1.
Phúc Mãn vốn chắc mẩm mình từng được đi học ở nội thư đường[2], từng quản lý công việc ở nội các và Minh Lý đường, có bề dày lí lịch, lại còn có Tiêu Trì Dã chống lưng, hắn sẽ là ứng cử viên chắc chắn cho vị trí thái giám chưởng ấn của Tư lễ giám, cho nên mấy hôm nay hắn làm việc càng thêm phần thận trọng.
2.
Ai dè đến lúc hạ chỉ, thái giám chưởng ấn lại chẳng phải hắn, mà là Phong Tuyền. Phong Tuyền còn trẻ, kinh nghiệm ít ỏi, chưa từng được học ở nội thư đường, đã vậy gã lại còn là tiểu thái giám quá tuổi mới vào cung, có dính líu đến cả Phan Như Quý lẫn Kỷ Lôi trước kia, để gã giữ vị trí không kém gì “nội tương[3]” này, Phúc Mãn thật chẳng biết mình nên khóc hay nên than nữa.
3.
“Quan triều ngoại lúc đề bạt thăng chức thì phải nhìn gia thế, quê quán, học vấn, còn thái giám triều nội bọn tôi, cứ tưởng lúc đề bạt thăng chức sẽ tránh được rào chắn của thế gia, khốn kiếp thế mà,” Phúc Mãn đặt chén trà xuống, thở dài thườn thượt, “vẫn không bước qua nổi cái ngạch cửa này!”
“Gã thì có gia thế gì chứ?” Tiêu Trì Dã nghe Phúc Mãn kể khổ, rảnh miệng không uống trà phát biểu, “toàn thơm lây chị gái.”
“Hầu gia, sao tôi lại không có chị gái nhỉ!” Phúc Mãn vỗ đầu gối.
Tiêu Trì Dã cười nhạt: “Không được chưởng ấn thì còn có bỉnh bút. Thái giám bỉnh bút kiêm quản cả Đông xưởng, lão Phúc, cứ để gã làm chim đầu đàn đi, ngươi cũng đỡ phải nghe ngôn quan sỉ vả.”
“Cách Hoàng thượng đối xử với tôi bây giờ không thể bì được với cách tiên đế đối xử với Phan Như Quý, Đông xưởng cũng không oai phong như Cẩm y vệ.” Phúc Mãn hơi ngần ngừ mới nói, “Hầu gia, trông Mộ Phi nương nương bây giờ được sủng ái như vậy, mai mốt lại còn sinh hoàng tự nữa thì chẳng phải Phong Tuyền sẽ ngồi êm luôn sao? Nếu gã biết an phận thủ thường thì cũng được thôi, chỉ sợ lại là một kẻ mưu mô xảo quyệt, phá hoại triều cương, nhiễu loạn xã tắc thì chẳng phải lại thành Phan Như Quý thứ hai ư?”
Ở trong cung, hễ gặp Phong Tuyền là Phúc Mãn sẽ tươi cười niềm nở, nhưng thật ra trong bụng vừa ghen vừa ghét anh ách. Phong Tuyền có Mộ Như làm chỗ dựa nên Phúc Mãn bị gã gạt ra, hắn mà muốn đứng ngang hàng với gã trong Tư lễ giám thì phải lấy lòng được các quan viên triều ngoại.
“Gã còn trẻ, rất nhiều việc vẫn còn phải nhờ cậy ngươi, ngươi thì lại hay qua lại ở nội các, cũng có uy tín trước mặt nguyên phụ, để mà thật sự so ra thì gã chỉ là ranh con tu hú chiếm tổ mà thôi, chẳng đáng là gì.” Tiêu Trì Dã động viên rồi nói tiếp, “Hai ta cùng phối hợp trong ngoài thì sợ gì gã nữa. Dạo này trong cung thế nào?”
“Hề nhị thiếu chết rồi, Hoàng thượng vẫn còn tiếc mấy bài nhạc hắn đang viết dở, buồn mất mấy ngày.” Phúc Mãn ghé lại gần nhìn Tiêu Trì Dã, “Nhưng Hầu gia ạ, lúc tôi pha trà cho các vị đại nhân ở nội các ấy, nghe ý của Ngụy thượng thư là có vẻ còn muốn điều tra sổ sách của Hề gia đấy. Cảng của Hề gia làm ăn rất phát đạt, bây giờ lại còn thiếu mất gia chủ, cơ đồ lớn như vậy có khác nào miếng mồi ngon đâu, ai mà không tơ tưởng!”
