Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Chương 3-9





<tbody></tbody>
Con đường như dát bạc dưới ánh mặt trời buổi sớm. Đó là một ngày hoàn hảo để lên đường. Rebecca vẫn khóc ri ri ở băng ghế sau. Từng dặm đường dần trôi qua bên dưới bánh xe. Tôi biết cuộc sống của chúng tôi sẽ không dễ dàng. Tôi hình dung ra cảnh chúng tôi cùng nhau ở San Francisco hay Scattle, chuyển đến một căn hộ, nơi những người xa lạ cãi nhau phía bên kia bức tường. Tôi sẽ đẩy cái xe đẩy của nó trên những con phố không quen thuộc, tìm kiếm những cửa hàng tạp hóa. Nó sẽ không nghĩ rằng cuộc sống của chúng tôi có gì là kì cục – cho đến khi nó lớn lên, và bắt đầu nhận ra rằng những đứa bé gái khác không sống như thế. Rồi nó sẽ ghét tôi vì tôi chỉ có một mình, vì tôi già và lập dị, vì tôi không thể cho nó một cái sân sau, một phòng giải trí và một người cha. Trong một thoáng, tôi nghĩ đến việc quay lại. Thôi thúc đó ập đến với tôi, và nếu tôi có thể quay ngoặt xe lại theo kiểu chữ U thì có lẽ tôi đã làm thế. Nhưng chúng tôi đang đi trên một con đường cao tốc không cho phép quay đầu xe. Tôi đi theo hai vạch phân cách song song liền mạch màu vàng cho đến khi thôi thúc đó tan biến dần bởi khoảng cách ngày một nhiều thêm. Tôi giữ tay trên vô lăng, và không nghĩ về bất cứ điều gì ngoài những dặm đường tiếp theo. Tôi liếc về phía Rebecca ở đằng sau. Cuối cùng nó cũng đã yên lặng nhờ sự chuyển động của chiếc xe. Trước khi ngủ thiếp đi, nó nhìn tôi oán trách, nước mũi chảy ròng ròng và cái mũi và bải bông lệch đi, và nói một từ. Nó nói: “Mẹ.” Nó phát âm từ đó với một nỗi thất vọng thấy rõ.
“Một ngày nào đó con sẽ cảm ơn mẹ, con yêu,” tôi nói. “Hoặc có lẽ là không.”
Giờ đây tôi chỉ còn lại một mình với thứ này. Thứ tình yêu này. Thứ tình yêu xuyên sâu vào tận xương tủy như một tia X, không có yếu tố nào của lòng tốt hay lòng thương hại.
Thứ lỗi cho tôi, các chàng trai. Rốt cuộc, có vẻ tôi đã làm được thứ tôi muốn. Một đứa con của riêng mình, một hướng đi đển tiến đến. Có lẽ ngôi nhà và tiệm ăn chẳng đáng để đổi lấy thứ này, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể trao cho hai người.
Tôi rẽ khỏi đường cao tốc và đi về phía tây.
BOBBY
Mặt trăng đang đi theo chúng tôi, một mảnh lưỡi liềm trắng trẻo treo trên bầu trời xanh nhờ nhờ. Chúng tôi đang lái xe từ cửa hàng tạp hóa về nhà: Erich, Jonathan và tôi. Những ngày này Erich cứ mơ mơ màng màng. Anh lúc tỉnh lúc mê. Nếu không phải đang bận lái xe, có thể tôi sẽ ôm anh để giữ anh khỏi trôi tuột ra ngoài. Thay vào đó, tôi nói với Jonathan: “Anh ấy sao rồi?”
Jonathan nhìn vào băng ghế sau: “Anh ổn chứ, Erich?” Cậu hỏi.
Erich không trả lời. Anh đang rơi vào lơ đãng. Ai mà biết anh có thể nghe được những gì? “Mình nghĩ anh ấy vẫn ổn,” Jonathan nói với tôi. Tôi gật đầu và tiếp tục lái xe. Những trang trại trôi qua hai bên đường. Những con bò bắt đầu công việc thường nhật của chúng, đều đặn như mọi ngày.
