Vực vừa ngã, cửa hàng lương thực của Trà châu vào hết dưới tay La Mục quản lý. Giờ ông không chỉ nắm giữ lương của Thái Vực, mà còn nắm giữ tiền của Thái Vực. Xe lương của Từ châu đã vào thành, nhưng bạc mà ông đáp ứng với Từ châu từ trước lại mãi không đưa, giá gạo trong thành vẫn là một lượng một thạch như hồi Thái Vực còn sống.
Phí Thịnh ở trong sân thở dài mà nói: “Hồi còn trong chiếu ngục, vẫn hay nghe thằng cháu trai Hàn Thừa bảo ra ngoài làm việc khó lắm, mấy ‘lão cha’ ở địa phương ai cũng ranh, đúng là danh bất hư truyền.”
“Thủ đoạn kiểu này còn ghê hơn cả đô quan,” Kiều Thiên Nhai gối đầu lên tay, nằm phơi nắng trên băng ghế dài bằng đá, “chả trách có thể làm châu phủ ở Trà châu lâu như vậy, có bản lĩnh.”
Khổng Lĩnh đang pha trà bên cạnh, không lên tiếng.
Thẩm Trạch Xuyên ở trong chính phòng vén rèm đi ra, cả ba người bọn họ đồng loạt đứng dậy, Thẩm Trạch Xuyên ra hiệu cho bọn họ không cần đứng rồi hỏi: “Mấy giờ rồi?”
Phí Thịnh nhanh nhảu đáp: “Sắp trưa rồi.”
Thẩm Trạch Xuyên cầm cây quạt, nhìn ánh mặt trời chói chang, bèn xòe quạt ra che mắt lại, nói: “Trà châu thắng lớn, không phải vẫn còn chưa ăn tiệc mừng sao? Gửi một tấm thiệp cho La Mục đi, bảo ông ta tối nay uống rượu ở đây.”
Phí Thịnh vâng, còn hỏi thêm: “Chủ tử, nhỡ mà ông ta không dám đến thì sao?”
Thẩm Trạch Xuyên hé mắt ra, nét cười hiện lên, nói: “Không dám sao? Ta thấy ông ta hơi bị gan đấy.”
Phí Thịnh nghe ra sự phật ý, bèn vội vàng lui ra đi gửi thiệp.
Mấy hôm nay Khổng Lĩnh toàn uống rượu đánh bạc, bộ dạng vui quên lối về. Giờ thấy Thẩm Trạch Xuyên bước xuống thềm thì đứng dậy.
Thẩm Trạch Xuyên nói: “Nghe nói chôn cất Thái thị, là Thành Phong tiên sinh bỏ bạc ra.”
Khổng Lĩnh lồng tay áo, sờ mấy hạt đậu nành rang còn sót lại trong tay áo, đáp: “À, ừ, là ta.”
Thẩm Trạch Xuyên gấp quạt lại, nhìn Khổng Lĩnh chốc lát.
Khổng Lĩnh nghĩ là Thẩm Trạch Xuyên không vui, nhưng cũng không giải thích.
Chẳng ngờ Thẩm Trạch Xuyên lại bỏ qua, chỉ uống nửa chén trà, không hỏi thêm chuyện này nữa.
Khổng Lĩnh nhớ đến vết thương trong lòng bàn tay trái của Thẩm Trạch Xuyên tối hôm đó, lại càng thấy mệt mỏi hơn. Chuyến này ông đi, cảm thấy mình chẳng làm gì cả, vậy mà còn mệt hơn cả ở Từ châu.
Trái với dự đoán của Phí Thịnh, buổi tối La Mục không chỉ đến, mà còn đến một mình. Đầu bếp trong nhà là một người mới, tay nghề tạm được, Thẩm Trạch Xuyên không bắt bẻ, gọi là tiệc, nhưng thức ăn cũng chỉ chăm chút hơn bình thường một tí thôi. Trà châu bây giờ lưu dân khắp chốn, Thẩm Trạch Xuyên cũng chỉ ăn đơn giản.