“Người nhà hắn còn chưa chết hết kia mà?” Tiêu Trì Dã và Thẩm Trạch Xuyên đã cùng bàn bạc về những thu xếp tương lai cho Hề gia, trong mắt Tiêu Trì Dã, đống chìa nằm trong tay Thẩm Trạch Xuyên ấy chính là của hồi môn của Thẩm Trạch Xuyên. Hắn mới nhịn xuống, nói: “Chị dâu của Hề Hồng Hiên, rồi thì anh em họ đằng nhà nội của Hề Hồng Hiên đều là những con buôn lão làng, lại cũng chẳng phạm tội gì, đang yên đang lành lại đi tra sổ sách nhà người ta, Ngụy Thượng thư rõ là muốn thừa nước đục thả câu.”
“Hoàng thượng thì không đồng ý, nhưng hình như nguyên phụ…” Phúc Mãn dịch tay lên bàn mách Tiêu Trì Dã, “hình như cũng muốn tra đấy.”
Đương nhiên Hải Lương Nghi cũng tự có suy tính của riêng ông, Hề gia giấu quá nhiều bạc, thay vì chia cho họ hàng thì thu vào quốc khố, để triều đình quản lý sẽ tốt hơn. Nhưng thế cũng có nghĩa Hải Lương Nghi sẽ phải mặt đối mặt với thế gia.
“Chủ yếu vẫn nằm ở Hoàng thượng thôi,” Tiêu Trì Dã nghĩ giây lát rồi bảo Phúc Mãn, “Hoàng thượng là minh quân, chú trọng nhất là nhân nghĩa, tháng trước mới đại xá thiên hạ xong, tháng này tự dưng lại vô duyên vô cớ đi tịch thu tài sản của Hề gia, chẳng phải sẽ thành đi ngược lại với mục đích đại xá sao? Chính bản thân Hoàng thượng cũng sẽ do dự. Lão Phúc, việc này chắc chắn Phong Tuyền sẽ theo Ngụy Thượng thư, ngươi mà đi nữa thì lại thành hùa theo mất, tốt nhất là tranh thủ lúc hầu hạ hãy bảo rõ với Hoàng thượng, việc này không nên làm bây giờ.”
Phúc Mãn nghĩ ngay: “Thế chẳng phải đắc tội Ngụy Thượng thư sao?”
“Bất kể là trong cung hay ngoài cung, chủ tử đều chỉ có một, đó chính là Hoàng thượng.” Tiêu Trì Dã cười, “Phan Như Quý cũng quyền thế ngút trời đấy thôi, nhưng không dựa vào Hoàng thượng nên cuối cùng mới máu chảy đầu rơi, ta chẳng bất ngờ. Huống hồ Minh Lý đường cho phép bép xép à? Ngươi nói với Hoàng thượng thì Ngụy Hoài Cổ hắn biết thế nào được? Hoàng thượng thích người trọng tình cảm, ngươi cũng chẳng cần khuyên đâu, thuận miệng nhắc đến là được.”
“Nghe hầu gia.” Phúc Mãn cười tươi rói, trông hắn rất dễ gần, “Đằng nào thì tiền nào thì cũng không rơi vào túi chúng ta được, chẳng thà mọi người cũng dứt khoát khỏi mơ đi!”
“Bộ Hộ tính các khoản thuốc thang cấm quân dùng ở chùa Chiêu Tội cũng mấy hôm rồi đấy. Thế nào rồi, cái này ngươi có nghe đến không?”
“Làm rất tốt, đã trình lên ngự án rồi, không có vấn đề gì đâu.” Phúc Mãn biết người nhận việc này của bộ Hộ là Lương Thôi Sơn do Tiêu Trì Dã tiến cử, bèn bảo, “Lương đại nhân khá thật đấy, xử lý sổ sách rất rành mạch, lúc nguyên phụ hỏi cũng có thể trả lời trôi chảy, nghe chừng sắp được thăng chức rồi đây!”
Tiêu Trì Dã không hỏi nữa, đến lúc Phúc Mãn sắp sửa đi, Thần Dương tặng cho hắn một túi trà ngon mới từ Hà châu. Phúc Mãn cầm lên thấy trĩu xuống thì biết ngay bên trong có gì, nhưng vẫn làm bộ từ chối Thần Dương đây đẩy, Thần Dương phải khuyên lên khuyên xuống hắn mới chịu nhận cho.
Hôm sau lúc tan triều, Tiêu Trì Dã đợi thông truyền ở ngoài Minh Lý đường, Thẩm Trạch Xuyên cũng ở đấy, hai người đứng cách nhau không xa không gần.