Về đến nhà, chúng tôi giúp Erich ra khỏi xe, dẫn anh lên thềm nhà. Anh mỉm cười với niềm vui mơ hồ của người già. Có thể anh mừng vì chúng tôi đã về đến nhà. Có thể anh đang nhớ đến một món đồ chơi mà anh được cho hồi anh lên bốn. Chúng tôi cất thực phẩm vào bếp.
“Đi tắm nhé!” Tôi nói.
“Cậu có nghĩ anh ấy cần tắm không?” Jonathan hỏi.
“Mình nghĩ anh ấy muốn tắm,” tôi đáp.
Chúng tôi dẫn anh lên gác, xả nước vào bồn tắm. Hơi nước tạo nên một tia lấp lánh trên nên gạch trắng sứt mẻ. Trong khi chờ bồn tắm đầy nước, chúng tôi giúp Erich cởi đồ. Anh không cưỡng lại cũng không hưởng ứng. Khuôn mặt anh lộ vẻ ngần ngại, chứ không phải vô cảm. Khi không còn biết gì về bản thân mình, anh thường khoác lấy vẻ khó chịu câm lặng này, như thể anh không tin lắm vào sự trống rỗng mà anh nhìn thấy. Đó là sự kinh ngạc tách ra từ nỗi sợ hãi và băn khoăn. Nó không hề giống với khuôn mặt của trẻ sơ sinh.
Sau khi đã cởi hết đồ cho anh, chúng tôi dìu anh ngồi xuống nắp bồn cầu. Nước trong bồn tắm từ từ dâng lên. Erich ngoan ngoãn ngồi yên, đôi tay mềm rũ nhét vào giữa hai bắp đùi. Jonathan giơ tay ra chạm vào tóc anh.
“Mình sẽ đi mở chút nhạc,” tôi nói.
“Ừ.” Jonathan ở lại bên Erich, một tay đỡ lấy vai. Tay kia vuốt vuốt tóc Erich.
Tôi bật radio trong phòng ngủ lên, rồi chỉnh đến một kênh cho người già, để nghe thứ âm nhạc của tuổi thơ chúng tôi. Ngay lúc này, Van Morrison đang hát bài Madame George. Tôi vặn to lên để tiếng nhạc có thể vọng đến phòng tắm.
Khi tôi quay lại nói: “Bài này hay quá. Nó vẫn luôn là một trong những bài yêu thích của mình đấy.”
“Cậu muốn nhảy không?” Tôi hỏi cậu.
Cậu nhìn tôi do dự, băn khoăn không hiểu có phải tôi đang đùa hay không.
“Lại đây nào,” tôi nói, và giơ tay ra. “Erich sẽ không ngã đâu. Đúng không, Erich?”
Erich nhìn chằm chằm xuống đôi chân trần của mình. Một cách thận trọng, Jonathan bỏ tay ra khỏi người anh, Erich không ngã. Sau một thoáng, Jonathan bước vào vòng tay tôi và chúng tôi nhảy một điệu valse. Giày chúng tôi lộp cộp gõ trên nền gạch trơn. Tôi có thể cảm thấy sự hỗn loạn trong cuộc đời vẫn đang tiếp diễn của Jonathan. Nó rung chuyển dọc theo da cậu như một mạng lưới dây điện. Tôi miết tay dọc theo những đốt xương sống của cậu. Van đang hát: “Hãy chào tạm biệt Madame Geroge. Hãy lau khô đôi mắt bạn vì Madame George.”
“Bobby này?” Jonathan nói.
“Ừ?”
“Ôi, đừng bận tâm. Mình chỉ định nói gì đó ngớ ngẩn đại loại như: "Mình thấy sợ," nhưng dĩ nhiên là mình thấy sợ thật. Bọn mình đều thế mà.”
“Ừm, đúng vậy. Ý mình là, mình nghĩ bọn mình đều thế.”
