Ngụy Đế Truy Thê: Vợ À, Đừng Chạy!

Chương 9: Ngoại truyện về Nguyên Triệt



Trải qua một ngày sau khi ta “sống lại”, cảm giác đúng là không thể diễn tả thành lời.

Nàng khi xuyên vào thế giới của ta, có lẽ cũng là cùng một cảm xúc như vậy chăng?

Ta nằm ở trên giường phủ khăn trắng toát, lòng bồn chồn lo lắng không yên, không biết nên xử sự thế nào ở cái thế giới lạ lẫm này. Bên tai ta không ngừng nghe được âm thanh bíp bíp phiền chán phát ra từ một dụng cụ kì lạ ở bên cạnh, trên mu bàn tay nho nhỏ cũng bị ghim một cây kim rất lớn còn dẫn ra một cái ống nhỏ gắn liền với đường ống truyền một loại nước gì đó từ cái túi đang treo trên giá đỡ kim loại kế bên giường.

Lúc tỉnh lại, ta đã một lần cố gỡ nó ra, chỉ là có rất nhiều người nhào đến ngăn cản. Ta tức giận muốn ra tay đánh trả, lại thấy một người phụ nữ trung niên khóc lóc ở bên một bên. Nàng còn muốn đến gần ôm ta, không hiểu sao nghe tiếng nàng ấy khóc, ta lại nhớ đến mẫu hậu khi rơi lệ thì không muốn phản kháng nữa.

Trên miệng mấp máy, cuối cùng cũng nuốt vào lời nói: To gan, các người dám khi quân phạm thượng, muốn hành thích trẫm.

Sau khi ta bình tĩnh lại không bao lâu thì lại kinh hãi phát hiện, mỗi người ở đây giống như đều có màu tóc khác nhau, mặt mũi họ giống như người Hung Nô mọi rợ, chỉ là trên mặt họ không mang theo ác ý.

Ta nghe một cô gái trẻ người ngoại quốc nói, mỗi một giờ phải kiểm tra nhiệt độ và các số liệu gì đó của ta. Còn bảo người phụ nữ trung niên bên cạnh nên nghỉ ngơi một chút, ta đã tỉnh lại sẽ không có nguy hiểm gì nữa. Ta nhìn thấy gương mặt nàng hốc hác, dưới mắt còn có quầng thâm thật lớn, nhưng vẫn dịu dàng nhìn ta nhỏ nhẹ an ủi. Ta như thấy được bóng dáng của mẫu hậu trùng lập với hình ảnh của người phụ nữ dịu dàng trước mắt.

Ta giống như tỉnh như mê nhìn nàng ấy một lúc, mới mở miệng thử gọi một tiếng mẹ.

Nàng ấy thật sự rất vui mừng, sau đó kềm chế không được mà ôm ta vào lòng gào khóc.

Ta rốt cuộc bình tĩnh mà chấp nhận sự thật, ta hiện giờ ở trong thân thể khác, là một cậu bé mười tuổi, con của người phụ nữ này. Thời đại đang ở cũng khác, có lẽ là thế giới hiện đại mà tiểu nương tử đã nói qua.

Ta nam chinh bắc chiến hơn hai mươi lăm năm có chuyện kì lạ nào mà chưa từng trải qua, nên ta chỉ âm thầm kế thừa một chút kĩ năng nghe nói còn sót lại trong thân thể này, cố gắng hòa nhập với thời không mới. Cũng may ta vẫn có thể nói và hiểu được ngôn ngữ của người ở nơi này.

Gia đình mới của ta bao gồm ba là ông Christopher Whaley, mẹ là bà Tú Quyên. Còn có một đứa em trai bảy tuổi gọi là Thomas Whaley. Ban đầu nhìn thấy ba và em trai đến bệnh viện thăm, ta còn nghĩ ta là con riêng của mẹ. Bởi vì khi ta giả bộ muốn đi nhà vệ sinh để nhìn gương mặt mới trong gương, thì ta cũng hơi ngạc nhiên vì gương mặt này không quá khác so với lúc ta còn nhỏ.

