Độc Bộ Thiên Hạ - Thanh Xuyên Hoàng Thái Cực

Chương 39: Trưởng thành




Cuối tháng sáu, cả hoàng cung bắt đầu vào giai đoạn tu sửa, nghe nói đám người Hoàng Thái Cực và Phạm Văn Trình đang thương lượng, muốn phỏng theo Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh để đặt tên cho các điện, đến lúc đó trên đầu mỗi điện đều phải treo biển tên.
Trong giai đoạn này, việc luyện võ đã chạy bắt đầu chạy nước rút, hơn nữa tôi sớm bày tỏ bản thân không muốn làm chủ hậu cung, nên mấy chuyện trang hoàng chỉnh đốn gì đó đều sẵn lòng giao hết cho Triết Triết bỏ công ra lo.
Triết Triết có được lợi rồi thì mắt nhắm mắt mở không quan tâm chuyện tôi thường rời cung, mọi người đều sống yên ổn với nhau, ai cũng đã có thứ mình cần, hoà thuận vui vẻ.
Hôm đó sau khi ngủ trưa dậy, tôi lười biếng nằm dựa trên giường lau bội đao. Ô Ương đi vào giúp tôi dọn dẹp phòng, bỗng không đầu không đuôi hỏi một câu: “Ngày mai chủ tử tính mặc bộ đồ nào vậy? Em thấy màu sắc của bộ mới may mấy hôm trước quá xuề xoà…”.
“Hả?”. Tôi không hiểu gì cả.
Ô Ương nhìn tôi đầy kỳ quặc, qua một lát liền từ từ há hốc mồm: “Lẽ nào… chủ tử ngày không hề hay biết gì sao?”.
“Ta cần phải biết gì hả?”.
“Ngày mai là điển lễ sắc phong cho Phúc tấn trong Hậu cung đó!”.
“À”. Tôi thờ ơ đáp lời, qua ba bốn giây sau lại đột nhiên nghĩ đến lời của Tế Nhĩ Cáp Lãng vào hôm qua lúc tạm biệt, kể từ ngày mai trở đi tôi sẽ bận đến không rút người nổi.
Lẽ nào là chỉ cái này à?
“Mặc đại đi, ta nhớ rõ hình như ta còn có bộ màu đỏ thẫm nữa…”.
“Không được đâu, chủ tử”. Ô Ương kiên nhẫn giải thích, “Ngày mai là đại điển phong hậu mà ngài lại tính mặc đồ cũ sao?”.
Tôi gật đầu lờ đi, không thèm để ý tới vẻ oán giận của Ô Ương. Gần đây bận rộn đến nhức cả đầu, vốn chẳng có thì giờ hỏi mấy chuyện nhỏ nhặt trong hậu cung. Có điều Hoàng Thái Cực cũng thật là, dù gì cũng nên thông báo với tôi trước một tiếng chứ, nhỡ như sáng mai tôi lại ngơ ngác ra khỏi cung thì chẳng biết làm sao cho phải đây?
Vì thế muốn chờ đến tối khi Hoàng Thái Cực trở lại sẽ bắt đầu “khởi binh hỏi tội” cho một trận mới được, nhưng ai ngờ chàng lại ở miệt trong thư phòng chỗ lầu Tường Phượng suốt cả đêm không về.
Ngày thứ hai, mồng mười tháng bảy là ngày tốt, từ rất sớm tôi đã bị Ô Ương đánh thức, rửa mặt chải đầu xong xuôi, vẫn chọn bộ kiếp bào loan phượng màu đỏ thẫm không mới không cũ đó, mới vừa mặc vào vẫn chưa kịp soi gương thì ngoài cửa đã vang lên tiếng cười của Na Mộc Chung.
“Ôi chà, sửa soạn còn đẹp hơn cả cô dâu nữa!”. Trang phục của cô nàng rất đơn giản, trên người là trường bào màu lam nhạt, bên ngoài là áo trấn thủ với viền màu xanh ngọc. Nước da cô nàng vốn rám nắng, nhưng so với cô nàng thì tôi đây như vừa từ xích đạo chạy về.
Nếu dáng vẻ này đẹp thì tôi cũng không tìm thấy cái gì xấu.
Không lâu sau liền cùng Na Mộc Chung ra ngoài, chỉ thấy trong sân đã có rất nhiều phi tử, xưa nay tôi ít kết giao với bọn họ, trong đám người ấy có thể đọc ra tên chứ chẳng hiểu tính cách ra sao.
