Trước khi lên đường, ta lại đến nhà trúc thăm đại sư huynh.
Lúc mới đến phái Phù Lăng, ta giống như con nhím xù lông với mọi người. Sư phụ bận bịu, nhị sư huynh phiền phức, chỉ có đại sư huynh nắm tay dẫn ta đi thả diều ở Linh Hải cạnh núi Phù Lăng, cũng chỉ có huynh ấy thắt bím tóc xinh đẹp cho ta. Đại sư huynh còn nói với ta, cho dù ta là thiếu chủ thì vẫn có thể khóc nếu cảm thấy sợ hãi. Từ lúc đó ta bắt đầu nảy sinh nhiều cảm tình với núi Phù Lăng.
Ta từng gặp qua nhiều người ở Cửu Châu, dù trên đời này có người tài giỏi hơn đại sư huynh nhưng không ai tốt bằng huynh ấy.
Cho đến một ngày, người tốt như đại sư huynh lại tu luyện đến mức tẩu hỏa nhập ma, trở thành phế nhân, gần như điên loạn, sau đó tự giam mình trong phòng, không bao giờ bước chân ra ngoài nữa.
Ta ở ngoài nhà trúc, cúi đầu ngay ngắn, nhẹ giọng nói: “Đại sư huynh chờ thêm một thời gian nha, ta sẽ sớm quay lại. Đến lúc đó sẽ có tin vui dành cho huynh.”
Ta nắm chắc phân nửa có thể giúp đại sư huynh khôi phục, nhưng chưa dám nói ngay vì nó quá mạo hiểm. Không có gì tàn nhẫn hơn việc thắp lên tia sáng cho một người trong bóng tối vô tận rồi lại tự tay dập tắt nó. Vì vậy ta định nói với huynh ấy tin vui này sau khi quay về.
Nhà trúc vẫn chìm trong im lặng, chỉ có tiếng lá xào xạc theo làn gió mát.
Nhị sư huynh Tống Lai đang cắn đùi gà, ta gật đầu với huynh ấy, to giọng nhắc nhở: “Huynh nhớ trông chừng nhà trúc cẩn thận. Không được để người khác đi vào, đặc biệt là Vãn Nhĩ Nhĩ, không cho phép dù chỉ một bước.”
Nhị sư huynh cụp mắt, thiếu kiên nhẫn làu bàu: “Biết rồi.”
Ta còn chưa yên tâm nên thiết lập thiên nhãn ở đối diện nhà trúc, lúc muốn kiểm tra tình hình bên đây thì chỉ cần xem huyền kính tương ứng là được.
Làm xong mọi việc, ta mang theo kiếm Ngọc Long đi xuống núi.
Nhiệm vụ cấp trắng ở trấn Thiên Hiệp lần này rất đơn giản, đại khái là trà của vùng này rất ngon, đến mua vài lạng về cho chưởng môn sành ăn nếm thử. Vì đường đi rất xa mà hệ số độ khó lại thấp nên lâu rồi không có ai nhận nó.
Lần này ta đến trấn Thiên Hiệp vì muốn tìm hiểu lời đồn về một loài hoa kỳ lạ được giấu kín ở đây nhiều đời.
Núi Phù Lăng cách trấn Thiên Hiệp ngàn dặm đường, may là ta có trận dịch chuyển, nhưng điểm dịch chuyển đến lại nằm ngoài trấn này mười dặm, chỉ còn cách đi bộ đến đó.
Sau một hồi trời đất quay cuồng, ta bước khỏi trận dịch chuyển, một trận gió lốc thổi đến khiến ta ngã lăn xuống đất.
Ta mờ mịt mở mắt, nhổ cát vừa bị gió thổi vào miệng, sau đó ngơ ngác ngồi trên dải cát rộng mênh mông, trấn Thiên Hiệp nằm ở vùng sông nước Giang Nam đâu rồi? Tại sao mới thoáng một cái đã biến thành sa mạc đầy cát vàng?