Rượu quá ba tuần, không khí hai bên hòa thuận. Phí Thịnh thấy dù là Thẩm Trạch Xuyên hay La Mục, đều ôn hòa như nhau, không mảy may mang chút vẻ khó chịu nào bởi sự chậm trễ mấy ngày nay.
La Mục kính rượu rồi nói: “Giờ vạn sự đã sẵn sàng, lương thực đều dễ thương lượng, nhưng chẳng hay bao giờ đồng tri về? Có ngày cụ thể, cũng tiện để ta bảo phụ tá trong phủ lên kế hoạch.”
Thái Vực đã chết được ba ngày, mọi việc đã được thương lượng ổn thỏa từ lâu trước khi bọn họ ra tay, nhưng La Mục bây giờ lại không chịu làm việc đúng hẹn, chính là muốn kéo dài thời gian, muốn vòng vo với Thẩm Trạch Xuyên. Về phần lý do thì, theo như ông ta đã bảo với Khổng Lĩnh, giá lương thực giảm một đấu, đó cũng là vàng thật bạc trắng, giờ những vàng thật bạc trắng ấy vào tay ông rồi, bảo ông bỏ đi như ông đã từng nghĩ thì lại quá khó.
Trong đường có người con gái đi theo cha mù đang hát khúc, Thẩm Trạch Xuyên nhìn người cha kéo đàn nhị, đầu ngón tay nắm hờ lấy cây quạt, dường như không nghe. Đến lúc khúc hết, Thẩm Trạch Xuyên mới cười: “Lịch trình của ta đã chốt rồi, chỉ hai ngày nữa thôi.”
Mặt La Mục lộ vẻ khó xử, nói: “Hai ngày thì vội quá, đồng tri không thể ở lại thêm mấy hôm nữa sao? Có rất nhiều cảnh ở Trà châu, đồng tri còn chưa đi thăm mà.”
Ánh mắt Thẩm Trạch Xuyên lay động, dừng lại trên mặt La Mục, nói: “Người nhà mong, lòng ta cũng muốn về nhà rồi.”
Thẩm Trạch Xuyên nói điềm đạm đến vậy, La Mục lại bỗng thu lại vẻ bông đùa. Ông ngồi thẳng dậy, nghiêm mặt mà nói: “Vậy thôi cũng được, hay là thế này đi, đồng tri cứ về trước, sau khi ta ở đây đã vạch ra xong phương hướng rồi, sẽ bảo người mang đến cho. Thành Phong có thể ở lại, đôn đốc làm chứng.”
Khổng Lĩnh định nói gì đó, cây quạt của Thẩm Trạch Xuyên lại đúng lúc gõ nhẹ vào mép bàn, ông im lặng ngay.
Thẩm Trạch Xuyên dựng cây quạt lên, nhìn đăm đăm vào La Mục, nhưng miệng lại bảo người cha mù kia: “Nếu chơi tiếp thì hãy chơi một bài của Trà châu nhé, không phải Trà châu có bài《 Từ Giết Đạo 》 sao?”
Người cha mù khẽ gật đầu, ngồi dịch xuống, bảo cháu gái đổi sang tỳ bà rồi bắt đầu chơi.
Thẩm Trạch Xuyên không nhận lời La Mục, La Mục ngồi phía đối diện cũng không dám nhắc lại nữa. Ban đầu ông còn có thể nhìn thẳng vào Thẩm Trạch Xuyên, nhưng khi khúc hát dần ngấm sát khí, ông lại toát mồ hôi.
Thẩm Trạch Xuyên mở nắp chén trà ra, nói: “Trà này là trà đại nhân tặng đấy, trà ngon, của Hà châu sao?”
La Mục gượng cười: “Soát ra trong phủ Thái Vực cả đấy, ta không phải người am hiểu trà, biếu đồng tri mới đúng.”