Còn có, gương ở nơi đây không biết làm bằng chất liệu gì, tuyệt đối sáng rõ không biết bao nhiêu lần so với gương đồng lúc trước.

Khi gặp ông Whaley và Thomas, thấy hai người họ là người ngoại lai, ta cũng không mở miệng nói gì tránh sai sót. Mẹ ở bên cạnh liền vui mừng nói với người đàn ông kia là sức khỏe của ta đã tốt rất nhiều, không còn nguy hiểm. Ông ấy mừng rỡ đến nỗi ôm ta mà chảy nước mắt. Cậu em nhỏ cũng nắm tay nắm chân ta không buông, còn nói muốn ở trong bệnh viện với ta. Trải qua sự việc này thì ta biết, bốn người chúng ta là một gia đình, mà ta và hai người kia là cùng chung huyết thống.

***************

Nhớ lại ngày ta xuất viện, khi bước chân ra bãi đậu xe thì ta hoàn toàn bàng hoàng sửng sốt. Ở nơi này, bọn họ sử dụng phương tiện di chuyển giống như một cỗ máy bằng sắt, có bốn cửa ra vào, cũng không cần ngựa để kéo phía trước. Bánh xe cũng rất kì lạ không phải bằng gỗ, mà ta cũng không biết chúng được tao nên bằng cái gì. Khi sờ thử rất cứng, cố ấn vào thì nó có thể đàn hồi một chút. Cỗ xe này nhìn qua phải hơn mấy trăm cân nhưng bốn cái bánh xe nhỏ như vậy vẫn có thể chống đỡ dễ dàng.

Mẹ mở cửa ra bảo ta ngồi vào trong, sau đó còn cẩn thận giúp ta gài dây gì đó cố định ta ở trên ghế ngồi, gọi lại dây an toàn seatbelt. Ta nhìn một lượt bên trong xe thấy trang trí kì lạ, ghế êm ái mềm mại nhưng không thấy lót đệm gì cả. Sau đó ba của ta ngồi vào phía trước, vặn mở cái gì, lập tức xe ồn ào khởi động rồi ông điều khiển nó đi ra đường lớn.

Ta nhìn phong cảnh hai bên đường vun vút lao qua cửa xe, vui mừng cảm thấy thì ra nơi nay cũng còn có nhiều cây cối đồi núi như vậy. Không giống như lời tiểu nương tử đã nói, không khí ô nhiễm, cây xanh không nhiều, lại có tòa nhà cao tầng đèn điện sáng choang làm che lấp cả ánh sao. Mà ta cũng không nhớ rõ, có lẽ nàng nói là nơi khác chăng?

Khi ta về đến “nhà”, việc đầu tiên mà ta làm là xem lịch ở niên đại này. Ta không đọc được chữ số ngoằn ngoèo trên đó nên phải nhờ sự trợ giúp của mẹ. Nàng ấy trả lời năm nay là năm 1997. Ta nhẩm tính, tiểu nương tử nói nàng hai mươi tuổi ở năm 2017 thì xuyên đến Đại Ngụy, như vậy năm nay là năm nàng mới chào đời rồi.

Ta thật sự nôn nóng muốn gặp lại nàng, nhưng mà ta biết dục tốc bất đạt. Dù sao ta đã chờ nàng mười sáu năm, lại chờ thêm một chút thì có tính là gì.

Vả lại, hiện nay ta cũng không có can đảm gặp lại nàng. Ta từ một người đứng trên thiên hạ, đến nay thành một cậu bé mười tuổi với hai bàn tay trắng. Tuy chuyện này là do ta lựa chọn, nhưng trong nhất thời cũng không thoát khỏi cảm giác thua sút đến không thể chấp nhận được.