Ta đi về phía trấn Thiên Hiệp, dọc đường không gặp được mấy người, chỉ biết cúi đầu ảo não đẩy nhanh bước chân.
“Đám điêu dân đó vậy mà không cho ta vào. Thật là nực cười.”
Ta ngẩng đầu, thấy người nói là một thiếu niên mặc đồ màu xanh lá đang đi ngược hướng với ta, tay đeo vòng ngọc, khuôn mặt trắng trẻo nhưng thần sắc khó coi, tức giận đá hòn đá chắn đường, sau đó ôm chân đau la oai oái.
“Thiếu gia đừng giận, thả lỏng, thả lỏng nào.” Tiểu đồng đi theo phẩy quạt cho hắn, vỗ lưng an ủi hắn như dỗ đứa nhỏ.
Ta cười khẽ, thiếu niên kia đột nhiên quay đầu, hung hăng trừng ta, còn không quên xét nét từ đầu đến chân ta: “Hửm? Là đệ tử của tiên môn à?”
Hắn tỏ vẻ hả hê, còn nói thêm: “Ngươi cũng đến trấn Thiên Hiệp? Đáng tiếc ngươi không vào được đâu.”
Ta nghi hoặc mở to mắt, tâm trạng của hắn đột nhiên tốt lên, chỉ nói lấp lửng như vậy rồi nghênh ngang đi tiếp.
Điệu bộ này khiến ta nhớ đến nhị sư huynh khó ưa của mình. Ngẫm lại thời gian đầu gặp gỡ, huynh ấy cũng gợi đòn như vậy.
Ta hất hòn đá ngáng chân hắn khiến hắn loạng choạng một cái.
Ta khoanh tay liếc nhìn hắn: “Trấn Thiên Hiệp xảy ra chuyện gì?”
Ta bắt chước tiểu đồng của hắn, chậm rãi gọi hai chữ: “Thiếu gia?”
Hắn tặc lưỡi một cái rồi nói: “Trấn Thiên Hiệp không tiếp người ngoài. Ngay cả ta cũng không thể vào chứ đừng nói đến người của giới Tu Chân như ngươi. Nói không chừng ngươi còn bị xua đuổi trước khi vào trấn nữa kìa.”
Hắn hậm hực vài tiếng rồi cùng tùy tùng của mình đi về phía trước, rõ ràng còn tức tối vì bị từ chối không tiếp.
Suy cho cùng, đa số người trong thiên hạ không có tư chất linh căn, người bình thường đều xem người tu chân là tiểu thần tiên.
Ta cúi đầu nhìn đồng phục đệ tử màu xanh da trời của phái Phù Lăng trên người, rồi lại nhìn sang thanh kiếm đeo trên thắt lưng. Ta cất kiếm Ngọc Long vào trong linh giới, lục lọi một lúc cũng tìm được chiếc váy màu xanh dương để thay vào, sau đó lại lấy gương soi búi tóc thành một cô gái bình thường. Nhìn tới nhìn lui vẫn thấy mình trông quá sắc sảo, thế là ta lấy bút đen vẽ cho chân mày thêm phần mềm mại.
Càng tiến gần về trấn Thiên Hiệp, cảnh sắc trong vòng năm dặm xung quanh thay đổi từng chút một giống như từ Tây Bắc xuống vùng Giang Nam.
Gió cát mịt mù dần bị bỏ lại phía sau, đất sa mạc dần dần kết dính lại, thảm thực vật xanh tươi bắt đầu xuất hiện trong tầm mắt, dòng suối chảy róc rách bên tai. Tất cả tựa như ảo ảnh giữa sa mạc khô cằn, nhưng mọi thứ lúc này đều là thật.
Ta đến được trấn Thiên Hiệp thì trời cũng đã xế chiều. Tấm bảng hiệu được đặt rất cao ở lối vào trấn, xe ngựa qua qua lại lại. Ta đang định bước vào thì bị thủ vệ ngăn chặn.