“Dạo này đâu đâu cũng thấy người hỏi thăm của cải Hề gia,” Tiêu Trì Dã tháo đao Lang Lệ đưa cho Thẩm Trạch Xuyên, siết tay y lúc y cầm lấy đao, “đại nhân phải nhanh tay lên nhé.”
Hình như Thẩm Trạch Xuyên đang mải nghĩ chuyện khác, nghe vậy mới nhấc đao Lang Lệ lên, nói: “Ừm, người ra khỏi Khuất đô rồi, đang mau chóng đưa quan tài về, tháng sau sẽ có tin.”
“Hải Lương Nghi bất đồng với mọi người, ông ta đã hạ quyết tâm tịch thu tài sản của Hề gia vào quốc khố rồi, người của ngươi có chạy nhanh cách mấy cũng sẽ lỡ mất thời cơ.” Tiêu Trì Dã thấy y hơi thất thần, bèn nới lỏng tay.
Tay Thẩm Trạch Xuyên trĩu xuống, y mới chậm chạp nhấc đao Lang Lệ lên, nói: “… Có nhanh đến đâu thì ông ta cũng phải theo quy trình thôi.”
Tiêu Trì Dã liếc nhìn hàng lang Minh Lý đường, rồi hỏi: “Sao thế?”
Thẩm Trạch Xuyên đáp: “Ta đang tìm người, không thấy sư phụ đâu.”
Tiêu Trì Dã nói: “Miễn không có thông điệp thì tức là vẫn còn đang ở Khuất đô. Đợt dịch bệnh tám đại doanh cũng không dám cho người khác ra vào tự tiện, sau dịch bệnh là cấm quân tiếp quản tuần phòng, nếu sư phụ Kỷ Cương ra ngoài, bên chỗ ta sẽ hay tin.”
“Ta cũng đoán là vẫn đang ở Khuất đô,” Thẩm Trạch Xuyên im lặng giây lát, “Hề Hồng Hiên chỉ định bắt mình tiên sinh thôi, sư phụ muốn bảo vệ tiên sinh nên mới đi cùng, đáng ra không nên lâu thế này. Nhưng nếu tiên sinh vẫn còn đang nguy hiểm thì chắc chắn sư phụ không thể rời đi một mình.”
“Hề Hồng Hiên chết rồi,” Tiêu Trì Dã hơi liếc mắt sang đằng kia, “nên bảo ai đó lục soát nhà vị này.”
Thẩm Trạch Xuyên nhìn theo ánh mắt của Tiêu Trì Dã, ở đằng kia, Tiết Tu Trác vận bộ quan bào đang đi tới cùng với Giang Thanh Sơn.
Tướng mạo của Tiết Tu Trác bình thường, song phong thái lại vô cùng nho nhã. Hắn không giống đám Khổng Tưu, Sầm Dũ, hắn đối nhân xử thế ôn hòa, rất dễ gây thiện cảm với người ta. Giang Thanh Sơn thì lại khác với dự đoán của mọi người, cánh tay sắt của Quyết Tây trong lời đồn trông trẻ hơn tuổi thật nhiều.
Hai người kia đến gần, cả bốn chào hỏi nhau.
Hồi trước đến Khuất đô báo cáo công tác, Giang Thanh Sơn mới chỉ trông thấy Tiêu Trì Dã trong tiệc bách quan từ đằng xa, còn Thẩm Trạch Xuyên là gặp lần đầu hẳn. Nhưng hắn không ôm ý đồ gì ở nơi đây, thế nên với hai bọn họ, hắn vừa không thân thiết, cũng vừa chẳng ra vẻ.
“Năm nay giải quyết được rất nhiều án cũ, đều là công của Tiết tự thừa và chư vị đại nhân bộ Hình, hôm nay vào diện thánh, Hoàng thượng chắc chắn sẽ khen thưởng.” Tiêu Trì Dã nở một nụ cười với Tiết Tu Trác.
Tiết Tu Trác cũng cười, khẽ lắc đầu: “Đều nhờ phán quyết sáng suốt của Thượng thư đại nhân mới xử lý xong, chứ ta chỉ là phụ tá thôi, công lao gì đâu? Thẩm đồng tri đây này, sắp xếp chỉnh lý lại bao nhiêu án cũ trong chiếu ngục, đó mới là vất vả đích thực.”
Thẩm Trạch Xuyên nhìn Tiết Tu Trác, nói: “Chiếu ngục có hồ sơ để tra mà, mấy việc này bút thiếp[4] bình thường cũng làm được thôi.”
4.