Hiện tại, cái ta cần làm là tiếp thu thật tốt kiến thức và kỹ năng sống ở nơi này. Sau đó từ từ gầy dựng sự nghiệp cho bản thân. Có như vậy mới có thể vun đắp cho tương lai sau này của ta và nàng.

Thời gian đầu mọi việc đều do ba và mẹ chỉ dẫn, ta mới có thể làm quen với vật dụng trong nhà. Ta tuy có ngạc nhiên nhưng không đến nổi làm ra chuyện mất mặt, bởi vì những thứ này ta đều nghe qua từ miệng của tiểu nương tử.

*******************

Gia đình Whaley đưa ta đến rất nhiều bệnh viện, gặp các bác sĩ chuyên khoa não khác nhau, có lắm lúc cũng đi gặp bác sĩ tâm lý gì đó. Nhưng mà dù có đi đế đâu, cũng chỉ nhận một câu trả lời chung. Ta là té từ trên cây xuống chấn thương ở đầu nên bị chứng mất trí nhớ. Sau này có nhớ lại hay không cũng không biết trước được.

Mẹ ôm ta vào lòng mà khóc, ta lại không quen người khác ôm ấp như vậy nên lạnh nhạt nói: không nhớ thì học lại là được.

Ta thật sự học tập. Ban đầu là học cách viết chữ và đọc chữ. Ở đây họ không sử dụng bút lông và nghiên mực như ở Đại Ngụy mà họ viết bằng bút nguyên tử, bút chì. Ta lại cảm thấy như vậy rất sáng tạo, chỉ là cách cầm viết có hơi khó khăn một chút. Ta tốn mất một tuần mới có thể thành thạo cầm bút viết, sau đó lại choáng với cách viết chữ nơi này. Họ không viết chữ tượng hình mà viết theo kiểu chữ a b c, tròn tròn cong cong hoàn toàn tương phản với chữ Hán do nét gạch tạo thành. Ta lại mất một khoảng thời gian mới có thể nhớ và viết hết bảng chữ cái, rồi học từng từ vựng. Sau đó còn đau khổ nhận ra, ta đang học chữ tiếng anh. Còn ngôn ngữ ta nói với mẹ, là tiếng việt, cũng là tiếng mẹ đẻ của tiểu nương tử. Hai ngôn ngữ này hoàn toàn khác nhau về cấu trúc ngữ pháp lẫn cách uốn lưỡi khi phát âm. Vậy nên ta đành phải cố gắng hơn nữa, cùng lúc học song ngữ anh việt.

Cũng may, ba Whaley của thân thể này có cuộc sống không tệ, có thể mời gia sư về dạy tại nhà cho ta một năm, trước khi ta trở về trường học để hòa nhập trở lại với xã hội sau một thời gian “mất trí nhớ”.

Kiến thức mà ta học ở thế giới này rất nhiều. Nhiều đến nỗi làm cho ta cảm thấy hoảng sợ và choáng ngộp. Một cái thế giới tiên tiến như thế nào, mới có thể thu thập và dạy bảo những kiến thức cao siêu như vậy. Phản biện lại biết bao nhiêu điều mà ta đã học qua từ trước, nhưng là mỗi một điều họ nói đều có dẫn chứng chứng minh cụ thể. Đúng là thành tựu to lớn của một xã hội đã trải qua quá trình phát triển hơn cả ngàn năm.

Từ lúc có thể đọc chữ, ta lao vào đọc sách như điên, bắt đầu từ sách về đời sống hằng ngày cho đến sách về thiên văn vũ trụ đều muốn tham khảo. Một ngày hai mươi bốn tiếng theo cách tính ở nơi này, đối với ta mà nói là không đủ. Ta mỗi ngày chỉ ngủ có bốn tiếng thì lại muốn dậy tiếp tục đọc sách. Qua một khoảng thời gian, mẹ ta lại khóc lóc can ngăn, ta không thể làm gì hơn bèn đi ngủ sớm. Sáng lại dậy sớm đem sách ra bờ hồ ngồi đọc. Ở nơi này, chỉ có ngồi bên cạnh bờ hồ mới làm cho ta cảm thấy yên tâm, một phần vì nó giống như là hồ nước ở Suối Tiên năm đó. Chỉ là nơi này không có thác nước hùng vĩ luôn tung bọt trắng xóa mà thôi.

