Resident Evil 1 - Âm Mưu Của Tập Đoàn Umbrella

Chương 5:




Dịch giả: Seraphy, GtaMaster, Jr, Hoa Thần, JediDarkLord
Jill vừa quan sát quang cảnh xung quanh vừa thở dốc, cảm giác như cô là một nhân vật trong cơn ác mộng hoang tưởng. Những con quái vật hoang dã gầm rú, cái chết đột ngột của Joseph, cuộc chạy trốn hoảng loạn qua khu rừng tối, và bây giờ thì tới ngôi nhà này.
Bị bỏ hoang à?. Truyện Mạt Thế
Nơi đây là một cung điện, đơn giản và thuần khiết, nói theo cha cô thì đây là một nơi kiếm chác được rất nhiều. Căn phòng họ đang ở chỉ là một phần nhỏ của sự xa hoa. Nó rất lớn, hẳn nhiên to hơn toàn bộ căn nhà của Jill, sàn lát bằng đá cẩm thạch xám lốm đốm, chính giữa phòng nơi cây cầu thang ngự trị được trải tấm thảm dẫn lên ban công lầu hai. Các cây cột đá cẩm thạch tạo thành vòm cong trang trí thêm cho cái sảnh vốn đã được chăm chút kỹ lưỡng, được tô điểm bởi hàng lan can bằng gỗ đen ở tầng trên. Những chiếc đèn trên các rãnh tường đang tỏa ánh sáng khắp bốn bức vách gỗ sồi màu kem, rọi đến tận rìa của tấm thảm lót sàn màu nâu vàng nhạt. Nói vắn tắt, căn phòng thật tráng lệ.
“Nơi này là đâu đây?”, Barry hỏi nhỏ. Không ai trả lời anh cả.
Jill hít một hơi sâu và cảm thấy cô không ưa nó. Có cảm giác… điều gì đó bất ổn với căn phòng rộng lớn này, bầu không khí của một áp lực vô hình. Căn nhà này hình như bị ếm, bởi ai hay cái gì thì cô không biết.
Chạy đứt hơi để khỏi bị ăn thịt bởi lũ chó đột biến, thật kinh khủng. Và trên hết, vì Chúa, tội nghiệp Joseph! Bây giờ không có thời gian để đau buồn, nhưng ký ức về cậu ấy sẽ không bao giờ nhạt đi.
Cô tiến đến cầu thang, tay nắm chặt súng, tiếng bước chân cô bị nhấn chìm bởi tấm thảm dày trải dài từ cửa chính. Có một cái máy đánh chữ trên bàn ngay phía bên phải cầu thang, trong nó đã có một cuộn giấy. Sự bất cẩn này hơi lạ. Ngoài nó ra căn phòng đại sảnh đắt tiền chẳng có gì cả.
Cô quay trở về chỗ những người khác, tò mò không biết họ nghĩ gì về mọi chuyện vừa xảy ra. Barry và Chris đều có vẻ ngờ vực, họ quan sát căn phòng, gương mặt họ đầy mồ hôi và kích động. Wesker đang cúi xuống xem xét cái chốt khóa cửa chính.
Hắn đứng dậy, cặp kính mát vẫn như dán cứng ở chỗ cũ.
“Phần gỗ chung quanh ổ khóa bị vỡ vụn rồi. Ai đó đã phá cái cửa này trước khi chúng ta tới đây.”
Chris trông tràn trề hy vọng:“Có thể là đội Bravo chăng?”
Wesker gật đầu:“Đó là điều tôi đang nghĩ. Tiếp viện có lẽ đang tới, điều đó còn tùy thuộc vào “anh bạn” Vickers của chúng ta có thèm gọi họ không.”
Giọng hắn trở nên chế giễu, và Jill cảm thấy cơn tức giận của chính cô cũng bùng lên. Brad đã bỏ mọi người ngay lúc quan trọng và gần như làm họ bỏ mạng. Không có lý do gì để biện minh cho điều cậu ta đã làm.
Wesker tiếp tục, đi ngang qua căn phòng tới một trong hai cánh cửa phía bên trái. Hắn vặn nắm cửa, nhưng nó không mở ra.
“Bây giờ trở ra ngoài thì không an toàn chút nào. Cho tới khi đội cứu viện tới, chúng ta cũng nên đi xung quanh đây xem xét căn nhà. Theo những gì chúng ta thấy thì hiển nhiên có ai đó đang sống ở đây, dù chúng ta không biết tại sao và đã bao lâu rồi…”
Hắn ngừng lại, quay lại nhóm:“Chúng ta còn bao nhiêu đạn?”