Mặt Tiết Tu Trác chẳng mảy may bộc lộ gì, ngoại trừ Giang Thanh Sơn, cả ba người còn lại đều đang lá mặt lá trái. Có vẻ Giang Thanh Sơn không muốn tham gia vào nên chỉ đứng một bên không hề lên tiếng.
Phúc Mãn vén rèm ra ngoài xướng danh, bốn người mới cùng nhau bước vào Minh Lý đường. Lúc Thẩm Trạch Xuyên vào, liếc mắt cái đã thấy ngay Phong Tuyền đang đứng chờ bên dưới long ỷ của Lý Kiến Hằng, ánh mắt đôi bên chạm nhau, Phong Tuyền mỉm cười.
***
Phí Thịnh tự xưng là đệ nhất điều tra, chưa bao giờ có người nào mà hắn không tìm được, ấy thế nhưng hai ngày nay hắn đã lật tung cả Khuất đô lên rồi mà vẫn chẳng thấy dấu vết của Kỷ Cương và Tề Huệ Liên.
Cát Thanh Thanh đi theo hắn suốt cả quá trình, thấy hắn lúc này không còn huênh hoang nữa mà nín thinh nãy giờ, bèn hỏi: “Có khi nào đưa ra ngoài rồi không?”
Lúc làm việc Phí Thịnh rất nghiêm túc, ai cũng không thèm nhìn, hắn ngồi xổm dưới hành lang bị thiêu rụi của Hề gia, nói: “Khó lắm, đã có một người thân thủ lợi hại thì phải bắt ngay tại chỗ mới đảm bảo không để lại dấu vết, mấy chuyện kiểu này càng đánh động càng dễ bại lộ.”
Cát Thanh Thanh lui ra sau mấy bước, quét mắt nhìn tòa đại viện bề thế một lượt, bảo: “Nhưng nếu hắn giấu người ở trong nhà thì sao có thể thoát trót lọt anh em chúng ta đi điều tra được? Cái nhà này đã bị lục soát ngay từ đầu rồi mà.”
“Tuy ta chưa qua lại với Hề Hồng Hiên bao giờ, nhưng cũng đã nghe qua về tính tình của hắn rồi.” Phí Thịnh đứng dậy, “Hắn đa nghi trời sinh, đối với hắn, cái gì càng quan trọng hắn càng giữ gần mình, bởi vì hắn không tin được người khác. Nếu hai người này quan trọng đến thế, hắn quả quyết sẽ không đặt ở chỗ nào xa mình…”
Phí Thịnh dần dần im lặng, hắn bám vào chỗ tường bị cháy đen trèo lên, gạt mấy tán cây chằng chéo ra, nhìn sang nhà bên cạnh.
“Đấy là phủ của Tần vương.” Cát Thanh Thanh cũng trèo lên theo, ngồi xổm ngó qua.
“Bỏ hoang nhiều năm…” Phí Thịnh nhảy xuống bước vào hành lang, hắn thấy lớp sơn đã bong tróc từng mảng, cả tòa viện âm u tăm tối, mạng nhện giăng chi chít. Hắn lấy đao Tú Xuân gạt mạng nhện ra, thử đẩy cánh cửa dán giấy niêm phong.
“Đúng thế, bỏ hoang nhiều năm thật.” Cát Thanh Thanh quan sát chung quanh, “Ngươi nghi hắn giấu người ở đây à?”
Phí Thịnh vừa chạm vào cửa đã thấy sai: “Viện cũ mấy chục năm mà giấy niêm phong lại dính tro, có điều bất thường!”
Hắn lui ra đằng sau nửa bước, rồi bất thình lình đá văng cửa.
===
• Tác giả có lời muốn nói:
Có một bạn hỏi mình tại sao cứ phải suy tính việc vận chuyển bạc mà không chuyển thẳng sang dùng ngân phiếu, để giải đáp cho những ai có cùng thắc mắc thì mình sẽ giải thích một chút ở đây cho mọi người.