Thân thể này cũng khá khỏe mạnh, ta có thể dùng nó luyện tập quyền cước và đao pháp kiếp trước, như một phương pháp cường thân kiện thể. Nhưng người này lại không phải nhân tài luyện võ, cho nên dù cho có cố gắng tập luyện không ngừng, trải qua một thời gian vẫn không có cách luyện khinh công. Ngược lại ta nghĩ, như vậy cũng không tồi. Nếu không, trong một cái thế giới đầy rẫy các nhà khoa học tò mò hay nghiên cứu như thế này, nếu thấy ta bay ở trên trời, không chừng sẽ đem ta vào phòng nghiên cứu mà mổ xẻ.

Ta mất năm năm thời gian để thích nghi và học tập, cuối cùng làm nên quyết định độc lập đầu tiên trong cuộc sống mới: đi làm thêm.

Ta dựa theo bạn bè trong trường học, xin việc rất nhiều nơi. Sau đó được một chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh Red Rooster nhận vào làm. Ta vừa làm vừa quan sát đánh giá người chung quanh, cố gắng ép buộc mình hòa nhập vào xã hội hiện tại. Sau vài tháng, ta còn làm thêm một chuyện làm ăn khác.

Gia đình Whaley vốn có trang trại trồng nho làm rượu vang. Kinh doanh không tệ, nhưng chỉ làm ở trong nước cũng chưa thấy xuất khẩu rượu ra nước ngoài. Ta tìm tòi trên máy vi tính, sử dụng ngôn ngữ tiếng hoa tự học, cuối cùng ra quyết định mạo hiểm. Ta yêu cầu ba giúp đỡ kinh doanh loạt rượu đầu tiên xuất khẩu sang Trung Quốc. Năm 2002, Trung Quốc phát triển không tồi, thị trường bia rượu chỉ có trong nước, mà người Châu Á nào lại không yêu thích bia rượu mang nhãn mác nước ngoài đâu. Ta kết nối với một doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhỏ trên mạng, giới thiệu sản phẩm và gởi lời mời hợp tác. Lô hàng đầu tiên không lời nhiều. Người bên đó bán đắt như tôm tươi liền yêu cầu tăng hàng nhập khẩu đến mức làm ba ta líu lưỡi. Trung Quốc đông người, hiện tại số người đang cố gắng vươn lên làm giàu rất nhiều. ‘Phú quý học làm sang’ câu nói này quả thật không sai, cho nên rượu vang càng ngày càng được ưa chuộng.

Ta bắt đầu nghỉ việc ở Red Rooster, tập trung phát triển sự nghiệp riêng của bản thân.

Sau này ta lại không ngừng mở rộng ra thị trường Châu Á. Một cái trang trại rượu vốn không đủ đáp ứng thị trường lớn như vậy, cho nên ta lại hỏi qua ý của ba mình, kết nối nhiều trang trại rượu với nhau cùng đưa sản phẩm ra nước ngoài. Năm 2013, ta chính thức mở công ty xuất nhập khẩu Whaley Winery (W2) tuy quy mô không lớn nhưng được cái đều đặn có đơn hàng từ nước ngoài, mà ta chưa đủ mười tám tuổi nên để ba ra mặt đứng tên trên giấy tờ. Ta lại tuyển nhân viên, đều là dựa vào kinh nghiệm nhìn người của kiếp trước cộng thêm những gì đã học hỏi ở kiếp này, chọn được vài nhân tài song ngữ hay đa ngôn ngữ khéo ăn khéo nói làm nhân viên bán hàng. Sau đó lại chọn người có năng lực quản lý kinh doanh và quản lý nhân sự tốt, hằng ngày thay ta quản lý việc công ty.