Jill lấy băng đạn trong khẩu Beretta của cô ra và đếm: còn ba viên, cộng thêm hai băng đầy trong thắt lưng của cô. Ba mươi ba phát. Chris còn hai mươi hai, Wesker, mười bảy. Barry còn hai băng cho khẩu Colt của mình, kèm theo nắm đạn dự phòng trong túi, tổng cộng mười chín viên.
Jill nghĩ về những thứ họ bỏ lại trên trực thăng và cảm thấy cơn giận một lần nữa bốc lên. Những hộp đạn, đèn pin, máy thu phát tín hiệu cầm tay, mấy khẩu Shotgun – không kể đến thuốc men.
Khẩu Beretta Joseph tìm thấy trên cánh đồng, những ngón tay xanh xao, vấy máu vẫn còn nắm lấy nó, một thành viên S.T.A.R.S. chết hoặc đang hấp hối, và nhờ Brad, họ chẳng có bông băng để giúp thành viên đó nữa.
Ạch!
Âm thanh của cái gì đó nặng nề đang lê trên sàn, ở đâu đó gần đấy. Mọi người đồng loạt quay đầu về cánh cửa duy nhất phía đông. Jill đột nhiên nhớ đến bộ phim kinh dị cô đã xem, một ngôi nhà kì lạ, tiếng động kì lạ… cô thấy lạnh run, và quyết định sẽ cho Brad một trận khi họ ra khỏi đây.
“Chris, kiểm tra và quay lại đây báo cáo càng nhanh càng tốt.”
Wesker nói tiếp: “Chúng tôi sẽ đợi ở đây phòng trường hợp RPD tới gõ cửa. Nếu gặp rắc rối, cứ nổ súng và chúng tôi sẽ tìm cậu.”
Chris gật đầu và bắt đầu hướng về cánh cửa, đôi giày theo bước chân anh gõ âm thanh vang khắp nền nhà đá hoa cương. Jill một lần nữa như cảm thấy một điềm báo.
“Chris?”
Tay đã đặt lên nắm cửa, anh quay lại, và cô nhận ra mình không thể nói gì để Chris biết được tâm trạng của cô. Mọi thứ đều xảy ra quá nhanh, tình huống này có quá nhiều bất ổn mà cô không biết bắt đầu từ đâu.
Và anh ấy đã được huấn luyện kỹ kia mà, mày cũng vậy. Bắt đầu cư xử đúng như thế đi.
“Cẩn thận”, Cô nói. Đó không phải là điều cô muốn nói, nhưng như thế có lẽ cũng đủ rồi.
Chris đáp lại cô bằng một nụ cười, rồi giơ khẩu Beretta lên và tiến vào trong. Jill nghe tiếng ổ khóa và anh đã đi rồi, đóng lại cánh cửa phía sau lưng.
Barry bắt gặp ánh nhìn của cô và mỉm cười với cô, ánh mắt khuyên cô không nên lo lắng, nhưng Jill không thể gạt bỏ ý nghĩ Chris sẽ không quay lại nữa.
Chris nhìn quét qua căn phòng, cảm nhận sự thanh nhã trong đó và nhận ra chỉ có mình anh, bất kỳ ai gây ra tiếng động thì họ cũng không ở đây. Âm thanh đều đều của chiếc đồng hồ dây cót rót đầy không khí mát, vang vọng trên nền gạch đen trắng. Anh đang ở trong phòng ăn, loại anh chỉ thấy trên phim về những người giàu có. Nơi đây cũng có trần nhà cao vời vợi giống đại sảnh chính, nhưng nó cũng được trang trí bằng những thứ đắt tiền và có một lò sưởi phía cuối phòng, phía trên nó là một tấm phù hiệu hình lá chắn cùng hai thanh kiếm chéo nhau, nhưng ngay phía bên phải lò sưởi là một cánh cửa đóng.
Chris hạ thấp vũ khí và tiến đến cánh cửa, vẫn bị choáng ngợp bởi vẻ giàu có của căn biệt thự “bỏ hoang” mà đội S.T.A.R.S. buộc phải trốn vào. Căn phòng ăn rộng lớn được tô điểm bởi gỗ đỏ và những bức họa đắt tiền treo trên các bức tường vôi màu kem, bao bọc quanh cái bàn gỗ chạy dọc theo chiều dài căn phòng. Cái bàn có ít nhất hai mươi chỗ ngồi, mặc dù nó chỉ dùng cho một số người đếm trên đầu ngón tay. Từ đám bụi bám trên bàn, có vẻ không ai đã sử dụng nó trong nhiều tuần lễ.