Thẩm Trạch Xuyên bật cười: “Ta không thích uống trà.”
Ngón tay cô gái lướt đi, tiếng tỳ bà tính tang tựa như tiếng dao, ken két bên tai, dồn dập bắn tóe lên, đến mức lưng La Mục đẫm mồ hôi. Một khúc này đối với ông sao mà dài đằng đẵng, thức ăn đầy bàn đã lạnh ngắt, món thịt lợn viên đặt trước mặt là bắt mắt nhất. Đến lúc La Mục rời chỗ, hai chân đã tê rần.
Thẩm Trạch Xuyên đứng dưới mái hiên, nói với Phí Thịnh: “Tiễn đại nhân đi, đường này dài lắm.”
La Mục gượng gạo hành lễ, mấy lần nhìn sang phía Khổng Lĩnh, cuối cùng bị Phí Thịnh dẫn ra khỏi cửa. Không quá hai canh giờ sau đó, cả công văn lẫn bạc đã hứa lúc trước đều được đưa đến phủ Thẩm Trạch Xuyên. Nửa đêm ông nằm trên giường, trong đầu chỉ có duy nhất một câu, đó là Thẩm Trạch Xuyên biết ông muốn làm gì.
La Mục nhắm mắt nghĩ về hành động của Thẩm Trạch Xuyên ở ngoài thành, một người mà đến cả chính mình cũng dám lấy ra để đặt cược, căn bản sẽ chẳng quan tâm đến hậu quả của việc giết chết ông. Trước khi bọn họ ra tay với Thái Vực, Thẩm Trạch Xuyên đã nói “Bọn họ đến để làm ăn”, giờ La Mục nghĩ lại, cảm thấy những lời này cũng là lời cảnh cáo Thẩm Trạch Xuyên sớm để lại cho ông.
***
Hai ngày sau Phí Thịnh ở lại Trà châu, hắn vừa có thể làm thính ký, lại vừa có thể để mắt đến La Mục. Xe lương của Từ châu nhập vào kho lương, do chưởng quỹ bán son phấn trước kia làm kế toán, buôn bán lương thực giữa Từ châu và Trà châu cứ thế mà quyết. Giá lương mà Thẩm Trạch Xuyên và người của Chu Quế ở Từ châu định ra ban đầu là một lượng một thạch tám đấu, giờ cao hơn một ít, thành một lượng một thạch sáu đấu, giá này đã là thấp hơn Khuất đô.
La Mục mua lương thực của Từ châu, không chỉ phải mở lều phát cháo, còn phải tìm cách để tiêu chỗ bạc này. Vấn đề chính của Trà châu cũng là nhập lại hộ tịch, giờ trong tay ông nắm giữ lương thực của đám thổ phỉ nhỏ, có thể bố trí người vào quân phòng vệ. Những vấn đề phát sinh đều có thể bàn lại khi Từ châu có nhiều lương thực hơn, có Phí Thịnh ở đây, cũng có thể theo dõi hướng đi của Nhan thị Hà châu bất cứ lúc nào.
Thẩm Trạch Xuyên đã hạ bệ liên tiếp hai đại chủ lực ở Trung Bác, khoản nợ này đã ghi vào lòng Nhan thị, ban đầu bọn họ không hề liên quan, nhưng giờ cũng phải chú ý đến Trung Bác, chú ý đến Thẩm Trạch Xuyên.
Thẩm Trạch Xuyên không ở lại lâu, mặt trời vừa lên đã lên xe đi. Lúc bọn họ sắp ra khỏi nội cảnh Trà châu, bỗng nghe thấy có người ngồi xe đuổi theo ở đằng sau.
Kiều Thiên Nhai vén một góc rèm lên, thấp giọng bảo Thẩm Trạch Xuyên: “Là La Mục.”