Còn ta mười sáu tuổi học nhảy hai lớp, đã tốt nghiệp trung học. Ta nói với ba mẹ mình về nguyện vọng không học đại học của bản thân. Ba mẹ thấy ta còn nhỏ đã có sự nghiệp riêng, hơi lo lắng sợ ta mới chân ướt chân ráo vào đời, lại coi đồng tiền quá lớn mà bỏ lỡ cả tương lai phía trước. Nhưng ta cố gắng thuyết phục lại nói về lý tưởng của bản thân không nằm trong kinh doanh lẫn học tập. Ta muốn khi công ty vững vàng một chút, thì gia nhập quân đội không quân hoàng gia Úc. Ba mẹ thấy ý ta đã quyết, lại biết tính khí con trai từ sau khi bị bệnh đã khác rất nhiều, nhưng thấy nó phát triển theo chiều hướng tốt, cũng thôi.

Cho nên, sau khi tốt nghiệp, ta thường đi đi về về giữa các tiểu bang, cố gắng kết nối càng nhiểu trang trại rượu vang càng tốt. Sau đó đích thân thân chinh đi các nước Châu Á có mối liên hệ làm ăn với công ty. Trong vòng hai năm thì có thể đặt nền móng vững chắc cho công ty, nó vẫn không ngừng phát triển quy mô càng lúc càng lớn, khiến ta vừa vui mừng vừa khiếp sợ. Thomas lúc này đã mười bốn tuổi, những lúc nó được nghỉ giữa kì thường hay theo ta đi “du lịch” những trang trai rượu vang khác nhau. Cũng chính vì vậy mà ta phát hiện, vị giác của nó cực tốt, chỉ nếm một chút đã có thể phân biệt những lọai rượu khác nhau, không những vậy nó còn có thể tiên đoán được rượu đó có hay không được khách hàng yêu thích. Ta nghĩ thầm, sau này ta đi vào quân đội Thomas sẽ là một trợ thủ tốt giúp ta trấn thủ ở W2.

Năm ta mười tám tuổi trước khi gia nhập quân đội, ta và gia đình về Việt Nam một chuyến để thăm gia đình bên ngoại. Gia đình khá đông, bà ngoại vốn có đến mười một đứa con gồm bốn trai bảy gái. Ta ở thành phố M ba ngày thì có ý định muốn tìm kiếm tiểu nương tử. Nhưng mà đất trời bao la, muốn kiếm một người đúng là mò kim đáy bể. Ta không có nhiều manh mối ngoại trừ lời nàng nói: cha mẹ nàng không thuận thảo bởi vì người thứ ba, mẹ nàng làm y tá ở bệnh viện quận nào đó, cũng ở thành phố M.

Hằng ngày ta chạy xe máy đi khắp các bệnh viện quận, từ quận A đến các vùng ngoại thành, để hỏi thăm tin tức. Điều này cũng không phải dễ vì ở đời không có gì là miễn phí cả. Ta vì thu thập tin tức tốn không biết bao nhiêu là bạc. Nhưng ta mặc kệ, cho dù đổ hết gia tài ta cũng muốn gặp được nàng.

Sau ba tuần tìm kiếm cuối cùng ta nhận ra được người muốn gặp. Ta đóng vai một nhà từ thiện quyên góp một số tiền lớn cho mỗi bệnh viện mà ta đã đi qua. Viện trưởng rất vui vẻ đón tiếp ta, lại không ngần ngại giúp ta tìm “bạn của mẹ” bị thất lạc.