Ngoại trừ việc không ai có thể ở đây trong ba mươi năm, một mình tổ chức một bữa tối trang trọng cả! Spencer đã đóng cửa nơi này trước khi có bất kỳ ai sống ở đây.
Chris lắc đầu. Rõ ràng có ai đó đã sử dụng nó lại cách đây rất lâu… vậy tại sao mọi người trong thành phố Raccoon đều tin rằng biệt thự Spencer đã bị đóng cửa, chỉ là một phế tích giữa rừng? Quan trọng hơn nữa, tại sao Umbrella lại nói dối với Irons về tình trạng an ninh của nó?
Những vụ giết người, mất tích, Umbrella, Jill… Thật chán nản. anh cảm thấy anh có vài câu trả lời, nhưng không chắc nó thuộc câu hỏi nào.
Anh tới cánh cửa và xoay nắm chậm rãi, lắng nghe bất kỳ âm thanh nào phía bên kia. Anh không thể nghe được gì ngoài tiếng kim của chiếc đồng hồ cũ, nó được đặt sát ngay tường và mỗi chuyển động từ cây kim thứ hai đều vang lên giả tạo, do được khuếch đại bởi căn phòng có mái vòm.
Cánh cửa mở ra dẫn đến một phía hành lang chật, được chiếu sáng lờ mờ bởi hệ thống ánh sáng cũ. Chris nhanh chóng kiểm tra cả hai hướng. Về phía bên phải có lẽ là 10 mét hành lang gỗ, vài cánh cửa ngang trước mặt Chris và một cánh cửa ngay cuối hành lang. Lối đi bên trái bẻ sang một hướng khác từ chỗ anh đứng, khá rộng rãi. Anh thấy một viền nâu chạy trên sàn nhà tới đó.
Anh nhăn mặt. Có một mùi thối phảng phất trong không khí, của một thứ gì đó quen quen mà không vui vẻ chút nào. Anh đứng ở hành lang thêm một lúc, cố định vị nơi cái mùi khó ngửi ấy xuất phát. Vào một mùa hè khi anh còn nhỏ, sợi xích trên xe đạp anh đã tuột ra khi anh đi ra ngoài chơi cùng vài người bạn. Kết quả Chris rớt xuống cái rãnh khoảng sáu inch cách đường, phần xác rữa đã khô còn lại của con chuột chũi cũng ở đó. Thời gian và sức nóng của mùa hè đã làm nó trở thành cái mùi tồi tệ nhất, phần còn lại của nó cũng đã kinh khủng rồi. Đám bạn tỏ ra thích thú khi anh nôn hết lên cái xác con vật, lấy hơi sâu và lại tiếp tục nôn. Anh vẫn còn nhớ cái mùi phơi nắng của xác sinh vật đang phân hủy ấy, như sữa chua và mật đặc vậy, cũng chính cái mùi đó đang lan tỏa trong hành lang như một giấc mơ báo điềm gở vậy.
Thụp!
Có tiếng lê bước nhẹ phía sau cánh cửa đầu tiên bên phải, giống như nắm tay độn bông đang trượt trên tường. Có ai đó phía bên kia.
Chris tiến tới về phía cửa, cẩn thận không để lưng quay về hướng khu vực chưa xác minh. Khi anh bước tới gần, âm thanh đó ngưng lại, và anh có thể thấy cánh cửa không hoàn toàn đóng.
Không có thời gian để chần chừ.
Với một cú đẩy nhẹ, cánh cửa tung vào trong, mở ra hành lang tối cùng những bức tường được sơn xanh. Một người đàn ông to con đang đứng cách Chris chưa đến 20 bước, nửa khuất trong bóng tối, lưng quay lại phía anh. Ông ta quay lại chậm rãi, điệu bộ của những người say hay bị thương, và cái mùi Chris ngửi thấy trước đó tỏa ra từ người đàn ông nồng nặc. Đồ của ông ta rách rưới và vấy máu, phía sau đầu loang lổ những mảng tóc.
Chắc đang bệnh, hoặc có thể sắp chết.
