Mê Thần Ký

Chương 6



Tháng Giêng, mặt trời ở Doanh Thất[1]. Gió đông tan giá, côn trùng rậm rịch thức giấc đông.

[1] Tức Thất tinh, một trong Nhị thập bát tú.

Tháng này, khí trời giáng xuống, khí đất thăng lên, trời đất hòa đồng, cây cỏ sinh sôi.



Nắng xuân bên ngoài không chiếu vào phòng.

Đây là một căn phòng, trong phòng là phòng, phòng lồng trong phòng.

Hắn quỳ xuống cạnh bộ xương trắng đó, đã quỳ trọn ba canh giờ.

Dầu đèn đã cháy hết, khói đen bốc lên nhuộm đen thanh xà trên đầu hắn.

Trong không khí có mùi khói khiến người nghẹt thở.

Nặng nề.

Mồ hôi từ trán hắn nhỏ xuống.

Lưng hắn bị thương nặng, đau tới mức gần như không vươn được cho thẳng.

Nhưng bộ xương trắng đó đứng im ắng, hốc mắt trống rỗng chằm chằm dán vào hắn, cho dù đã cúi đầu, hắn cũng vẫn có thể cảm nhận được loại áp lực đáng sợ đó.

Trong đầu hắn, bộ xương bóng loáng này đã khôi phục lại máu thịt, khôi phục lại dáng vẻ mũ giày chỉnh tề, y phục thung dung ngày trước.

Hắn thống khổ nhắm mắt lại.

So với lúc người còn sống, hắn muốn nhìn thấy không phải là bóng hình đó mà là bộ xương khô trước mặt không chút biểu cảm này.

… “Con phải biết ‘ngoại thị[2]’ không hề đáng sợ, đáng sợ chính là ‘nội thị [3]’.”

[2] Bên ngoài nhìn vào.

[3] Bên trong tự nhìn nhận.

Hắn còn nhớ lời của ông ta.

… “Một ngày con có được nội thị, bất kể ngoại thị có là thế nào đều không quan trọng.”

Bây giờ, nội thị ngày ngày giày vò hắn.

Hắn cắn răng, vươn thẳng lưng, đưa cánh tay run rẩy châm nén hương vòng trên lư hương.

Bên ngoài, nước suối bắt đầu chảy, thỏ chạy cáo lùa. Tre non mới nhú, khe nước đầy tràn.

Thân hình hắn cao lớn, hắc y bó sát thân, mặt và tay đều có vết sẹo đáng sợ nhưng những thứ ấy không hề ảnh hưởng tới nét anh tuấn của hắn.

Trầm mặc rất lâu, hắn đột nhiên nói với bộ xương trắng: “Phụ thân, con bị thương rồi”.

Không hề có tiếng hồi đáp.

Sau đó, hình như muốn tự thuyết phục bản thân, hắn lại bổ sung thêm một câu: “Nhưng xin người yên tâm, con vẫn đủ sức để có thể kết thúc tất cả, để người được yên nghỉ nơi cửu tuyền”.

Nói xong, hắn rút chủy thủ ra, vạch một đường nhỏ trong lòng bàn tay, dùng máu của mình tưới tắt ám hương.

Mùi máu tươi chảy, hắn đã quen từ lâu.

Hắn chống thiết kiếm xuống đất, miễn cưỡng đứng thẳng dậy, cảm thấy vết thương trên lưng lại bắt đầu vỡ ra, máu tươi thấm ướt lưng áo.

Nhưng hắn vẫn cố sức đẩy mở hai cánh cửa, sải bước đi ra ngoài.

Ánh mặt trời chói lọi khiến người ta lóa mắt.



Đông Đường trần.

Chàng đơn độc chen lách giữa một đám hàng rong.

Không khí khô ráo, bụi đất bốc mù, con đường dưới ánh nắng sáng rõ bắt mắt. Không xa có âm thanh “kẽo kẹt, kẽo kẹt” vọng tới, đó là tiếng cột cờ lắc lư của mấy lá cờ hiệu bạc màu nơi quán rượu đang phần phật bay trong gió. Bất kể là bảng hiệu hay là người đi đường rõ ràng đều có chút uể oải. Chàng mặc một bộ trường bào màu xám tối, sau lưng đã bị mồ hôi của con ngựa làm cho ướt đẫm, phát ra một mùi không dễ ngửi cho lắm. Sau khi đứng vững, kéo mũ ra, trên đỉnh đầu phảng phất như đột nhiên có một vòng xoáy, phấn hoa đầy trời và một cơn gió lùa ập thẳng tới trước mặt, còn chưa kịp rút khăn tay ra chàng đã hắt hơi liền ba cái, không sao nhịn được. Chàng vội vàng lấy một viên thuốc trong người ra, bỏ vào miệng ngậm.