Thủ vệ đã hơn sáu mươi tuổi, da mặt khô nhăn như vỏ liễu, không buồn ngước mắt nhìn ta, chỉ mở miệng hỏi: “Người ngoài hả? Đến trấn Thiên Hiệp làm gì?”
Ta chớp mắt, bịa chuyện: “Nhà ta bị nước lũ nhấn chìm, ta đến đây để nương nhờ biểu ca.”
Ông ta quất nhánh cây lên tay ta làm lưu lại một vệt trắng dài trên da.
Ta rít lên, ôm lấy cánh tay rồi tức giận hỏi: “Ông làm gì vậy?”
Thủ vệ đảo đôi mắt già nua nhìn vệt trắng trên tay ta, hồi lâu không thấy gì thay đổi mới thở phào giải thích: “Không đổi màu. Nếu ngươi là người tu chân, vết tích sẽ có màu đen. Trấn Thiên Hiệp bọn ta có linh khí dồi dào, không thể để bọn người tu chân chuyên hấp thụ linh khí đến đây trộm bớt linh khí của bọn ta.”
Vừa khéo trong cơ thể ta không còn một chút linh khí nào cả. Ta giơ ống tay áo lau đi nước mắt giả đò trên mặt: “Vậy giờ ta vào trấn được chưa? Ta theo gia phả trong nhà, tìm tới tìm lui mới phát hiện chỉ còn biểu ca là người thân thích. Biểu ca ta sống ở…” Ta vắt óc suy nghĩ nơi biểu ca đang sống.
Ta cụp mắt nhìn xuống, thấy nhánh cây trên tay ông ta có mấy lá to, đó là lá tỳ bà. Thấy ta khựng lại, thủ vệ nghi ngờ nhìn ta.
“Ở cạnh Thanh Hồ.” Có người nói tiếp lời bỏ ngỏ của ta.
Ta kinh ngạc ngẩng đầu. Người đến không mặc đồ đen, tay áo rộng màu trắng rủ xuống, trên thắt lưng cũng không đeo kiếm Như Tịch, nhưng khuôn mặt rất đỗi quen thuộc.
Tạ Như Tịch, vị khách quý nhất của phái Phù Lăng, không biết tại sao lại xuất hiện ở đây ngay lúc này.
Người thủ vệ già vừa nãy còn phớt lờ ta đột nhiên đứng thẳng dậy, nói với vẻ tôn kính: “Tạ tiên sư.”
Chẳng phải ông ta vừa nói người tu chân không được đi vào, tại sao giờ lại đổi ý rồi?
Ta còn đang thắc mắc thì có người xách giúp túi hành lý thắt nút hình nơ màu hồng nhạt sau lưng ta. Tay của Tạ Như Tịch rất đẹp, giọng nói cũng thật dễ nghe: “Đây là biểu muội của ta. Nàng đến tìm ta nương nhờ một thời gian.”
Thủ vệ vừa gây khó dễ cho ta giờ lại nhanh chóng để ta đi qua, còn không quên tặng ta lá tỳ bà.
Ta theo chân Tạ Như Tịch đi vào trong trấn. Hắn mặc áo trắng tay rộng, mang theo chiếc túi hành lý màu hồng nhạt trông có chút buồn cười.
Sắc trời dần tối, trấn Thiên Hiệp rộng lớn không có một tiếng động nào, mấy ngôi nhà tường trắng ngói đen đã đóng cửa từ sớm. Phong tục nghỉ ngơi vào lúc hoàng hôn từ thời xa xưa đã được phát huy một cách triệt để.
Ta nghiêng đầu, thấy ai đó đang nhìn lén mình qua ô cửa sổ. Giọng nói êm ái của Tạ Như Tịch từ phía trước truyền đến: “Đừng nhìn lung tung, trấn Thiên Hiệp không thích người ngoài.”