Tên của nàng cũng thật phổ biến, ta hỏi qua mười mấy cái bệnh viện, hầu như nơi nào cũng có y tá có con gái tám tuổi tên Ngọc Lan. Nhưng may mắn chỉ có hai cô gái trùng hợp được tám tuổi. Ta đứng nhìn hai người mẹ từ xa, mà mẹ của nàng chỉ nhìn phớt qua thì biết đây là người ta cần gặp. Nàng và mẹ giống nhau phải đến tám phần, nhất là đôi mắt to tròn linh động biết nói đó, đã gặp một lần thì không thể nào quên.

Ta nhờ vào viện trưởng nên lấy được lòng tin của mẹ nàng, một người y tá trưởng rất có lòng thương người. Mẹ nàng nói không biết ‘mẹ ta’ là ai, ta cũng chỉ cười cho qua nói là ta nhận lầm người. Ta lại từ mẹ nàng biết được, cha mẹ nàng đã ly thân hiện nàng sống một mình với mẹ và bà ngoại. Ta lên tiếng mời gia đình nàng đi ăn cơm, mẹ nàng từ chối nói để mẹ nàng nấu cơm đãi khách, không cần tốn kém như vậy.

Năm ta mười tám tuổi đó, lần đầu tiên gặp lại nàng. Ta đi theo mẹ nàng đến một ngôi nhà cũ nằm trong hẻm nhỏ, thấy nàng thắt hai bím tóc đang ngồi trước cửa nhà xem bạn trong xóm chơi trò ô ăn quan. Khi nàng thấy mẹ về thì tươi cười nũng nịu chạy đến đón, nụ cười như ánh mặt trời kia lại hung hăng bóp chặt trái tim ta.

Mẹ nàng giới thiệu ta, nàng hơi xấu hổ vì gặp người lạ, bẽn lẽn núp ở sau lưng mẹ.

Một cô bé con tám tuổi ngây thơ như vậy, từ khi nào luôn làm ra vẻ quật cường, lại luôn giả bộ vui vẻ cười cợt đối mặt với cuộc sống. Ta vừa nhìn thấy nàng, bao nhiêu mệt nhọc trong tám năm qua đều tan biến hết. Trong lòng thì có một loại rung động mạnh mẽ đến mức muốn đem nàng quay về Úc, khảm nàng ở trong thân thể không muốn rời xa một phút một giây nào nữa. Ta muốn bảo vệ nàng, cho nàng một cuộc sống bình an ấm no hạnh phúc, để nàng mãi được hoạt bát ngây thơ như vậy, cả một đời.

Buổi cơm chiều hôm đó, nàng rất lễ phép ngoan ngoãn ăn cơm, không dám nói leo với người lớn. Ta được gia đình nàng tiếp đãi nồng hậu, thỉnh thoảng muốn khơi gợi một chút đề tài để nói với nàng, nhưng mà đều bị nàng thẹn thùng cúi đầu không dám trả lời. Ta có chút hoài niệm tiểu cô nương mồm năm miệng mười hay giận dữ lại hay trêu chọc người khác của lúc trước.

Khi ta rời thành phố M, có đến gặp gia đình nàng lần nữa. Ta còn đưa danh thiếp và số điện thoại riêng cho mẹ nàng. Ta nói, ta rất thông cảm cho hoàn cảnh hai người. Sau này nếu bé con có muốn đi du học Úc, ta sẽ tài trợ tất cả. Ta còn nói, tương lai của nàng không nên để mai một ở nơi này.

Mẹ của nàng ban đầu không dám tin, cũng không dám khi không nhận lòng tốt của người khác. Nhưng sau một hồi bị thuyết phục, lý lẽ đầy đủ, ánh mắt cũng hơi dao động.

Ta thấy vậy thì để lại danh thiếp trên bàn, nhìn qua tiểu nương tử đang vui vẻ nhảy dây cùng đám bạn trong hẻm nhỏ, tóc đuôi gà không ngừng đung đưa trong không khí.

Ta dằng lại xúc động trong lòng, ép buộc bản thân xoay người, kiên quyết rời đi.