La Mục đến để tiễn, nhưng Kiều Thiên Nhai nói hôm nay Thẩm Trạch Xuyên khó chịu trong người, ông bèn thôi, đến chủ yếu chỉ để tiễn Khổng Lĩnh. Hai người bọn họ xuống xe ngựa, bước một đoạn dọc theo quan đạo.
La Mục lấy gói bánh ngọt bọc trong giấy dầu ra từ trong ngực áo, nói: “Hồi còn ở thư viện ông thích ăn cái này, lúc ta đi ra thấy có người bán nên tiện thể mua luôn. Ông cầm theo ăn dọc đường đi.”
Khổng Lĩnh nhìn gói giấy dầu kia, nói: “Chuyện bao nhiêu năm trước rồi, ông vẫn còn nhớ sao.”
La Mục cười buồn: “Ừ… Ta phải nhớ chứ. Lần sau xe lương đến, ông có đến không?”
Khổng Lĩnh nhận lấy gói giấy dầu, bước đôi bước, không đáp.
La Mục nhìn Khổng Lĩnh, giống như nhiều năm về trước, ông luôn nhìn Khổng Lĩnh như vậy.
Khổng Lĩnh cầm gói bánh ngọt ấy, chẳng hiểu sao lại nói: “Năm đó lúc rời thư viện, ông hỏi ta có đến Khuất đô không, ta không trả lời. Sau đó chúng ta mỗi người một ngả, ông có về thăm lại bao giờ không?”
La Mục đáp: “Ta rời thư viện theo gia đình đi lên phía Tây, ở Khuất đô chờ rất nhiều năm…”
Khổng Lĩnh ngoảnh mặt lại, cuối cùng mới nhìn thẳng vào La Mục, ông nói: “Mộng Chính.”
La Mục chờ một chốc, nhưng không có lời nào tiếp theo, không kìm được mà cười: “Sau đó ta ở Khuất đô, nghe nói ông đầu quân vào dưới trướng Đàm Đài Long. Hắn là một vị quan tốt, hai người cũng làm nên nghiệp… Sao ông lại không lấy vợ?”
Sao ta lại không lấy vợ.
Khổng Lĩnh thầm nghĩ, chậm rãi nở nụ cười. Ông đã già rồi, thế nhưng giờ phút này lại thoáng toát ra chút vẻ ôn hòa thong thả thuở thiếu niên. Chẳng biết vì sao, trong đôi mắt đã mờ đục ấy lại vẫn còn chí khí. Ông siết chặt gói bánh kia, chỉ nói: “… Ta phải đi đây.”
Gió cuốn ngọn cỏ, Khổng Lĩnh quay đi, không đợi La Mục đáp.
La Mục đứng ở trong gió, nhìn tay áo của Khổng Lĩnh phất phơ theo gió, cổ họng nghẹn lại. Ông không đành lòng mà bước tới một bước, thậm chí còn đưa tay ra. Nhưng lọn tóc trắng lẫn trong búi tóc của Khổng Lĩnh đã biến mất vào gió mất rồi, khuất đi trong lá bay, La Mục dường như thấy được rất nhiều năm về trước.
Cả đời này Khổng Lĩnh đã bỏ lỡ rất nhiều điều, nhưng đó không phải vì ông không đấu tranh. Ông đã từng trằn trọc vì một lời mời, cuối cùng bồi hồi ở thư viện, lại chỉ chờ được một cơn mưa tháng Bảy. Ông chờ đến nhòa mắt trong màn mưa kia, xa nhà tha hương từ thuở ấy.
La Mộng Chính là người phong lưu.
Đó là điều mà Khổng Thành Phong nhận ra trong cơn mưa kia, nhiều năm sau này, ông lại chờ, nhưng chỉ chờ được một vạt bào dính máu. Lần nào cũng vậy, La Mục chẳng hề tới.
Khổng Lĩnh và La Mục không còn gặp lại từ đây.
===
Câu chuyện của hai người này làm tôi buồn nhẹ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.