Chúng tôi nhảy cho đến hết bài hát. Tôi rất muốn trông thấy Erich cười, hay gật gật đầu theo điệu nhạc. Sẽ thật tuyệt khi thấy anh tham gia với chúng tôi dù là trong một cách gián tiếp như thế. Nhưng anh đã chìm đắm trong sự bí ẩn của mình, nhìn chằm chằm vào một cái hố cứ mở rộng mãi ra. Khi chúng tôi ngừng nhảy, chúng tôi giúp anh đứng dậy, và đưa anh vào ngồi trong bồn tắm. Chúng tôi cùng nhau gội đầu và kì cọ cái cổ gầy gò của anh. Chúng tôi rửa ráy bộ ngực lép kẹp và hai cái nách sâu hoắm bên dưới hai cánh tay anh. Anh thoáng mỉm cười. Vì cảm giác được tắm, hay vì thứ gì đó bí mật hơn thế.
Sau khi tắm cho anh xong, chúng tôi đưa anh lên giường. Cũng đã xế chiều. Jonathan nói: “Mình sẽ ghé qua tiệm ăn và đặt mua bổ sung hàng nhé?” Tôi bảo cậu tôi sẽ đi thay vài tấm ván lợp bị thiếu.
Chúng tôi bắt đầu làm việc của mình. Đó là một buổi chiều bình thường, đang chuyển dần sang buổi tối. Jonathan lái xe đến tị trấn, tôi dựng cái thang vào ngôi nhà và trèo lên với một ôm những tấm ván tuyết tùng mới. Chúng mang màu vàng mới tinh, trông nổi bật hẳn lên so với những tấm ván màu cà phê cũ. Những tấm ván cũ, rải rác lá thông, khô giòn và kêu răng rắc bên dưới tay chân tôi.
Từ trên mái nhà, tôi có thể phóng tầm mắt ra xa. Tôi có thể trông thấy mảnh đất nhỏ của chúng tôi, và xa hơn là những cánh đồng cùng những ngọn núi. Tôi có thể thấy một chiếc xe mui trần màu đỏ lướt qua. Một món đồ chơi của Rebecca đang nằm trên bãi cỏ gần hiên nhà, con búp bê tên là Baby Lou. Nó cứ nằm đó, say sưa cười với bầu trời. Tôi không thể tin được là Clare lại quên mang nó theo.
Tôi bỗng thấy hoang mang. Tôi biết Clare và Rebecca sẽ không quay trở lại. Tôi đã định nói gì đó trước khi họ bỏ đi nhưng tôi không dám – vì sợ rằng nhỡ đâu Jonathan sẽ quyết định đi theo. Tôi không thể để ngôi nhà này sụp đổ được. Chúng tôi đã phải mất rất lâu mới gây dựng được nó. Jonathan và tôi cùng thuộc về nơi này. Clare đã đưa Rebecca đến với thế giới của người sống – với sự ồn ã và những điều bất ngờ của nó, cùng những nguy cơ thất vọng. Có lẽ nàng đã đúng khi làm thế. Đó là nơi Rebecca nên thuộc về. Ở đây chúng tôi sống trong một thế giới khác, một nơi yên tĩnh hơn, bao dung hơn. Tôi đã theo anh trai tôi vào thế giới này và tôi sẽ không bao giờ rời bỏ nó, không bao giờ.
Tôi có việc để làm. Tôi phải sửa lại một cái mái nhà.
Nỗi hoang mang thôi mà.
