Về phần Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối không phát biểu ý kiến.
Bọn họ không nghiêng về bên nào, cũng không tham gia vào hàng ngũ tranh cãi.
Lấy xuất thân mà nói, hai người Phòng Đỗ đều sinh ra trong dòng dõi thư
hương, là đệ tử Nho gia chính thống. Tuy nhiên bọn họ không cứng nhắc
như phần lớn các học tử Nho gia khác, hiểu được biến báo. Ví dụ như trị
quốc, hai người đều là anh kiệt đương đại, thân mang hùng tài, khi xử lý chính vụ, từ lâu phát giác tri thức Nho gia thông thường căn bản không
đủ để xử lý rất nhiều chuyện trong thiên hạ, linh hoạt biến báo lấy cờ
hiệu Nho gia, lấy thủ đoạn Pháp gia xử lý. Đối với tranh chấp Phật Nho
này, bọn họ giữ thái độ trung lập.
Lý Thế Dân trước kia cũng có
suy nghĩ như vậy, so với các đế vương tầm thường, tư tưởng của hắn khai
sáng hơn nhiều. Hắn cũng không như Tần hoàng Hán Võ, lấy học thuyết trói buộc tư tưởng, đạt được mục đích khống chế bách tính, phương thức của
hắn có khuynh hướng nghiêng về tư tưởng “Vô vi nhi trị” thời kỳ sơ Hán,
nhà nước không can thiệp vào cuộc sống của người dân. Bách tính thích
cái gì, để cho bọn họ tự do lựa chọn.
Cũng vì như vậy, Đại Đường mới có bầu không khí văn hóa trong sáng như ngọc.
Lý Thế Dân cũng không ghét hòa thượng. Trong ấn tượng của hắn, một đám hòa thượng còn từng giúp hắn một tay trong quân sự, đó là chuyện xảy ra khi hắn đánh Vương Thế Sung.
Mùa xuân năm Võ Đức thứ tư, lúc đó Lý
Thế Dân chiến công đốc quân tác chiến với Vương Thế Sung. Vương Thế Sung cũng được xem là loạn thế kiêu hùng, nhưng so với Lý Thế Dân thì hoàn
toàn không bằng. Chỉ trong hai tháng, Vương Thế Sung đã thất bại thảm
bại, thế nhưng vì Đậu Kiến Đức suất binh tiếp viện, chiến cuộc tạm thời
trở nên phức tạp. Chiến trường lúc đó chủ yếu ở gần Lạc Dương, ở giữa
Lạc Dương và Thiếu Lâm Tự có một ngôi chùa được Tùy Văn Đế ban cho Thiếu Lâm Tự, ở phía tây bắc của chùa năm mươi dặm, địa thế hiểm yếu, là khu
vực binh gia nhất định giao tranh. Vương Thế Sung chiếm cứ làm của
riêng, biến thành cứ điểm quân sự, để cháu trai là Vương Nhân Tắc trú
đóng, còn mình dẫn binh đóng ở Lạc Dương cách đó không xa, tiện lợi hô
ứng cho nhau, chống cự Đường quân. Thiếu Lâm Tự làm sao cam tâm để gia
viên bị chiếm lấy, ngày 27 tháng 4, hòa thượng Thiếu Lâm Tự liên hợp với thủ hạ của Vương Nhân Tắc là Hoàn châu tư mã Triệu Hiếu Tể, nội ứng
ngoại hợp, bắt được Vương Nhân Tắc giao cho Đường quân. Ba ngày sau, Lý
Thế Dân đã tiến hành ban thưởng một mảnh đất rộng 4000 mẫu, một cối
nghiền bằng sức nước.
Đây chính là chân tướng lịch sử của “Mười
ba côn tăng cứu Đường vương”. Không có đao quang kiếm ảnh, không có máu
chảy đầu rơi, không có mỹ nữ ái tình, tin rằng không ai ngờ rằng một câu chuyện lịch sử vô cùng đơn giản như vậy, sau này lại được hậu thế thổi
thành sự tích “Mười ba côn tăng cứu Đường vương”.
Mặc dù đây là
công tích vô cùng nhỏ, nhưng Lý Thế Dân là người tương đối hoài niệm,
cũng không quên được, nhưng chuyện hôm nay lại khiến hắn tăng thêm ác
cảm với hòa thượng và Phật giáo, trong lòng cũng nổi lên ý niệm diệt
Phật, mà ý niệm này càng lúc càng thêm hiện rõ trong đầu.