Dù ông ta bị gì đi nữa thì Chris cũng không ưa cái kiểu này, trực giác của anh đang thôi thúc anh làm một việc gì đó. Anh bước ra ngoài hành lang và chĩa thẳng khẩu Beretta vào ngực người đàn ông.
“Dừng lại, không được cử động!”
Người đàn ông đã hoàn tất việc xoay người lại và bắt đầu tiến tới Chris, lê bước vào vùng sáng. Gương mặt của nó xanh lè, ngoại trừ phần máu xung quanh cái miệng đang phân rữa. Những mảng thịt khô đung đưa còn dính lại từ cặp má rữa, trong hố mắt sâu của sinh vật đó ánh lên sự thèm thuồng và nó giương đôi tay xương xẩu ra.
Chris bắn ba phát vào ngực sinh vật đó làm phun ra dòng máu đỏ thẫm. Với một tiếng kêu, nó đổ gục xuống sàn, giãy chết. Chris giật lùi lại, dòng suy nghĩ dồn dập cùng với trái tim đang đập liên hồi. Anh chạm vào cánh cửa bằng một bên vai, lờ mờ biết được nó đã đóng và nhìn cái thân hình hôi thối trên sàn. Xác chết, thứ đó là cái xác chết biết đi khốn khiếp! Những tên ăn thịt người tấn công Raccoon, toàn bộ bọn chúng ở gần khu rừng. Anh đã coi đủ phim chiếu về khuya để biết thứ anh đang nhìn là gì, tuy nhiên anh vẫn không thể tin được.
Những xác chết hồi sinh.
Không, không đời nào, đó chỉ là tiểu thuyết thôi, nhưng có lẽ là một bệnh dịch gì đó, tương tự như triệu chứng đó vậy. Anh phải báo với những người khác. Anh xoay người lại và vặn tay nắm, nhưng cánh cửa không chuyển động, có lẽ nó đã tự khóa khi anh dựa vào nó.
Đằng sau anh, cái gì đó ướt đang chuyển động. Chris quay phắt lại, mắt mở to nhìn cái sinh vật đang co giật cào vào sàn gỗ lết tới chỗ anh trong sự im lặng một cách phấn khởi và quyết tâm. Chris nhận ra nó đang chảy dãi, và cuối cùng anh hành động khi thấy cái chất dinh dính hồng đó rỏ xuống sàn.
Anh bắn lần nữa, hai phát vào khuôn mặt thối rữa đang ngửa lên của nó. Những cái lỗ đen khoan vào hộp sọ phồng rộp, từ dưới hàm nó bắn ra dòng chất lỏng và thịt. Thở hắt ra lần cuối, cái đống thịt rữa ấy nằm im dưới sàn trong một vũng máu ngày càng lan rộng. Chris không dám chắc nó đã nằm yên hay chưa. Chris giật mạnh cái cửa lần nữa và cẩn thận bước qua cái xác, di chuyển xuống phía dưới hành lang. Anh vặn tay nắm phía bên trái, nhưng nó khóa. Có một hình khắc nhỏ trông giống như một thanh kiếm, anh ghi thông tin ít ỏi đó vào đầu giữa những suy nghĩ đang quay cuồng, và tiếp tục tiến tới, nắm chặt khẩu Beretta.
Có một lối đi nhỏ bên phải anh cùng với một cánh cửa, nhưng anh không quan tâm tới nó, lúc này anh chỉ muốn tìm đường vòng trở lại đại sảnh. Những người khác chắc đã nghe tiếng súng, nhưng anh đoán chắc là còn nhiều những sinh vật đang chạy quanh đây như thứ anh vừa xử lý.
Có một cánh cửa phía bên trái cuối hành lang chỗ khúc quanh. Chris đi mau tới, mùi phân hủy của sinh vật đó – những con zombie - làm anh buồn nôn. Vừa đi gần cánh cửa, anh nhận thấy cái mùi đó càng tệ hơn, càng nặng hơn theo mỗi bước chân.
Anh nghe thấy tiếng kêu thèm thuồng khi tay đặt vào nắm đấm cửa, cùng lúc nhận ra anh chỉ còn hai viên trong băng đạn.Trong bóng tối phía bên phải anh, nó đang chuyển động.
Phải nạp đạn thôi, tới chỗ nào đó an toàn vậy.
Chris đẩy cánh cửa mở và bước thẳng vào vòng tay con sinh vật đã đợi sẵn phía bên kia, những ngón tay trơ xương của nó túm lấy anh trong khi hàm răng nó hướng tới cổ anh.