Trên con phố lớn thế này, trừ phi anh sủi bọt mép ngất tại chỗ, nếu không, cho dù là ho khạc, nhổ đờm hay là hắt hơi thì đều bị coi là chuyện tầm thường. Chẳng ai quen biết anh, cho nên chẳng ai thèm để ý tới anh.

Mọi người xung quanh rõ ràng đang mải miết bàn tán đến chuyện khác.

“… Ngươi phải hiểu, hôm đó ta tới nhà họ Vương mướn một con ngựa tốt, giá hai lượng. Phải nuôi ăn hai mươi ngày cho tới lúc trả, riêng tiền cỏ đã mất thêm một lượng sáu tiền… Lại còn là hàng xóm nữa chứ, đúng là quá xấu tính!”

“Thế thì có sao? Ngươi chưa xem giá cả hôm nay à? Một cân thịt heo mà đòi một hào tám; một cân thịt trâu một hào ba; lần trước ta mời khách mua một con ngan sống, đã mất một tiền tám hào… Đắt như thế, đúng là không để người ta sống nữa rồi.”

“Ừ thì đã thế rồi, nhưng tại sao đến một thùng phân giá cũng phình ra? Hôm rồi định mua một thùng, tháng trước hỏi vẫn là năm hào, hôm qua hỏi, đã thành tám hào rồi, ta nghĩ mãi, không mua nữa. Dùng nốt thùng cũ hẵng hay.”

“Đấy chẳng phải vì người quá đông sao…”

Mạch suy nghĩ của chàng càng lúc càng xa vời.

Trước khi đi một ngày, phụ thân gọi chàng vào thư phòng của người, khuyên nhủ một lần nữa: “Ta biết, con luôn không thích nơi này, từng cãi vã với không ít lão tiên sinh”.

Chàng không nói gì, xem như thừa nhận.

“Có điều, bên ngoài rất loạn, thân thể con cũng không tốt. Ta và mẫu thân con đều rất lo lắng.”

Chàng tiếp tục im lặng.

“Thế này đi, chúng ta còn không ít y quán phân tán ở các nơi. Nếu con quả thật muốn ra ngoài, có thể tùy ý chọn một cái, tới đó ở vài tháng một năm rồi về.”

“Không”, chàng không chút động lòng.

Trong thoáng chốc, phụ thân có chút thất hồn lạc phách, giọng lại mềm đi: “Tử Hân, nghe lời đi”.

… Trong ký ức của chàng, phụ thân gần như chưa từng nói với chàng hai chữ “nghe lời”, bởi thế tạo thành một sự thật là chàng và Tử Duyệt tỷ tỷ của mình trước giờ chẳng nghe lời mấy.

“Cha, con sẽ thường xuyên viết thư về nhà”, sợ rằng phụ thân mà nói thêm vài câu thì mình sẽ mềm lòng, chàng vội vàng kết thúc cuộc nói chuyện, bước về phía cửa.

Lúc sắp ra tới cửa, phụ thân chợt hỏi: “Tử Hân, rốt cuộc con muốn cái gì?”.

Dừng bước, nghĩ một chút, chàng lắc đầu đáp: “Không muốn gì hết”.

… Bao nhiêu năm sau, mỗi khi nhớ tới lần nói chuyện đó, chàng đều tự hỏi bản thân, rốt cuộc mình muốn cái gì trên đời này?

Chàng phát hiện ra đây là một câu hỏi rất khó trả lời.

Có lẽ, chàng cần phải phủ định một cái gì đó thì mới có thể cảm thấy trưởng thành.

Bởi thế, chàng muốn một thế giới, một con đường, một cuộc sống khác.

Đám bé gái bảy, tám tuổi đang chơi bên đường. Bọn chúng ném qua ném lại cái túi thơm chứa tiền đồng, lần lượt tranh cướp, vui vẻ đuổi nhau dưới bóng liễu, hưng phấn náo nhiệt, mồ hôi đầy đầu. Lại có một đám con trai bắt dế mèn dưới đất. Có mấy đứa còn mặc quần thủng đít, mông vểnh rõ cao, trên mông rõ ràng còn thấy mấy cái bớt.

Lần đầu tiên chàng gặp Đường Hành, Đường Hành cũng đang mặc một cái quần thủng đít rộng thùng thình. Đường Hành còn nói đừng nghĩ nó còn nhỏ, thật ra nó cực kỳ ham học hỏi. Sau đó chỉ chỉ cái mông bóng loáng của mình, nói là ở đấy có hai vết bớt màu tím. Quả nhiên, mỗi khi đám trẻ con quần nhau thành một đống, chàng luôn nhanh chóng tìm ra Đường Hành giữa nhung nhúc những cái mông, lôi nó ra khỏi đám ấy.