Ta ồ lên một tiếng, không dám nhìn ngó thêm nữa, chỉ im lặng theo sau Tạ Như Tịch. Ta thở phào nhẹ nhõm nhìn xuống phần eo trống trơn của hắn, may là hắn không đeo kiếm. Giờ đây mỗi lần nhìn thấy thanh kiếm của hắn, trong tim ta sẽ dâng lên nỗi đau tột cùng, mặc kệ đó là oán hận hay là thứ gì khác, tất cả đều bị ta đè nén trong lòng.
Ta còn đang suy nghĩ lung tung thì người phía trước đột nhiên dừng bước hại ta suýt va phải hắn, may là ta dừng lại kịp lúc.
Tạ Như Tịch nhẹ giọng nói: “Đến rồi.”
Trước mặt bọn ta là một ngôi nhà có khoảng sân nhỏ. Ta nhìn quanh, phát hiện chỗ này khá xa khu nhà ở của người dân trong trấn.
Ngôi nhà nằm đối diện bờ hồ, xa xa có thể nhìn thấy đồi trà chìm trong mây khói, hoa lăng tiêu mọc um tùm trên vách tường chắc cũng được vài năm rồi.
Tạ Như Tịch đẩy cửa ra, bên trong quả thật rất tồi tàn, hẳn là gần đây mới được tu sửa nên trông khá gọn gàng, còn có ít củi chất đống ở góc phòng.
Hắn sắp xếp một gian phòng cho ta. Phòng không lớn lắm, chỉ có một cửa sổ nhìn ra hồ nước, vô số hoa sen nhỏ đang nở rộ trong hồ.
Thu xếp xong chỗ ở, ta đi tìm Tạ Như Tịch. Dưới ánh nến lập loè, ta nhìn thấy kiếm quân vang danh trong giới Tu Chân đang cúi đầu nhặt rau, còn thành thục nhóm lửa nấu mì nữa chứ.
Ta ngơ ngác nhìn, Tạ Như Tịch đã bưng hai tô mì đi tới chiếc bàn gỗ nhỏ, cất giọng đều đều: “Muội không đói hả?”
Ta lấy lại tinh thần, bước đến cầm đũa ăn một miếng, hương vị hết sức nhạt nhẽo khiến ta đột nhiên nhớ đến Hạ Từ Thanh.
Tạ Như Tịch hỏi tiếp: “Có ngon không?” Trong giọng nói không nghe ra cảm xúc gì nhưng tay cầm đũa của hắn siết chặt, chắc hẳn kiếm quân đang không nắm chắc về chuyện gì đó.
Ta nuốt mì rồi đáp: “Rất ngon nha.”
Hai người im lặng ăn xong tô mì. Một chiếc bàn cũng có thể sinh ra cảm giác xa cách trăm núi nghìn sông.
Ta thầm thở dài, tại sao kiếp trước lại không thấy rõ một điều, chỉ cần ta không nói chuyện thì giữa hai người bọn ta luôn là sự trầm mặc xa lạ như vậy. Nhiều năm qua là ta cố chấp đâm đầu vào một bức tường cứng.
Ta do dự một lúc, cuối cùng cũng hỏi ra nghi vấn trong lòng: “Tạ kiếm quân, sao huynh lại ở đây? Còn xuất hiện đúng lúc ta bị kẹt ở cổng trấn nữa chứ?”
Bên ngoài trời đang mưa, qua ô cửa sổ có thể nhìn thấy mưa rơi tí tách trên hồ sen. Tạ Như Tịch đặt ngọc bội hình con cá đeo bên hông lên bàn, sắc mặt hiện tại có chút ấm áp.
Mặt ta chợt ửng đỏ, có trời mới biết ta đã bỏ ra bao nhiêu để theo đuổi Tạ Như Tịch. Ngọc bội này không giống với cái ta tặng cho Hạ Từ Thanh, đây là ngọc bội Song Ngư dành cho người đàn ông mà ta muốn bái đường thành thân trong tương lai, một phong tục ở châu Lý Ngư. Chẳng trách, thông qua ngọc bội Song Ngư, chỉ cần ta ở gần hắn thì hắn sẽ biết được.