Bởi vì mình không thiết lập cửa hàng ngân phiếu (theo Rose hiểu là một cơ quan tương tự ngân hàng, ở thời nhà Tống cơ quan này đã từng xuất hiện, tuy nhiên chỉ giới hạn ở phạm vi từng địa phương), nếu mà có cửa hàng ngân phiếu thì nó ít nhất cũng phải kham được lượng tiền khổng lồ của Hề gia, hơn nữa, nếu hoàn toàn tách khỏi sự kiểm soát của triều đình, do thương dân tự mở thì cửa hàng ngân phiếu bắt buộc phải có giá trị tín dụng cực kỳ cao, chỉ có ngân phiếu phát hành bởi chính cửa hàng mới chắc chắn là dùng được. Bốn trăm vạn lượng không phải con số nhỏ, dù có đổi thành ngân phiếu thì lúc vận chuyển cũng phải xem xét vấn đề bị kiểm tra dọc đường, lại còn phải ngừa ẩm, ngừa cháy, nhưng quan trọng nhất chính là, bởi vì nó không phải là quan phiếu của triều đình nên nó không thể được sử dụng ở tất cả mọi vùng của Đại Chu. Giả sử đưa chỗ bạc này ra khỏi Quyết Tây, đổi thành ngân phiếu ở cửa hàng Quyết Tây, nhưng đến lúc tới Trung Bác hoặc Ly Bắc thì chỗ ngân phiếu đó có đổi hết ra được không cũng lại là một vấn đề.
Nếu theo giả thiết quan phiếu, trong thời Hàm Đức, án Trung Bác binh bại, quan tham hoành hành, đảng phái phân tranh, quốc khố trống rỗng vân vân mây mây đủ các loại vấn đề đã dẫn đến việc bộ Hộ còn không tính rõ nổi sổ sách của chính mình, thế thì bọn họ lại càng chẳng hơi sức đâu mà đi phát hành quan phiếu tiền giấy, việc phát hành quan phiếu có yêu cầu rất khắt khe về chất liệu, đồng thời phải thống nhất tiêu chuẩn về hạn mức. Kể cả là ngân phiếu, do bị khống chế về hạn mức nên cũng không thể chỉ dùng vài tờ phiếu là giải quyết ngay được bốn trăm vạn, cứ căn theo một lượng, năm lượng, mười lượng mà tăng thì việc vận chuyển bốn trăm vạn ngân phiếu cũng chỉ bớt đi được vấn đề về cân nặng, trong tương lai nếu triều đình mà đổi chủ, hoặc là Hề gia sụp đổ, chỗ ngân phiếu đó có bị mất giá theo hay mất hiệu lực hoàn toàn không cũng lại là một cái đau đầu khác.
Thực ra thiết lập Hề thị có một dụng ý, không biết mọi người có để ý không, đó là Hề gia quản lý ruộng muối và mỏ đồng, có mỏ đồng tức là bọn họ có thể tự đúc tiền đồng, chỉ cần nắm trong tay tỉ lệ tiền đồng tiêu chuẩn của Đại Chu… Đây là căn nguyên vì sao bọn họ có thể đọ sức với tám đại gia tộc, hơn nữa bọn họ lại còn có kho bạc lớn như vậy, có phải còn có nghĩa bọn họ thực ra đã lén khai thác mỏ bạc, có khả năng thao túng bạc lưu thông trên thị trường hay chăng.
Đương nhiên đây hoàn toàn là vài lời lấy ra từ số tư liệu rất ít ỏi mà mình có. Bởi vì mình không chuyên về kiến thức ở mảng này, cho nên cũng không dám tùy tiện thiết lập cửa hàng ngân phiếu. Còn bạc trắng thì chỉ cần xem xét tỉ lệ tiêu chuẩn, có thể dễ hiểu hơn.
Có quá nhiều chỗ phải nghiên cứu quả thực là một vấn đề, cho nên cảm ơn mọi người đã châm chước!
• Rose: Túm cái quần lại, theo ý hiểu của mình thì không thay bạc thành ngân phiếu vì:
- Bảo quản tiền giấy/ngân phiếu rất khó (ẩm, cháy).
- Cửa hàng ngân phiếu không thuộc quản lý của triều đình, không chính quy, khó kiểm soát. Chỉ có ngân phiếu từ cửa hàng ngân phiếu mới lưu thông được nên rất hạn chế, không thể phổ cập ở khắp Đại Chu.
- Chuyển từ bạc trắng sang ngân phiếu cũng chỉ giảm trọng lượng phải vận chuyển chứ những 400 vạn lượng thì nó vẫn rắc rối y như thế thôi. Vì ngân phiếu bị hạn chế về hạn mức, không thể một phát đổi toàn bộ 400 vạn lượng ra ngân phiếu, sẽ mất thời gian và rối rắm.
- Ngân phiếu kỳ thực chỉ là một tờ giấy có giá trị đại diện chứ không phải giá trị thực tế, triều đình mà đổi chủ hoặc Hề gia teo thì nó sẽ dễ dàng mất giá/mất hiệu lực.
- Việc giữ nguyên là bạc cho Hề gia còn có dụng ý như 97 giải thích ở cuối.