Bố Mộc Bố Thái mặc một bộ kiếp màu hồng đào, trên vạt áo có thêu chim phượng bằng tơ vàng rất bắt mắt, càng tôn lên nước da nhẵn nhụi, trắng noãn của cô ta.
“Bộ đồ này của Tây cung Phúc tấn hẳn là tốn rất nhiều công sức!”. Na Mộc Chung tấm tắc khen ngợi.
Bố Mộc Bố Thái cười trừ không đáp.
Nhan Trát thị ở bên cười nói: “Đó là vì a hoàn của cô ấy khéo tay, trong cung mà nói đến may vá e là không ai có thể bì được Tô Mặc Nhĩ đâu…”. Tôi tiến lên hai bước, Nhan Trát thị đang nói, ánh mắt liền liếc qua tôi, che miệng cười khẽ, “À, Ô Ương của Phúc tấn cũng không tồi”.
Tôi nhìn một vòng toàn quần là áo lượt sặc sỡ màu sắc bèn nghĩ về mấy bộ đồng phục công nhân trong công ti lúc trước, không khỏi cười xấu xa, nói: “Nếu Tô Mặc Nhĩ có năng lực này, chi bằng để cô ta lo đi, giúp chúng ta chế ra một bộ lễ phục thống nhất đi”.
“Nô tài không dám làm bậy! Nô tài vụng về ngu dốt, làm cho Phúc tấn chê cười!”. Âm thanh réo rắt vang lên như nước suối trong núi.
“Không dám không dám…”. Trước giờ tôi đều biết rõ Tô Mặc Nhĩ vốn thông minh, chăm chỉ hiếu học, sáng dạ và khéo tay thì không nói, đằng này về mặt đối xử với cấp trên đương nhiên cũng rất đúng đắn, hoàn toàn không có vẻ a dua nịnh hót đầy gượng ép như cung nữ tầm thường.
Tôi có chút ấn tượng tốt với cô a hoàn đó, chỉ tiếc cô ta là a hoàn hồi môn của Bố Mộc Bố Thái, coi như là thân tín của Bố Mộc Bố Thái.
Lúc này Triết Triết không có ở hậu cung cho nên trong đám phụ nữ ríu rít này, nói về thân phận cùng cấp bậc, đương nhiên là Tây cung Bố Mộc Bố Thái cao nhất.
Dưới sự dẫn dắt của quan lễ nghi, đám người chúng tôi bị chia ra xếp làm hai hàng, do tôi với Bố Mộc Bố Thái dẫn đầu, chậm rãi tiến vào điện Kim Loan.
Trước khi vào điện sẽ phải chờ trước cửa, tôi rảnh rỗi nhàm chán nên nhìn ra chung quanh một lát, lại trông thấy trên đầu cửa mới treo một tấm biển rực rỡ sắc vàng, ba chữ “Điện Sùng Chính” được viết bằng cả chữ Mãn và chữ Hán to đùng, chữ Mãn bên trái, chữ Hán bên phải.
Trong giây lát, tiếng nhạc vang lên, chư vị Hoà Thạc Thân vương, Đa La Quận vương, Cố Sơn Bối Tử*, quan viên văn võ đều chia ra hai hàng trái phải từ bên hông đại điện tiến vào.
*Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), dựa theo chín tước bậc của Vương công để phong cho tôn thất, Cố Sơn Bối Tử là tước thứ tư.
Âm thanh to rõ của quan xướng lễ cất lên: “Mời chư vị Phúc tấn vào điện!”.
Bố Mộc Bố Thái thoáng dừng, ánh mắt ra hiệu để tôi đi trước, tôi gật đầu mỉm cười, cũng không khách khí liền khoan thai đi vào.
Vào tới trong điện, đã thấy mùi nhang khói lượn lờ trước cột rồng uốn lượn, trên đại sảnh đặt một chiếc bàn dài bằng gỗ đàn, Triết Triết mặc quần áo lộng lẫy, trang sức rực rỡ đầy nhã nhặn, điềm tĩnh quỳ sau bàn.
Hoàng Thái Cực ngồi chỉnh tề trên xe rồng, khi ánh mắt dừng lại trên người tôi liền xao động, thân trên hơi nghiêng, đang muốn đứng lên.
“Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”. Chúng thần quỳ rạp xuống thực hiện đại lễ ba quỳ chín khấu. Tôi liếc trái liếc phải, thấy đám người Bố Mộc Bố Thái cũng đã quỳ xuống bèn vội vã nhấc góc áo bào muốn quỳ theo.
“Nàng đứng đi!”. Hoàng Thái Cực từ xe rồng đứng dậy, tiến lên trước hai bước, từ trên cao đưa tay chỉ xuống chỗ tôi.