Nhưng mà sở trường của Đường Hành không phải đánh nhau, mà là giả chết.

“Tử Hân ca ca, huynh chơi với đệ đi!”, vừa mới biết nhau chưa tới hai ngày, một sớm Đường Hành trèo lên đầu giường, đưa ngón tay vạch mí mắt chàng, năn nỉ nói.

“Đệ muốn chơi cái gì?”, chàng dụi đôi mắt còn ngái ngủ.

“Đệ biết giả chết, huynh có biết không?”

Sau đó, Đường Hành liền nằm trên giường biểu diễn các kiểu chết: Có trúng thương gục ngã, chết ngay tức thì; có toàn thân co giật, nôn máu ồng ộc; có trúng độc phát tác, mặt mũi nhăn nhó; có toàn thân trúng tên, ngửa mặt rống lớn; có tẩu hỏa nhập ma, lắc như rang đậu; có cưỡi ngựa trúng đao, ngã gục xuống đất; có giữa đường gặp phúc kích, không địch nổi mà bỏ mạng; có bị tra tấn mà mắng chửi, đại nghĩa lẫm liệt; có dũng cảm đoạt binh khí, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng… tóm lại là khiến Tử Hân há hốc mồm cứng đơ lưỡi, mắt hoa cả lên, không thể không thừa nhận kỹ thuật diễn xuất của thằng nhóc bốn tuổi này quả là hạng nhất trong thiên hạ.

Cuối cùng, Đường Hành mồ hôi nhễ nhại hỏi: “Có vui không?”.

“Vui lắm.”

“Đệ dạy huynh nhé. Xong rồi bọn mình cùng giả chết, cũng coi như có bạn.”

“Sao đệ cứ thích giả chết vậy?”

“Ca ca đệ thích đệ như thế, nếu không huynh ấy không chơi với đệ.”

Cũng là lần đầu tiên gặp mặt thì bị đối phương đánh một trận nên thân, ấn tượng của Tử Hân đối với Đường Phất còn xa mới bằng Lưu Tuấn.

Đường Phất cao lớn, lúc đi đứng ngực vươn rõ cao, không biết cưỡi ngựa nhưng lại thích xỏ một đôi giày đi ngựa vừa đen lại vừa sáng, khi bước trên sàn gỗ phát ra tiếng lộp cộp. Nghe bảo nó vốn là vua của lũ trẻ trên con phố ở nhà mình, thủ hạ có mười mấy đứa lâu la, hoàn toàn nghe theo sự chỉ huy của nó. Bởi thế Đường Phất không thèm chơi với tiểu đệ đệ Đường Hành nhỏ hơn mình bốn tuổi này. Mỗi lần ra ngoài, nó lại không thể không mang theo Đường Hành nhưng cảm thấy thằng nhóc này chẳng có tác dụng gì, cho nên mỗi lần chơi đánh nhau, nhiệm vụ của Đường Hành toàn là giả chết… Lúc bắt đầu nó chỉ giả vờ đại khái thôi, còn kiêm cả các vai bưng trà rót nước, chạy cờ, ai ngờ càng về sau kinh nghiệm càng nhiều, giả chết giống tới kinh người, bọn nhỏ xung quanh không sao làm được, từ đấy giả chết mới thành nhiệm vụ chuyên môn của nó.

Hôm Tử Hân gặp Đường Phất lần đầu ấy, chàng đã cùng giả chết với Đường Hành ba lần. Thật ra, Tử Hân vốn có thể diễn những vai hay ho hơn, ví dụ như sát thủ hắc đạo ngoan cố kháng cự. Không ngờ Đường Phất cho rằng Tử Hân vừa gầy vừa thọt, không xứng làm đối thủ của nó, mà kỹ thuật giả chết thì lại còn kém xa Đường Hành, thế là chỉ thị Tử Hân làm thủ hạ của Đường Hành, đầu tiên là làm cường đạo chặn đường cướp bóc, sau đó hai người sẽ quỳ dưới đại đao của nó cầu xin tha thứ rồi cùng bị chém chết. Kiểu trò chơi thế này cực kỳ đơn giản, nếu như người tham gia quá ít thì không có tình tiết gì đáng nói. Tử Hân “chết” ba lần đã thấy chán, nhưng Đường Phất thì lại đang hứng chí hừng hực, thích thú không biết mệt. Vai của nó không phải là “hoàng thượng” thì là “nguyên soái”, hoặc là “đại hiệp”. Trái ngược với nó, Đường Hành, Tử Hân ắt chỉ có thể chọn làm một trong các vai “phản thần”, “nghịch tặc” hay “ác đồ”. Chơi hết ba lượt, Tử Hân đột nhiên nói với Đường Phất: “Lần này đổi lại được không? Ta với Đường Hành là nguyên soái, ngươi làm ác tặc?”, khuôn mặt Đường Phất lập tức sầm xuống, nói rằng trước giờ nó không diễn kẻ xấu. Tử Hân cũng nổi giận: “Ta cũng không phải kẻ xấu, sao lần nào cũng phải diễn người xấu?”. Đường Phất khoanh tay trước ngực, ánh mắt cực kỳ khinh bỉ, nói: “Ngươi là thằng què, thằng què tức là kẻ xấu”.