Ngụy
Chinh cương trực, chính trực vô tư, nhưng nếu nghĩ hắn là một người
thành thật hiền lành thì nhầm to. Chỉ có người quen biết Ngụy Chinh mới
biết được, con người này mặt thiện tâm đen, hắn đã không làm chuyện xấu
thì thôi, nếu đã làm sẽ làm cho đến cùng.
Ngụy Chinh là người từ
trước đến nay không chủ chiến, diệt sạch chủng tộc, không chỉ giết sạch
người Đột Quyết, còn muốn hủy diệt đồng cỏ mà người thảo nguyên dựa vào
để sinh tồn, để cho bọn họ cả đời không thể xoay chuyện.
Kế sách
này ngay cả Lý Thế Dân cũng giật nảy mình, cuối cùng hắn quyết định
“Hưng diệt kế tuyệt”, cũng không tiếp thu kế sách của Ngụy Chinh.
Lúc này người thành thật lại âm thầm lộ ra răng nanh của mình.
Một khi trái tim của người hiền lành đã bị nhuộm đen, kết quả sẽ rất đáng sợ.
Ngụy Chinh muốn diệt Phật, cũng không có tư tâm, chỉ là kiến giải cá nhân.
Theo hắn thấy, trong Phật giáo có rất nhiều thứ hư vô mờ mịt, nhất là
cách nói luân hồi, càng là lời nói vô căn cứ, là luận điểm lừa gạt bách
tính, thuộc về tà ma ngoại đạo, đối với loại tà ma ngoại đạo này, nhất
định phải tiêu diệt tận gốc.
Hắn không chút khách khí đắc đạo:
- Bệ hạ, lý luận Phật gia đều là lời nói vô căn cứ lừa dối bách tính...
Bên trong xúi giục thế nhân chặt đứt thất tình lục dục, tứ đại giai
không, nhưng thực sự là vô cùng buồn cười. Thần có một bằng hữu...
Không, thần đã cắt dứt với hắn, hắn còn không có tư cách làm bằng hữu
của Ngụy Chinh. Người này từ trẻ đã có tài học, ở địa phương có thể xem
là tài tử có một không hai, người nhà hi vọng hắn có thể làm rạng rỡ tổ
tông. Mẫu thân ngày đêm làm lụng vất vả, để hắn học bài, thê tử cày cấy
ruộng đồng, nuôi hắn, chỉ mong nhìn thấy trượng phu có ngày thành đạt.
Nhưng khi trượng phu vào kinh đi thi, ở lại chùa miếu, bị hòa thượng lừa bịp, từ bỏ tất cả, xuất gia làm sư, vứt bỏ trần duyên. Kết quả lão nhân gia
nghe nói tin tức, tức chết ở nhà. Nhưng tên khốn khiếp đó cũng không
thèm để ý. Thê tử mang theo hài tử chưa tròn một tuổi, dọc đường nhai ăn xin, tìm đến chùa xin cầu kiến gặp mặt. Nhưng trượng phu vẫn né tránh
không gặp, luôn miệng nói mình đã chặt đứt tất cả tình duyên, nguyện cả
đời ở chùa. Hành vi như vậy có khác gì súc sinh?
Ngụy Chinh vô
cùng đau đớn, chuyện này cũng không phải hắn nói bừa, mà là chuyện có
thật. Trượng phu đó là hảo hữu đồng hương củ hắn, sau khi hắn biết tin,
lập tức tuyệt giao với trượng phu kia, đồng thời kêu người đưa lộ phí
sinh hoạt cho mẹ con nhà nọ.
Việc này Ngụy Chinh ghi nhớ trong lòng, cũng bởi vậy chán ghét Phật gia đến cực điểm.
Theo hắn thấy lý luận của Phật gia kêu một người vứt bỏ hiếu nghĩa thì chẳng khác nào súc sinh.
Hiện nay lại thấy các hòa thượng lấy tiền mồ hôi nước mắt của bách tính đi
tiêu xài lãng khí, càng khiến hắn chán ghét hơn, nghiêm nghị nói:
- Học thuyết Phật gia không chỉ lừa gạt đầu độc nhân tâm, còn chiếm dụng
vô số tài nguyên, ảnh hưởng đến phát triển của quốc gia. Vi thần đề
nghị, phá huỷ tất cả tượng phật, thu hồi tất cả ruộng đồng, để tất cả
tăng nhân hoàn tục. Tượng phật bị phá sẽ giảm bớt áp lực kinh tế, ruộng
đồng phân phát cho bách tính, trấn an dân tâm, tăng thêm sản lượng lương thực, về phần tăng nhân hoàn tục để bọn họ làm nghề nông cũng tốt,
thương nhân cũng được. Dù sao đi nữa đều có thể cống hiến cho Đại Đường
ta, tốt hơn làm hòa thượng gì đó rất nhiều.