“Ta tự hỏi mình đã để nó ở đâu, hóa ra là ở chỗ của kiếm quân. Ta sẽ lấy lại nó ngay đây.” Ta mặt dày chạm lên ngọc bội Song Ngư, nhưng mới kéo một cái đã bị ngón tay của Tạ Như Tịch ấn lên giữ chặt, ánh mắt nóng rực giống như ngọn nến bập bùng bên cạnh khiến người khác cảm thấy nóng bức.
Ta khẽ lên tiếng: “Kiếm quân?”
Hắn buông tay.
Ta thở phào nhẹ nhõm, vội vàng cất nó vào trong túi.
Sự hứng thú của Tạ Như Tịch rõ ràng đã vơi đi rất nhiều, lẳng lặng quay đầu nhìn màn mưa ngoài cửa sổ, lời ít ý nhiều: “Ta đến trấn Thiên Hiệp để lấy vài thứ, xong việc sẽ đi.”
Ta dè dặt hỏi: “Không phải huynh cũng muốn lấy hoa thiên hiệp đó chứ?”
Sử ký Cửu Châu có ghi chép lại rằng hoa thiên hiệp ẩn mình ở trấn nhỏ này, trốn trong những giấc mộng hão huyền, người bình thường không biết cách tìm ra nó, nhiều người đến đây đều tay trắng trở về, không ai có thể tìm được loài hoa kỳ lạ này.
Nhưng chuyện này đối với ta lại rất đơn giản. Châu Lý Ngư huy hoàng nhất là nhờ vào khả năng “dệt mộng”. Đáng tiếc kiếp trước ta biết quá muộn, lúc ta đến lấy hoa cho sư huynh thì Cửu Châu đã rơi vào cảnh loạn lạc, trấn nhỏ này đã tan hoang thành cát bụi từ lâu.
Tạ Như Tịch lắc đầu khiến ta không khỏi cảm thấy nhẹ nhõm.
“Dân ở đây không thích người ngoài, đặc biệt là người tu chân. Ta có thể lưu lại đây cũng chỉ là trùng hợp, nghe lời ta, đừng cầm kiếm đi lung tung dù rằng hiện giờ muội không còn một chút linh lực nào cả. Trời tối rồi, về nghỉ ngơi đi.”
Giống như mọi khi, hắn không thích nói chuyện của mình với người khác. Ta đáp lại một tiếng rồi trở về phòng, trước khi đóng cửa không nhịn được khẽ liếc nhìn.
Tạ Như Tịch đứng dưới mái hiên, ngẩng đầu không biết đang nghĩ gì, mưa vấy lên áo trắng, nhìn vào hết sức yên tĩnh.
Ta đóng cửa lại, lòng thầm nghĩ không biết chủ nhân ban đầu của căn nhà này là ai. Ta trông thấy một cái chuông gió cũ kỹ nhưng rất tinh xảo treo trên khung cửa sổ, chắc hẳn năm tháng đã khiến nó tàn phai như vậy, lõi bên trong không còn, dù gió thổi qua cũng chẳng vang thành tiếng.
Ta suy nghĩ một lúc rồi lấy một chiếc chuông nhỏ trên vòng tay để gắn lên nó. Lúc mở chuông gió, chữ bên trên cũng đã phai mờ, phải mất một lúc lâu ta mới nhìn ra bốn chữ “A Tố bình an”.
Chữ khắc mềm mại uyển chuyển, mỗi tiếng chuông đều mang đến cảm giác bình an.
Không biết là ai, ta lại treo chuông gió lên, bên ngoài trời đang mưa, hiếm khi ta mới có được một giấc ngủ yên bình như vậy.
Còn tiếp…