Ba phát súng. Vài giây sau, hai phát nữa, âm thanh có vẻ xa xăm nhưng chắc chắn ở chỗ hành lang nào đó.
Chris!
“Jill, sao cô không…”, Wesker bắt đầu, nhưng Barry không để hắn dứt lời.
“Tôi cũng đi.” anh nói, vừa tiến đến cánh cửa phía đông. ""Chris sẽ không lãng phí đạn như thế này trừ khi cậu ta buộc phải làm vậy, cậu ta cần giúp đỡ.""
Wesker mau chóng dịu lại, chấp thuận: “Đi đi. Tôi sẽ đợi ở đây.”
Barry mở cửa, Jill ngay phía sau. Họ bước vào căn phòng ăn rộng lớn, không rộng như đại sảnh nhưng ít nhất nó cũng dài bằng. Có một cánh cửa phía cuối phòng, ngang qua cái đồng hồ dây cót cổ đang gõ nhịp trong bầu không khí đầy bụi bẩn và lạnh lẽo.
Barry đi nhanh tới, cầm chắc khẩu súng lục, cảm thấy căng thẳng và lo lắng.
“Chúa ơi, nhiệm vụ lần này còn lộn xộn đến cỡ nào đây!”
Đội S.T.A.R.S. thường được cử đi thực hiện những tình huống mạo hiểm nơi sự việc bất thường, nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi còn là một anh lính mới, Barry cảm thấy mọi chuyện đều như đã mất kiểm soát. Joseph đã chết. Gã Vickers mặc cho họ bị đám chó từ địa ngục kia làm thịt, và giờ Chris đang gặp rắc rối. Đáng lẽ Wesker không nên gửi cậu ta đi một mình.
Jill tới cửa trước, chạm vào nắm cửa bằng những ngón tay thon thả và nhìn anh. Barry gật đầu và cô đẩy cửa mở, bước vào, tiến về phía trái.
Barry đi sang phía còn lại, cả hai người họ đưa mắt quét qua hành lang trống.
“Chris?”, Barry gọi, nhưng không có ai trả lời. Barry hơi bực mình, khịt mũi:""Có gì đó như mùi trái cây thối vậy.""
“Tôi sẽ kiểm tra mấy cánh cửa”, Barry nói. Jill gật đầu và tiến về phía bên trái, cảnh giác và tập trung.
Barry tiến về cánh cửa đầu tiên, cảm thấy yên tâm vì Jill phía sau mình. Anh đã nghĩ cô là kẻ có ác ý khi cô mới chuyển đến, nhưng cô đã chứng minh cô là một người lính có thực lực và tài năng, một thành viên đáng được chào mừng vào đội Alpha.
Jill kêu lên hốt hoảng và Barry xoay lại, mùi thối rữa bất ngờ dày lên trong hành lang hẹp.
Jill đang lùi dần từ lối vào phía cuối hành lang, đang chĩa súng vào cái gì đó Barry không thể thấy được.
“Dừng lại!”, Giọng Jill cao và run, khuôn mặt lộ rõ nỗi hoảng loạn và cô bắn, một lần, hai lần, vẫn lùi về phía Barry, hơi thở nhanh và ngắn.
“Tránh về phía trái!”
Anh giương khẩu Colt lên, một người đàn ông cao hiện ra khi Jill tránh sang trái. Đôi tay của nó giang rộng ra như người mộng du, yếu ớt và như muốn nắm lấy.
Barry trông thấy khuôn mặt của sinh vật đó và không chần chừ nữa. Anh bắn, viên đạn 357 làm nổ tung phần trên hộp xọ xám xịt của nó, máu chảy xuống thân hình kì quái, kinh khủng, nhuộm đỏ đôi mắt đục ngầu xanh xao trợn trừng.
Nó đổ ngược lại, mặt ngửa lên ngay cạnh chân Jill. Barry bước nhanh tới cạnh cô và sững người.
“Cái gì...”, Anh thốt lên khi nhìn lên tấm thảm đằng trước họ, được đặt ở vị trí cuối hành lang.
Trong khoảnh khắc, Barry nghĩ đó là Chris, tới khi nhìn thấy dấu hiệu của đội S.T.A.R.S. Bravo trên chiếc áo, và cảm thấy một nỗi hoảng sợ khác khi anh cố nhận dạng nó. Thành viên đội Bravo này đã không còn nguyên vẹn, cái đầu ở cách xác khoảng một bước chân, khuôn mặt hoàn toàn bị vấy máu.