Tử Hân một quyền vung tới, trúng ngay quai hàm Đường Phất. Đường Phất một cước đạp văng trượng của Tử Hân, đánh cho một trận tơi bời rồi nghênh ngang bỏ đi. Đường Hành chạy đi nhặt trượng rồi rút khăn tay lau máu mũi cho Tử Hân, nhỏ giọng nói: “Tử Hân ca ca, đừng giận ca ca đệ, được không? Đây là… đây là bao hạt dẻ đường. Đệ không ăn nữa, cho huynh hết đấy! Huynh nguôi giận, được không?”.

Tử Hân bưng mũi, tức anh ách ngồi dậy nói: “Tại sao ta không được giận hắn?”.

“Huynh mà không nghe lời ca ca đệ, huynh ấy sẽ lại đánh huynh đấy”, cứ như Đường Phất vẫn còn đứng sau lưng mình, Đường Hành thì thầm hỏi: “Huynh sẽ không đi mách cha đệ chứ?”.

“Không đâu.”

“Nếu như huynh mách cha mẹ huynh, bọn họ sẽ đi mách cha đệ đấy.”

Nhìn bộ dạng hết sức lo lắng của Đường Hành, Tử Hân thở dài một tiếng, nói: “Ta sẽ không nói đâu”.

Thật ra, đám trẻ con trong Vân Mộng cốc cũng có quy tắc giống như thế. Bị đứa khác đánh rồi lại ôm mặt về khóc lóc mách với cha mẹ sẽ bị coi là đứa nhát gan. Cho nên, đây sớm đã không còn là lần đầu tiên Tử Hân mũi sứt mặt sưng về nhà. Phụ thân thấy không hề trách cứ gì, cũng không hỏi là ai đánh, chỉ bôi chút thuốc giảm đau cho nó rồi nói: “Đi chơi đi”.

Sợ bị truy hỏi, Tử Hân quay đầu bước về phòng, giữa đường vừa hay gặp đúng Tử Duyệt.

Là vua của lũ trẻ con trong Vân Mộng cốc, Tử Duyệt biết rõ chuyện đánh nhau giữa bọn trẻ con. Bởi vì là đệ đệ của Tử Duyệt, chẳng có đứa nào trong đám trẻ con ở Vân Mộng cốc dám chủ động tìm Tử Hân gây sự đánh nhau. Đương nhiên, lúc bọn khác đánh nhau, nó mò tới tự mình nhảy vào tham gia náo nhiệt mà ăn đòn thì không tính. Tử Duyệt thấy mặt mũi đệ đệ mình sưng vù như đầu heo, liền bấm tay tính xem hôm nay Tử Hân có thể đã đi những chỗ nào rồi nhớ tất cả vào lòng. Kế đó, mặt không đổi sắc, chỉ nói chuyện với Tử Hân về cách vẽ bản đồ cho kế hoạch leo núi, tới hôm sau thì dẫn theo một đám trẻ con tìm Đường Phất tính sổ.

Vì vấn đề mặt mũi thể diện, lúc đầu Đường Phất còn không chịu động thủ với đám trẻ con vắt mũi chưa sạch mặc quần thủng đít này. Huống chi còn có mấy đứa dùng tiếng địa phương chửi bới, khiến nó không biết đường nào mà lần. Sau đó, Tử Duyệt hô lớn một tiếng: “Đánh nó!”. Đám trẻ kia ồ ạt kéo lên, trong đó có mấy đứa nhìn qua thì tưởng là khờ khạo, thật ra đều từng luyện qua mấy ngày quyền cước rồi. Đường Phất chẳng phí chút sức nào đã đánh đổ ba đứa đầu hung hăng lao tới, ai ngờ bọn phía sau lớp lớp nhào đến, cuối cùng đánh nó thâm tím mặt mày, mấy ngày hôm sau vẫn nửa người nửa ngợm chẳng nhận ra nổi. Đường Hành ở một bên lo tới mức khóc rống lên, định chạy về nhà gọi cha. Tử Duyệt bèn kéo nó lại, dịu dàng dụ khị: “Đường Hành ngoan đừng khóc, ngày mai tỷ tỷ đưa đệ đi leo núi, trên núi có rất nhiều thứ hay nhé. Trong phòng tỷ tỷ còn có mấy cái bánh hoa quế mới hấp, đệ có muốn ăn không? Tới đây, bọn mình đi lấy nhé!”, nói rồi dụ dỗ lừa gạt thằng bé, lôi nó tới phòng mình, cho nó mấy cái bánh ngọt, chẳng phí bao nhiêu thời gian đã dỗ được nó hồi tâm chuyển ý.