Rồi ngày nào đó Rebecca sẽ quay lại, và ngôi nhà sẽ chờ đợi nó. Ngôi nhà này là của nó. Cũng chẳng có gì to tát – một ngôi nhà có bộ khung bị mối xông được chắp vá lại bởi công sức của những đôi bàn tay thiếu kinh nghiệm. Nó không có gì to tát nhưng bây giờ nó đang đứng vững và vẫn sẽ đứng vững khi con bé hai mươi tuổi. Bây giờ, ngay lúc này, tôi có thể thấy con bé. Tôi thấy thật rõ ràng như qua cánh cửa sổ mở vào tương lai vậy. Hình ảnh mà tôi trông thấy là một phụ nữ với mái tóc nâu nhạt, không đẹp theo những tiêu chuẩn của thế giới nhưng lại sở hữu một dáng vẻ quyến rũ kín đáo cùng một phong thái vững vàng, điềm tĩnh. Tôi có thể thấy nó đến đứng ở trên hiên của căn nhà mà nó được thừa kế. Một ngôi nhà con bé chưa bao giờ đòi hỏi, và không biết phải làm gì với nó. Tôi có thể thấy con bé đứng đó, mặc một cái áo choàng mùa đông, phả những làn khói rung rinh vào không khí rực rỡ. Đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy. Nó không phải một ảo ảnh lớn. Nhưng tôi thấy nó một cách rõ ràng đến ngạc nhiên. Tôi trông thấy đôi giày của nó trên ván lát sàn nhà, và nghe được tiếng lách tách do mùa đông mang lại trên tóc nó. Tôi thấy hàm nó đón lấy thứ ánh sáng lạnh lẽo khi nó đứng trước món quà không mong muốn này. Tôi sờ vào hàm mình. Tôi quỳ gối ở đó, trên mái nhà, cảm nhận được một cách rõ rệt phần sọ dưới đang nhô ra. Thì giờ đang trôi qua, và tôi cầm phải làm việc. Tiếng búa gõ vang lên đều đều, chát chúa, làm rung chuyển cả bộ khung nhà. Tôi đóng một tấm ván vào đúng vị trí. Tôi lại đóng một tấm khác.
Đêm đó, Jonathan đánh thức tôi dậy bằng cách chạm vào tóc tôi. Tôi mở mắt và thấy khuôn mặt cậu, ngời sáng trong bóng tối của phòng ngủ, quá sát mặt tôi đến nỗi hơi thở của cậu làm tôi thấy má mình nhồn nhột. Cậu đặt một ngón tay lên môi và vẫy tay ra hiệu. Tôi theo cậu ra hành lang. Những nốt chấm bi trên quần đùi của cậu nổi lên rõ rệt trong bóng tối. Cậu đang mặc độc cái quần đùi, tôi mặc quần Jockey và một cái áo lót. Cậu lại vẫy tay và tôi theo cậu xuống gác. Bóng tối bủa vây lấy lưng cậu.
Trong phòng khách, cậu nói: “Xin lỗi đã đánh thức cậu dậy như thế này. Nhưng mình có việc muốn nhờ cậu giúp.”
Tôi hỏi cậu việc gì mà cần phải làm vào lúc nửa đêm như thế. Thay cho câu trả lời, cậu cầm một vật từ trên chiếc bàn cạnh chiếc sofa lên. Tôi mất một lúc mới nhìn rõ được – đó là cái hộp đựng tro của Ned. Ẵm cái hộp bằng cả hai tay, cậu đi về phía cửa trước.
“Đi nào,” cậu nói.
Chúng tôi bước ra ngoài hiên và dừng lại ở thanh lan can, trông ra màn đêm thăm thẳm như hai hành khách trên một con tàu viễn dương. Trong những đêm không trăng, ngôi nhà này có thể trôi nổi, nó có thể bồng bềnh trôi qua không gian. Tất cả những gì hiện ra trong màn đêm xung quanh là một cánh đồng sao và những rặng cây im lìm.
Jonathan nói: “Mình đã đổi ý về việc cứ trì hoãn không rắc tro của bố mình. Đột nhiên mình nhận ra rằng đây chính là nơi thích hợp hơn bất cứ nơi nào khác.”
“Ý cậu là cậu muốn rải tro của chú Ned ngay bây giờ? Ngay tại đây?”
“Ừm. Mình muốn cả hai đứa chúng mình cùng làm việc này.”
“Ừm, cậu không nghĩ rằng cô Alice cũng muốn có mặt ở đây à? Ý mình là, sao chúng ta không có vài kiểu nghi lễ nào đó?”
“Không cần. Mẹ mình sẽ mừng khi nghe tin mình đã làm việc này. Dạo cần đây bà không quan tâm lắm đến những nghi lễ.”
“Vậy à,” tôi nói.