Đó là Ken.
Kenneth Sullivan, một trong những người trinh sát giỏi nhất Barry từng biết và là một người cực kỳ tốt bụng. Có một vết thương nham nhở ở ngực anh, một phần cơ đã bị ăn và nội tạng lòng thòng quanh cái lỗ rỉ máu. Tay trái anh bị mất, và không có vũ khí nào gần đó, có lẽ đó là khẩu súng Joseph đã tìm thấy trong rừng.
Barry nhìn đi hướng khác, cảm thấy phát ốm. Ken là một người ít nói, ân cần và đã làm rất nhiều việc trong ngành hóa học. Anh ta có một cậu con trai đang tuổi thiếu niên đang sống với vợ cũ của anh ở California. Barry nghĩ về chính các con gái của ông ở nhà, Moira và Poly, và cảm thấy một nỗi sợ hãi dâng trào. Anh không sợ chết mà chỉ sợ khi nghĩ đến việc chúng lớn lên mà không có bố.
Jill cuối xuống cạnh cái xác của Ken và lục lọi đai lưng. Cô ném cho Barry một cái nhìn xin lỗi, nhưng anh gật nhẹ với cô. Họ cần đạn, Ken tất nhiên chẳng cần nữa rồi.
Cô lấy ra hai băng đạn 9 ly và bỏ vào túi. Barry nhìn xuống kẻ đã giết chết Ken trong sự phẫn nộ và phân vân.
Anh không nghi ngờ gì rằng mình đang nhìn một trong số những kẻ ăn thịt người đã và đang săn lùng con mồi ở thành phố Raccoon. Quanh miệng nó là một lớp máu đỏ, móng tay nó thì dính máu, áo sơmi đầy máu khô. Điều lạ là việc nó trông chết chóc như thế nào.
Barry đã một lần tham gia cuộc giải thoát con tin ở Ecuador, nơi một nhóm những nông dân bị một nhóm quân du kích nổi loạn bắt giữ trong nhiều tuần. Nhiều con tin đã bị giết trong cuộc tấn công, và sau khi S.T.A.R.S. đã bắt gọn đám nổi loạn, Barry đi cùng với một trong số những người sống sót để ghi nhận số tử vong. Bốn nạn nhân bị bắn, thi thể bị tống ra phía sau cái lán gỗ bọn nổi loạn đã chiếm đóng. Sau ba tuần dưới cái nắng miền Nam Mỹ, da trên mặt họ co lại, những mảng thịt rạn nứt tách rời ra khỏi gân và xương. Anh vẫn còn nhớ rõ những khuôn mặt ấy, và giờ đây lại thấy nó trên gương mặt thứ sinh vật đã ngã xuống này. Nó mang gương mặt của cái chết.
Bên cạnh đó, nó bốc mùi như lò sát sinh vào ngày nắng nóng vậy. Đáng lẽ người ta phải nói với cái thây này là người chết không nên đi lung tung.
Anh có thể thấy sự ghê tởm và bối rối trên gương mặt Jill, trong đôi mắt cô cũng có cùng câu hỏi như anh, nhưng bây giờ chẳng có câu trả lời nào cả, họ phải tìm Chris và tụ tập lại.
Họ quay trở lại hành lang và kiểm tra ba cánh cửa, xoay tay nắm và đẩy những khung cửa gỗ chắc chắn. Tất cả đều bị khóa chặt. Nhưng Chris đã đi qua một trong chúng, ngoài ra không có nơi nào cậu ta có thể biến đi cả.
Điều đó chẳng hợp lý chút nào, ngoại trừ việc phá cửa thì họ chẳng làm được gì nữa.
“Chúng ta nên báo cáo việc này với Wesker”, Jill nói, và Barry đồng ý. Nếu họ đã lạc vào hang ổ của bọn giết người, họ cần một phương án tấn công.
Họ chạy ngược lại ngang qua phòng ăn, mùi cũ kỹ tạm xua đi mùi máu tanh và thối rữa ở hành lang. Họ nhanh chóng bước qua cánh cửa dẫn đến đại sảnh, Barry tự hỏi không biết đội trưởng sẽ làm gì để đối phó với việc này đây. Điều đó là lẽ tất nhiên thôi. Barry dừng lại, tìm kiếm xung quanh cái sảnh trống không, thanh nhã và cảm thấy một trò đùa chẳng vui chút nào.
Wesker không có ở đó.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.