Cứ như thế, Tử Duyệt đã thành công trong việc chia rẽ huynh đệ Đường gia.

Lúc gặp Lưu Tuấn, Tử Duyệt cũng định dùng cách ấy thu phục nhưng rồi phát hiện Lưu Tuấn khó đối phó hơn nhiều so với Đường Phất. Cùng là một lũ trẻ con xông vào nó, Lưu Tuấn nhanh tay nhanh mắt, tránh khỏi một bước, túm lấy bím tóc của Tử Duyệt. Chỉ nhẹ nhàng kéo một cái, cô bé kêu ré lên, đám trẻ con lập tức sợ hãi lùi lại ba bước. Tử Duyệt liền tỏ ra muốn đình chiến, còn nói đội leo núi của mình vừa hay đang thiếu một người có kinh nghiệm đi núi phong phú như Lưu Tuấn, hỏi Lưu Tuấn có muốn tham gia không? Lưu Tuấn tỏ ra không thích thú lắm, cuối cùng dưới sự năn nỉ của đám trẻ mới miễn cưỡng đồng ý, nhưng lại không biết bản thân đã cứ thế rơi vào thòng lọng của Tử Duyệt, bất tri bất giác trở thành thủ hạ số một của Tử Duyệt.

Thân cận với bằng hữu của mình, nhưng lại càng thân cận hơn với địch nhân của mình.

Đấy trước giờ vẫn là chiến thuật của Tử Duyệt.



Thiếu niên đứng giữa đám đông đang mải nghĩ ngợi lan man về chuyện cũ của mình, chợt nghe ở xa có người mất kiên nhẫn thét bảo:

“Này! Tiểu tử nhà ngươi đứng đấy làm gì? Đây là chỗ người ta làm ăn, mỗi một vị trí đều phải trả tiền đấy. Này! Nói ngươi đấy! Thằng thọt!”

Chàng đưa mắt nhìn, thấy một người to béo cổ thô mặt đỏ, nồng nặc mùi rượu đang bước về phía mình, chàng bực tức nhìn chằm chằm vào hắn, nói: “Tên ta…”.

“Thèm vào biết tên ngươi là gì! Ngươi trả tiền chưa? Ta là A Tam thu tiền, là lang đầu ở đây. Nếu ngươi định bày sạp ở đây thì phải trả tiền, hiểu chưa?”

Thiếu niên dáng vẻ bỡ ngỡ không hiểu: “Lang đầu?”.

“Chính là người quản tô thuế của các cửa tiệm”, một người đang bán anh đào bên cạnh nhỏ giọng giải thích.

“Kỳ lạ, ngươi là người thôn nào? A Tam ta xuôi nam ngược bắc, khẩu âm này ta đúng thật là chưa từng nghe qua. Quá kỳ lạ!”

Cái khẩu âm quê mùa của chính tay A Tam này, thiếu niên cố lắm mới nghe được, không ngờ thì ra lời của mình, đối phương nghe cũng không hiểu lắm, không khỏi ngẩn ra tại chỗ, định nói tiếng Quan Thoại[4], lại cảm thấy quá nghiêm chỉnh. Nói không ổn mà không nói cũng không được.

[4] Tiếng Quan Thoại: Hay còn gọi là Bắc phương thoại, bao gồm nhiều phương ngữ tiếng Trung sử dụng tại phần lớn khu vực phía bắc và tây nam Trung Quốc.

“Tam ca còn bảo mình có kiến thức, đây rõ ràng là khẩu âm người Mông Cổ ở quan ngoại, lần trước có một vị tới mua thuốc chuột, khẩu âm giống y hệt với vị tiểu ca này, đây chính là người từ quan ngoại tới rồi.”

Cũng may, đã có người đáp hộ, thiếu niên dứt khoát ngậm miệng lại.

Ở trong chợ chính là có điểm tốt này, ta vĩnh viễn không cảm thấy cô độc. Người quan tâm tới ta rất nhiều. Có lúc sự nhiệt tình của người khác thậm chí còn khiến ta nghẹt thở.

A Tam cười ha ha, cảm thấy câu trả lời cực kỳ vừa ý, liền đảo mắt tới con ngựa, nói tiếp: “Con ngựa của lão đệ cũng thật là thần tuấn, nếu chịu bán giá hai chục lạng, chỗ sạp này là của ngươi. Tiền thuê tháng đầu tiên cũng không cần giao nữa”.