Văn võ cả triều đều sửng sốt, ai cũng ném ánh mắt đầy hoang mang vào tôi và Hoàng Thái Cực, ngay cả Triết Triết cũng không rõ nguyên do quay đầu nhìn về phía tôi.
Hoàng Thái Cực nhíu chặt mày, vẻ mặt chán nản cùng không vui.
Đối diện với ánh mắt quái dị của mọi người, tôi bắt đầu cảm thấy không yên.
“Nàng đứng bên này đi!”. Hoàng Thái Cực thuận tay chỉ.
Liếc mắt nhìn theo hướng ngón tay chàng, vị trí mà chàng chỉ là chỗ đứng của Hoà Thạc Trịnh thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng. Tôi sửng sốt, vẻ mặt Tế Nhĩ Cáp Lãng điềm tĩnh, trong mắt chứa sự cổ vũ, vì thế liền đáp lời: “Tuân chỉ!”. Nói rồi bước nhanh đến bên cạnh Tế Nhĩ Cáp Lãng, đứng dựa vào cột rồng uốn lượn.
Dựa vào góc độ tôi đang đứng có thể thấy trông thấy khuôn mặt chính diện của Triết Triết, hai vai cô nàng rũ xuống, hai tay không yên hơi nắm lại, trên cái bàn trước mặt có đặt hai cái mâm được lót tơ lụa màu vàng, khay bên trái đựng một khối Ngọc tỷ, còn khay bên phải đựng một tập công văn.
Hoàng Thái Cực liếc nhìn tôi, tựa như nhẹ thở ra, phất tay ý bảo Quan lễ chúc hãy tiếp tục.
“Phụng thiên thừa vận, Khoan Ôn Nhân Thánh Hãn chế viết: Nhận lệnh trời đất mà đến, đã có Hãn chủ cai trị một đời thì ắt cần phải có một Phúc tấn thân cận xứng đôi cùng giúp đỡ triều chính, đôi lứa song hành, cùng lập công đức, hưởng chung phú quý, đây là quy luật xưa nay. Hết lòng tuân thủ tam cương ngũ thường, đó là đại điển do các Hãn xưa định ra. Nay ta đã ngồi trên ngai vàng, dựa theo các Hãn xưa mà làm đại điển. Lại được trời phù hộ, có thể gặp được Phúc tấn, nàng là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Triết Triết thuộc bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm của Mông Cổ, đặc biệt ban thưởng sách bảo cho nàng, địa vị vượt trên các Phúc tấn còn lại, mệnh cho làm Thanh Trữ Trung Cung Quốc Quân Phúc Tấn. Nàng hãy đối xử thanh liêm, đoan trang, nhân từ và khiêm tốn với các Phúc tấn còn lại, phải dùng những chuẩn mực hiền đức của mình để khiến phụ nữ thiên hạ làm theo. Chớ làm trái ý nguyện của ta”.
Quan lễ chúc dùng tiếng Mãn đọc một lần, lại dùng tiếng Mông đọc thêm một lần, sau mới dùng tiếng Hán đọc lại lần cuối. Trong tiếng Mãn xưng là “Quốc Quân Phúc tấn”, tới tiếng Hán lại gọi thành “Hoàng hậu”.
“Nô tài tuân chỉ! Vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế!”. Triết Triết cung kính thực hiện đại lễ ba quỳ chín khấu.
“Quốc quân Phúc tấn miễn lễ!”. Quan lễ chúc cất lời, bưng cái khay lên giao lại cho hai nữ quan, sau khi nữ quan quỳ nhận thì chuyển vào trong tay Triết Triết.
Hai tay Triết Triết vươn ra cầm chặt cái khay được dâng lên tay, tôi thấy hai má đỏ ửng của cô nàng đang che giấu vẻ kích động và căng thẳng của mình, đáng tiếc không khống chế được hết cảm xúc, ngón tay hơi run rẩy đã bộc lộ hết nội tâm của cô nàng.
“Phụng thiên thừa vận, Khoan Ôn Nhân Thánh Hãn chế viết: Nhận lệnh trời đất mà đến, đã có Hãn chủ cai trị một đời thì trời tất ban Phúc tấn đến bên tương trợ. Sau khi Hãn ngự trị tối cao, đặt tôn hiệu cho các Phúc tấn, đó chính là đại điển do các Hãn xưa đã định ra. Nay ta đã ngồi trên ngai vàng, dựa theo các Hãn xưa mà làm đại điển. Ta gặp được Phúc tấn, nàng là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Cáp Nhật Châu Lạp thuộc bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm của Mông Cổ, đặc biệt ban thưởng sách văn cho nàng, mệnh làm Đông cung Quan Thư cung Đại Phúc tấn Thần phi. Nàng phải biết thanh liêm, đoan trang, nhân từ và khiêm tốn, nghe theo lời chỉ dạy của Quốc quân Phúc tấn. Chớ làm trái ý nguyện của ta”.