“Đi thôi.” Cậu bước xuống hiên, và tôi đi cùng cậu. Đi trên bãi cỏ giống như là bước vào khoảng không đích thực. Tôi bước đi với cảm giác mê sảng, không trọng lượng.
“Jon,” tôi nói. “Jonny à, có lẽ bọn mình nên hoãn việc này lại. Ý mình là, cậu không nghĩ rằng cậu sẽ thấy tiếc vì đã không lên kế hoạch gì à?”
“Nếu cậu không muốn, mình sẽ tự làm một mình,” cậu nói. Cậu bước vài bước về phía đường đi, một dải bàng bạc mờ mờ trong bóng đêm. Tiếng ếch kêu râm ran và rền rĩ. Cụm sao Thất Nữ nhỏ bé nhấp nháy trên đầu chúng tôi. Tôi đi theo cậu. Khi chúng tôi băng qua đường, tôi bỗng nhớ đến hình ảnh của mình thời thơ ấu, đang đi theo anh trai tôi vào nghĩa địa để cùng chào mừng tương lai oai hùng của chúng tôi. Jonathan bước đi với vẻ quyết tâm vừa mang tính nghi thức vừa có vẻ hơi điên rồ. Cậu đang mặc độc cái quần đùi chấm bi khi những thiên hà nổ tung phía trên đầu.
Một đồng cỏ linh lăng trống vắng trải ra bên kia đường. Đám cỏ linh lăng rì rào khẽ cọ vào đôi chân trần của chúng tôi. Dù vào ban ngày tôi biết rằng cánh đồng này bị chặn lại bởi những bụi cây và một cái chuồng bị bỏ hoang, nhưng tất cả những gì tôi có thể thấy lúc này là một đại dương cỏ linh lăng mênh mông. Khi chúng tôi đang đi, Jonathan nói: “Mình vừa mới nhận ra rằng thật là buồn cười khi cứ giữ mãi tro của bố mình cho đến khi nào mình kiếm được một nơi chốn thích hợp cho chúng. Mình đã quyết định rằng đây là một nơi hoàn toàn phù hợp. Ngay trên cánh đồng này. Thậm chí mình còn không biết ai là chủ của nó nữa, cậu có biết không?”
“Không.”
“Ôi, Bobby. Mình muốn trở thành một phần của thứ gì đó không dính dáng tới cái chết.”
“Thì đúng là thế mà.”
“Không phải. Mình từng nghĩ như thế, nhưng thật sự thì không phải.”
“Jon,” tôi nói. “Jonny à.”
Cậu đợi tôi nói tiếp, nhưng tôi không cất nên lời. Toi không thể nói với cậu những gì tôi biết – chúng tôi đều có những niềm đam mê bên ngoài thế giới của người sống. Đó là điều đã chia cách chúng tôi với Clare, và với những người khác. Đó là điều đã giữ chúng tôi ở lại bên nhau khi chuỗi hoàn cảnh thông thường đã buộc chúng tôi lớn lên và tách nhau ra.
Sau một lúc, cậu nói: “Vì thế mình đã nghĩ đến lúc từ bỏ đám tro này. Ngay bây giờ. Ở đây. Có vẻ đây là một địa điểm thích hợp.”
Chúng tôi đã đi quá sâu vào cánh đồng đến nỗi bóng tối khép lại sau lưng chúng tôi, xóa nhòa con đường và ngôi nhà. Tất cả những gì chúng tôi có thể trông thấy là đám cỏ đinh lăng. Những con dế kêu rinh rích và đám muỗi vo ve quanh đầu chúng tôi, không thể tin nổi vào sự may mắn của chúng. Chúng tôi đứng đó, trong màn đêm râm ran, lấp lánh ánh sao. Một bống tối hoàn toàn như tận cùng của thế giới.
“Cái nắp này hơi khó mở,” cậu nói. “Đợi một phút. Rồi.”
Cậu đặt cái hộp lên mặt đất.
“Thật khó tin,” cậu nói. “Bố mình thường kiệu mình trên vai. Ông từng cù mình cho đến khi mình tè dầm ra quần. Mình vẫn nhớ ông đã cảm thấy hối hận thế nào. Và xấu hổ. Và đôi chút phẫn nộ.”