Thiếu niên đáp: “Ngựa này tôi không bán”.

“Đúng thế, đúng thế, Tam ca cũng chẳng phải không thấy chân người ta không được tốt, thế mà còn đòi ngựa của người ta…”, ngấm ngầm, có người xì xèo một câu.

A Tam hung dữ quét mắt qua, chỉ thấy bảy tám người co đầu rụt cổ quay người bỏ đi, tìm không ra mục tiêu.

Thiếu niên kéo mũ trên đầu xuống, cười nói: “Không biết quý tính Tam ca là gì? Tiền sạp tôi tạm thời chưa có. Ngựa cũng không định bán. Có điều, tôi thấy cái răng nanh này của Tam ca không tốt lắm, chắc nó đã hành Tam ca lâu ngày rồi. Hay là tôi giúp Tam ca nhổ nó đi, rồi bôi thuốc, giảm sưng. Phí khám này tôi không thu nữa, Tam ca để tôi dựng sạp ở đây ba ngày, thế nào?”.

Tuy đã là hoàng hôn, nhưng sắc trời vẫn chưa tối lắm. Thiếu niên người cao, tóc dài hơi xoăn, dưới vầng trán cao ngạo là đôi mắt lấp lánh như sao. Hắn vốn ngậm miệng không nói, bộ dạng như đang khốn khổ suy tư, không khỏi khiến người ta có cảm giác hắn đang buồn bực. Ai ngờ lúc hắn mở miệng cười một cái, thái độ mềm mỏng, lại gọi thêm một tiếng “Tam ca” nhịp nhàng, khiến A Tam ngớ ra nhìn hắn, không làm sao cứng rắn được nữa.

Câu này hỏi đúng chỗ hiểm, A Tam không nén được hừm một tiếng, khẩu khí cuối cùng cũng mềm lại: “Xin hỏi vị tiểu ca này kiếm ăn bằng nghề gì?”.

“Chút chút nghề vặt, lang trung giang hồ.”

“Nhìn một cái là thấy ngươi giống.”

Kể cả tối ngày mong mỏi được lăn lộn giang hồ nhưng nghe thấy người khác nói thế, trong lòng chàng vẫn cảm thấy có chút khó chịu.

“Ngươi không muốn thuê một gian à? Tiền thuê một quý chỉ có sáu mươi lượng. Cửa tiệm cũng có không ít: Tiệm lớn mỗi quý bốn mươi lăm lượng, tiệm vừa ba mươi sáu lượng, tiệm nhỏ ba mươi lượng…”

“Tôi tạm thời chưa có tiền”, thiếu niên rất thẳng thắn.

“Được rồi, trông ngươi như thế cũng không giống là đi lừa gạt người khác. Ngươi thật sự biết nhổ răng?... Ta muốn nói, ngươi thật sự nhổ nổi răng ta à?”, A Tam chăm chú nhìn ngón tay dài thon nhợt nhạt của thiếu niên.

“Nhổ được”, thiếu niên nhạt giọng nói, rồi từ trên lưng ngựa lấy xuống một bọc đồ bằng vải lụa Hàng Châu tinh tế, rút ra một cái tráp dụng cụ mạ vàng, lấy ra một chiếc kìm chế tạo cực kỳ tinh xảo.

Người xung quanh nghển cổ nhìn vào, đánh giá kỹ càng túi đồ của thiếu niên, biết ngay đây là dụng cụ giá thượng hạng, đều thốt lên: “Ái dà, món này là hàng quý giá, tôi nghĩ không biết ngoài nhổ răng ra, nó còn có thể nhổ cái gì nữa?”.

Chàng mượn người bên cạnh một cốc nước, rửa tay thật kỹ, nhét một ít bông vào miệng A Tam, nhẹ giọng nói: “Huynh chớ có nhìn, được chưa?”.

A Tam gật đầu, lo lắng tới mức mồ hôi túa ra đầy đầu.

Thiếu niên kẹp chiếc răng nanh, cười nói: “Tôi còn phải đợi một chút nữa, đợi dược tính phát huy công hiệu rồi mới nhổ được, nếu không huynh sẽ đau đấy”.

Nghe câu này, A Tam thở phào một cái, chẳng ngờ cổ tay thiếu niên đột nhiên khẽ vặn, đã nhẹ nhàng vô thanh vô tức nhổ tận gốc cái răng nanh.

Người xung quanh đều nhìn tới trợn mắt.

A Tam “úi” một tiếng, ôm lấy quai hàm một lúc rồi vỗ vỗ vai thiếu niên, nói: “Tay nghề khá lắm! Ngươi cứ ở đây mở sạp đi, tiền thuê tháng này ta trả thay ngươi”.

“Vậy phải đa tạ rồi. Tam ca quý tính là gì?”