Lý Thế Dân liếc nhìn
Ngụy Chinh, biết hắn đã hạ quyết tâm, cũng dị động theo, Đại Đường sắp
sửa nghênh đón Tiết Duyên Đà chinh phạt, về mặt tài lực có chút căng
thẳng, nếu phá hủy tất cả tượng phật trong cảnh nội Đại Đường sẽ tăng
thêm một phần thu nhập cho quốc gia.
Về phần thu hồi ruộng đồng, để tăng nhân hoàn tục cũng là hành động lợi quốc.
Chỉ có điều diệt phật đại quy mô như vậy có thể dẫn tới rung chuyển cho quốc gia hay không.
Đây là chuyện mà bậc đế vương phải suy nghĩ trước tiên.
Lý Thế Dân nhìn Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, dự định trưng cầu ý kiến của hai phụ tá đắc lực.
Nhưng hai người bọn họ cũng không có nhiều lý giải về Phật gia, cũng không thể đưa ra ý kiến hợp lý.
Nhưng Đỗ Như Hối lại khó hiểu nói một câu:
- Văn hóa há có thể nói diệt là diệt?
Đúng vào lúc này, ngoài điện truyền đến tin tức Đỗ Hà cầu kiến.
Lý Thế Dân chấn động tinh thần, vội vàng kêu người truyền Đỗ Hà tiến điện. Bọn họ cũng không hiểu tình huống chi tiết, chỉ là căn cứ vào tin tức
truyền đến bàn bạc thương nghị. Hắn vẫn muốn nghe Đỗ Hà kể xem chuyện
này rút cuộc như thế nào, sau khi tìm hiểu tình huống thật sự mới đưa ra quyết định.
Đỗ Hà ở ngoài điện, vừa lúc nghe được lời nói của
Ngụy Chinh cũng âm thầm líu lưỡi, không ngờ Ngụy Chinh lại là người âm
độc như vậy. Đề nghị của hắn không thể gọi là không đại khoái nhân tâm,
Đỗ Hà thật sự có tâm tình vỗ bàn trầm trồ khen ngợi. Nhưng sau đó nghe
phụ thân nói, hắn lại nhíu mày. Hắn biết phụ thân mình, luận về mưu lược có lẽ không bằng Phòng Huyền Linh, nhưng tầm nhìn đại cục lại hơn xa
rất nhiều người. Hắn sẽ không tùy tiện mở miệng, một khi mở miệng nhất
định là đưa ra đáp án phù hợp chân lý nhất.
Đỗ Hà tỉ mỉ đẽo gọt,
suy nghĩ hồi lâu mới minh bạch ý tứ của Đỗ Như Hối, trong lòng bội phục
ánh mắt nhìn xa trông rộng của phụ thân, cũng có quyết định.
Sau khi được triệu kiến, Đỗ Hà tiến vào trong điện.
Dưới câu hỏi của Lý Thế Dân, Đỗ Hà cũng kể lại tường tận mọi chuyện. Nhưng
đến vấn đề có liên quan đến Lý Thừa Càn, Đỗ Hà hầu như lướt qua không
nói, thỉnh thoảng đề cập đến cũng chỉ là nói qua. Lý Thế Dân đối đãi với hắn không tệ, Đỗ Hà cũng không định trước mặt bao nhiêu người nói xấu
nhi tử của hắn.
Nhưng không ai hiểu con bằng cha, cho dù Đỗ Hà
không đề cập tới, Lý Thế Dân lẽ nào không nhìn ra vấn đề? Sắc mặt hắn
cũng thoáng lộ vẻ khổ sở: làm người phụ mẫu, không ai không kỳ vọng vào
hài nhi của mình, cho dù biết rõ Lý Thừa Càn làm người như thế nào,
nhưng trong đáy lòng vẫn không thể nảy sinh chờ đợi, hi vọng hài tử có
thể sửa đổi.
Nhưng biểu hiện của Lý Thừa Càn là xác minh chân
chính cho một câu ngạn ngữ, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, kỳ vọng
càng lớn, thất vọng cũng lại càng lớn.