“Cậu có muốn, ờ, nói một vài lời không?” Tôi hỏi.
“Ôi, mình nghĩ là mình đã nói rồi. Nghe này, cậu sẽ chạm vào chúng cùng lúc với mình chứ?”
“Được. Nếu cậu muốn.”
Chúng tôi đều cúi xuống. “Mình sẽ đếm đến ba,” cậu nói. “Một, hai, ba.”
Chúng tôi thò tay vào. Có một cái túi bóng bên trong hộp, và chúng tôi luồn tay vào trong túi. Tro của chú Ned có vẻ mềm mại và mịn màng. Chúng lổn nhổn những mẩu xương vụn. Khi chúng tôi chạm vào chúng, Jonathan hít một hơi.
“Ôi,” cậu nói. “Được rồi. Mình nghĩ đó là phần khó nhất. Cậu có thấy thế không?”
“Có.”
Chúng tôi đứng đó với những nắm tro và xương trong tay. “Mẹ mình đã đúng,” cậu nói. “Nó thực sự không hơn một đôi giày cũ của ông. Được rồi. Làm thôi.”
Trong im lặng, chúng tôi rải tro lên cánh đồng. Chúng tôi vừa bước lên theo những vòng tròn nhỏ vừa rắc chúng. Trời tối mịt nên tôi không thể trông thấy chúng rơi xuống. Chúng biến mất khỏi tay chúng tôi. Nếu chúng có tạo nên bất cứ tiếng động nào thì nó cũng sẽ bị chìm xuống bởi tiếng côn trùng rả rích và tiếng xào xạc của đám cỏ linh lăng.
Chúng tôi cứ liên tục quay trở lại chỗ cái hộp. Chúng tôi không nói gì cho đến khi đám tro đã được rải hết.
“Vậy là xong,” Jonathan nói. “Bố ơi, con chỉ làm được thế này thôi. Đó là điều tốt nhất rồi bố ạ.”
Cậu nhặt cái hộp lên và chúng tôi đi về phía khoảng tối, nơi chúng tôi nghĩ là vị trí của ngôi nhà. Chúng tôi đã bị mất phương hướng khi đi vòng quanh để rải tro, và đã cách ngôi nhà khá xa. Chúng tôi phải đi dọc theo con đường gần một phần tư dặm. Chúng tôi đã khiến cho một chiếc Volvo đi ngang qua phải tò mò – hai người đàn ông mặc đồ lót đi trên một con đường thôn dã, tay cầm một cái hộp rỗng.
“Bobby này?” Jonathan nói.
“Ơi?”
“Cậu có biết vì sao mình lại đột nhiên quyết định làm việc này không?”
“Không.”
“Sau khi Clare và Rebecca đi, mình chợt nghĩ rằng mình không muốn họ quay lại với Erich đang ngày càng tồi tệ trên gác và tro của bố mình vẫn được đặt trên một cái giá ở phòng khách. Đột nhiên mình thấy ngôi nhà mang quá nhiều vẻ chết chóc. Và thế là mình quyết định sẽ rải tro trên đồng cỏ. Ý mình là, mình giữ chúng để làm gì chứ?”
“Ừm, chẳng làm gì cả, mình nghĩ thế.”
“Mình muốn sơn lại phòng của Rebecca,” cậu nói. “Màu cũ quá xỉn. Ngày mai sau khi đi làm về bọn mình sẽ chọn màu sơn nhé? Màu gì đó lòe loẹt mà con bé sẽ thích mê đi, như màu hồng tươi chẳng hạn. Mình chưa nghe thấy ai nói trẻ con có khiếu thẩm mỹ kém cả.”
Tôi có thể nghe thấy hơi thở của Jonathan. Ánh sao loang loáng lan tỏa trên làn da trần của cậu. Chúng tôi bước đi vài phút trong im lặng.
“Nghe này,” cậu nói.
“Ừ.”