“Ta tên Diêu Nhân. Ngươi thì sao?”

“Thật là khéo”, thiếu niên vuốt mái tóc dài bị gió thổi lệch sang một bên, trên khuôn mặt trắng trẻo thanh tú thoáng hiện nét cười thần bí, nói: “Tôi cũng tên Diêu Nhân”.

“Tốt! Có duyên! Mấy ngày nữa ta mời ngươi đi uống rượu”, Diêu Nhân hưng phấn cao giọng nói, chẳng mảy may ý thức được đại danh của mình đã bị thiếu niên này bất động thanh sắc dùng trộm mất rồi… Thật ra cũng không nói là dùng trộm, trấn này vốn họ Diêu là chủ yếu, tên gọi là “Diêu Nhân” cũng có bảy, tám vị, thêm một kẻ này cũng chẳng phải là lạ.

“Đa tạ, tôi không uống rượu”, thiếu niên lựa lời cảm tạ, hiểu rõ những kiêng kỵ đường ăn uống của mình sớm muộn gì cũng gây ra phiền phức, không khỏi cảm thấy xấu hổ một trận. Đáng tiếc câu này còn chưa kịp lọt vào tai Diêu Nhân, hắn đã sải bước đi mất rồi.

Trông bóng lưng Diêu Nhân, thiếu niên quay đầu lại, trên người chẳng có đồng nào, đói khát không chịu nổi, nhưng vẫn đứng ngớ ra như một con ngan ngốc nghếch giữa các sạp hàng. Hồi lâu, lão hán bán anh đào bên cạnh cuối cùng lên tiếng hỏi: “Diêu Nhân, ngươi thật sự định tới đây mở sạp hả?”.

Thiếu niên hơi sững ra, nhất thời chưa nhớ được đấy là tên của mình, gật đầu mạnh một cái, đáp: “Đúng thế, lão bá”.

“Thế thì sao ngươi không rao to lên? Cho dù ngươi biết nhổ răng nhưng cũng phải cố sức rao lên thì mới có người để ý tới ngươi. Huống chi đây là ngày đầu tiên ngươi tới đây, chẳng quen biết ai, cũng chẳng ai biết ngươi tới làm gì. Không rao lên sao được?”

“Cháu đói quá, không có sức rao”, chàng thật thà đáp.

“Đây là nửa bát anh đào, là ta bán thừa lại, ngươi ăn trước đi.”

“Thật xin lỗi, cháu… không ăn được anh đào.”

“Cho dù có đói chết, ngươi cũng không ăn à?”, cảm thấy thiếu niên thật không biết cân nhắc, lão hán lập tức thấy không vui.

Thiếu niên ngượng ngùng cười, không đáp.

“Tùy ngươi thôi, xem hôm nay ngươi có kiếm được đồng nào không. Giờ là cuối ngày rồi, chợ phiên này đã bắt đầu giải tán”, lão hán đứng dậy, thu dọn thùng gánh.

Thiếu niên nhướng mày, còn đang nghĩ xem mình nên dừng chân ở chỗ nào thì nghe thấy người trung niên bán hạt dẻ đường mặt vuông mũi dài vỗ vào tay mình, thô giọng hỏi:

“Ngươi muốn ăn lạc không? Chỗ ta còn nửa túi, là do vợ ta muối… Trông ngươi mặt mũi trắng trẻo, cũng không giống người từng nếm khổ, sao tự nhiên lại rơi vào nơi này? Cha mẹ ngươi chết hết rồi ah?”, mặc kệ chàng có muốn hay không, người kia cứ dúi bọc giấy tới.

“Oa! Lạc muối? Đây là món tỷ tỷ cháu thích ăn nhất, lúc tỷ ấy buồn bực giận dỗi, lần nào cũng ăn đầy một bát. Ngửi mùi thật thơm! Ướp với hồi và thảo quả đúng không? Mẫu thân cháu đặc biệt thích hồi. Đa tạ đại thúc!”, thiếu niên tràn đầy cảm kích nói một thôi một hồi, ngừng một lát, lại bẽn lẽn lắc đầu: “Không được, cháu không ăn được lạc. Rất xin lỗi, đa tạ đại thúc”.

“Đến lạc cũng không ăn, ngươi có bệnh à?”

“Việc này… khụ khụ… cháu… tóm lại…”

“Chỗ ta còn một cái bánh nướng, bánh nướng thì ngươi ăn được chứ?”

“Xin hỏi bên trên có cho hành với vừng không?”

“Nói thừa, không có hai thứ ấy thì còn nướng bánh thế nào nữa?”

“Thật xin lỗi…”

“Lão đệ, cái bệnh phiền phức này của ngươi từ đâu ra vậy? Có từ trong bụng mẹ à?”

“Hẳn là các vị đại thúc cũng nhìn ra, trời sinh tôi nhiều khiếm khuyết.”

“À!”, đám tiểu thương bu đầu vào bàn bạc một trận, họ đều dùng ánh mắt ngạc nhiên nhìn chàng, thảo luận một hồi, cuối cùng nói: “Tiểu tử, ngươi hẳn phải ăn được màn thầu chứ?”.

“… Tôi không có tiền.”

Ba người móc trong người ra một đồng tiền, đưa vào tay kẻ khác, tới sạp bên cạnh mua chiếc màn thầu rồi đưa cho Tử Hân:

“Cầm lấy đi, một cái màn thầu này ba văn tiền, xem như các đại thúc mời ngươi. Tuổi còn nhỏ thế, cái này không ăn, cái kia cũng không ăn, làm sao mà lớn được?”

Cái màn thầu trắng phau phau, nóng hôi hổi, cầm vào còn hơi bỏng tay, vỏ bánh mỏng căng phồng như muốn nứt, không nhăn nheo chút nào. Thiếu niên trong lòng nóng lên, run giọng nói: “Đa tạ các vị đại thúc!”, nói xong cúi gằm đầu xuống, bửa từng miếng từng miếng nhỏ đưa vào miệng nhai nuốt từ tốn nhỏ nhẹ.

“Chậc chậc, ngươi ăn màn thầu như thế à?... Thật là quá tao nhã rồi! Đây là lần đầu tiên ta thấy có người ăn màn thầu như thế, về nhà ta cũng phải dạy con gái nhà ta mới được. Xin hỏi bánh nướng cuốn hành tây phải ăn thế nào?”

“Cháu chưa từng ăn”, thiếu niên khách khí đáp.

“Nếu ngươi ăn món ấy, chắc sẽ không giống như thổi loa chứ, đúng không?”

“Cháu nghĩ chắc không.”

Đám tiểu thương cười phá lên.

Chiếu màn thầu kia to gần bằng cái gối, mọi người tan hết rồi, chàng vẫn chưa ăn xong. Dần dần, ánh đèn trên con phố dài le lói, người qua lại thưa thớt hơn. Chàng đơn độc đứng đo một lúc, trời bỗng đổ mưa to.

Giờ chàng mới nghĩ tới, bản thân không có một xu dính túi, tất nhiên đến một chỗ dừng chân cũng không. Hốt hoảng kéo một người qua đường lại hỏi thăm mới biết trên sườn núi đông trấn có một ngôi miếu hoang, trước là nơi đám ăn mày thường ngủ.

“Chỗ đó có thể tạm tránh gió tránh mưa, chỉ là không được sạch sẽ cho lắm. Tiểu ca, nếu có chỗ nào khác thì chớ nên tới đó. Nghe nói… có quỷ.”



Ngôi miếu đó quả nhiên rất tàn tạ.

Trên cửa sổ giấy ngang ngang dọc dọc đều là nhớt của ốc sên. Cửa lớn khép hờ, vẹo sang một bên. Trước cửa cỏ rậm lấp lối, mấy tảng đá vỡ lác đác khắp nơi, một cây cổ thụ bị cây leo bám chặt tới mức cành cây vặn vẹo uốn khúc, chìa nanh giơ vuốt. Sau lưng sơn miếu là một khoảng chân núi càng hoang vu hơn, nhấp nhô liên miên, xa không thấy tận cùng. Sương mù trắng xóa lại như sóng biển trào dâng mãnh liệt từ trên đỉnh tràn xuống, từ nóc sơn miếu tán ra tứ phương, ở giữa hình thành một vòng xoáy rất lớn. Phía xa sấm giật ầm ầm, chớp rạch ngang trời, vòng xoáy kia từ từ cuộn tròn, dưới ánh điện chớp, bốc lên một luồng ánh đỏ đáng ngờ.

Tiếng mưa, tiếng sấm chớp vang vọng lại tăng thêm sự yên tĩnh kỳ dị của tòa sơn miếu. Chàng đi tới cửa, thấy nước mưa men theo hiên trước nhỏ xuống, rơi trên lớp ngói lưu li vỡ nát. Bên trái cửa có một vại nước sứt miệng, tiếng nước nhỏ vào đó vọng ra thứ âm thanh lạ lùng, lúc thưa lúc mau, tựa như ẩn hàm một dạng tiết tấu dụ lòng người. Chàng lắng nghe hồi lâu, tâm tư bay bổng tận nơi nào.

Cho đến khi hoàn hồn lại, chàng mới phát hiện bên trong cửa sổ có ánh lửa le lói.

Trong miếu có người.

Chàng dắt ngựa, đẩy cửa tiến vào.

Lần đầu tiên Tử Hân gặp Trúc Ân chính tại nơi này.