“Nếu mình có mệnh hệ gì, thì đây cũng sẽ là nơi hoàn toàn thích hợp để rải tro của mình. Nếu và khi nào điều đó xảy ra, mình muốn cậu bảo với mẹ mình thế. Hãy bảo bà rằng đó là yêu cầu cuối cùng của mình. Chúa ơi, nếu tro của bố mình và mình cuối cùng đều được rải quanh đây, mẹ mình sẽ đi về đâu khi bà mất nhỉ?”
“Bà cũng có thể đến đây mà.”
“Chà, bà vẫn luôn bị lôi kéo đến nhưng nơi mà bà không hề muốn. Vậy thì cớ gì mọi chuyện lại khác đi sau khi bà mất, đúng không?”
“Đúng. Ý mình là, mình nghĩ thế. Đây là nơi mà hiện tại tất cả chúng ta đều thuộc về.”
“Nếu quả thực là thế thì sao?” Cậu nói. “Nó sẽ không trở thành một thứ gì đó chứ?”
Chúng tôi không nói gì nữa. Giữa chúng tôi có quá nhiều vấn đề nên không biết phải nói về điều gì. Chúng tôi đi nốt đoạn đường ngắn ngủi cuối cùng, bị những loài động vật về đêm bí mật dõi theo. Nó giống như một giấc mơ, một trong những giấc mơ trẻ thơ về nỗi xấu hổ giữa chốn đông người, khi đi trên một con đường công cộng mà mặc nỗi chiếc quần đùi sờn rách. Nhưng, trong giấc mơ đặc biệt này, tôi không hề cảm thấy ngại cùng. Tôi đang ở đây, ăn mặc thiếu đứng đắn trên một con đường quê, với làn gió đêm u tố thổi quanh mình. Tro của Ned đang hòa lẫn với đất trong một thế giới thu nhỏ của kiến và những loài bọ cánh cứng kềnh càng, ì ạch. Erich đang ở trong giấc ngủ chập chờn, với những giấc mơ chồng chéo. Trên đời này vẫn còn có cái đẹp, dù nó khắc nghiệt hơn những gì chúng ta từng mong đợi. Nó không giống với trang trại mùa thu trên tường phòng ăn của gia đình tôi cũng như một mẩu xương không giống với một người đàn ông hay một người đàn bà. Ở nơi nào đó trên lục địa này, Clare và Rebecca đang ngủ, trong một khách sạn ven đường hay trong một căn phòng khách nhà bạn bè nàng. Khi cái bóng xanh xanh của ngôi nhà hiện ra trước mặt chúng tôi, tôi nhớ ra rằng nhà cũng là một nơi để người ta rời khỏi nó. Đây là nhà của chúng tôi, chúng tôi có thể bỏ đi, và cũng có thể trở về.
Lúc này không gian thật mịt mùng đủ để nhìn thấy tương lai – những buổi sáng lạnh lẽo và những đêm dài đằng đẵng, cùng thứ âm nhạc hằng ngày. Jonathan và tôi ở đây để duy trì một hiện tại, để mọi người có thể quay lại với nó khi tương lai của họ làm họ mệt mỏi. Chúng tôi đã phải đi một hành trình dài mới đến được đây. Chúng tôi đi vào lối xe chạy, và tôi thấy thứ gì đó đang làm lay động tấm rèm ở cửa sổ phòng ngủ. Trong một thoáng, tôi nghĩ Clare đã trở về. Tôi túm lấy vai Jonathan.
“Gì thế?” Cậu hỏi. “Sao thế?”
“Không có gì. Chẳng sao cả. Đừng bận tâm.”
Giữa cơn bốc đồng và cái chạm vai đó, tôi đã tỉnh táo lại. Clare không quay về. Thứ mà tôi thấy chỉ là gió thổi mà thôi. Nó vừa là cơn gió vừa là linh hồn của chính ngôi nhà, thoáng lo lắng bởi sự vắng mặt giữa đêm hôm khuya khoắt của chúng tôi, nhưng đã già đến nỗi không còn ngạc nhiên trước những việc sinh ra từ khoảng trống giữa những gì chúng ta có thể tưởng tượng và những gì chúng ta thực sự tạo ra.