Tâm tư của tôi vốn đang đặt trên người Triết Triết, đột nhiên Quan lễ chúc cao giọng tuyên đọc như thế, doạ cho tôi sửng sốt.
“Quan Thư cung Đại Phúc tấn Thần phi lĩnh chỉ tạ ơn!”. Quan lễ chúc lại nhắc nhở tôi.
Tim tôi đập rộn ràng, xấu hổ mỉm cười, đang muốn đi đến đứng phía sau Triết Triết thì Hoàng Thái Cực ở trên bục lại trầm giọng chỉ trỏ: “Nàng không cần đi, khỏi cần tạ ơn”. Lại xoay tay chỉ về phía Quan lễ chúc, “Ngươi tiếp tục đi…”.
Trong chốc lát, hoàng thân quốc thích cả triều đều nhìn tôi với ánh mắt khác thường.
“Phụng thiên thừa vận, Khoan Ôn Nhân Thánh Hãn chế viết: Nhận lệnh trời đất mà đến, đã có Hãn chủ cai trị một đời thì trời tất ban Phúc tấn đến bên tương trợ. Sau khi Hãn ngự trị tối cao, đặt tôn hiệu cho các Phúc tấn, đó chính là đại điển do các Hãn xưa đã định ra. Nay ta đã ngồi trên ngai vàng, dựa theo các Hãn xưa mà làm đại điển. Ta gặp được Phúc tấn, nàng là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Na Mộc Chung thuộc bộ lạc A Lỗ Đại Thổ Môn của Mông Cổ, đặc biệt ban thưởng sách văn cho nàng, mệnh làm Tây cung Lân Chỉ cung Đại Phúc tấn Quý phi. Nàng phải biết thanh liêm, đoan trang, nhân từ và khiêm tốn, nghe theo lời chỉ dạy của Quốc quân Phúc tấn. Chớ làm trái ý nguyện của ta”.
“Phụng thiên thừa vận, Khoan Ôn Nhân Thánh Hãn chế viết: Nhận lệnh trời đất mà đến, đã có Hãn chủ cai trị một đời thì trời tất ban Phúc tấn đến bên tương trợ. Sau khi Hãn ngự trị tối cao, đặt tôn hiệu cho các Phúc tấn, đó chính là đại điển do các Hãn xưa đã định ra. Nay ta đã ngồi trên ngai vàng, dựa theo các Hãn xưa mà làm đại điển. Ta gặp được Phúc tấn, nàng là con gái của Tháp Bố Nang A Ba Cái Bác Đệ Tái Sở Hổ Nhĩ thuộc bộ lạc A Lỗ Đậu Thổ Môn của Mông Cổ, đặc biệt ban thưởng sách văn cho nàng, mệnh làm Đông cung Diễn Khánh cung Trắc Phúc tấn Thục phi. Nàng phải biết thanh liêm, đoan trang, nhân từ và khiêm tốn, nghe theo lời chỉ dạy của Quốc quân Phúc tấn. Chớ làm trái ý nguyện của ta”.
“Phụng thiên thừa vận, Khoan Ôn Nhân Thánh Hãn chế viết: Nhận lệnh trời đất mà đến, đã có Hãn chủ cai trị một đời thì trời tất ban Phúc tấn đến bên tương trợ. Sau khi Hãn ngự trị tối cao, đặt tôn hiệu cho các Phúc tấn, đó chính là đại điển do các Hãn xưa đã định ra. Nay ta đã ngồi trên ngai vàng, dựa theo các Hãn xưa mà làm đại điển. Ta gặp được Phúc tấn, nàng là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Bố Mộc Bố Thái, đặc biệt ban thưởng sách văn cho nàng, mệnh làm Tây cung Vĩnh Phúc cung Trắc Phúc tấn Trang phi. Nàng phải biết thanh liêm, đoan trang, nhân từ và khiêm tốn, nghe theo lời chỉ dạy của Quốc quân Phúc tấn. Chớ làm trái ý nguyện của ta”.
Từng lời ý chỉ hạ xuống, ba người Na Mộc Chung, Ba Đặc Mã Tảo và Bố Mộc Bố Thái lần lượt theo thứ tự nhận lấy sách văn trong tay Quan lễ chúc, sau đó dựa theo phân vị cao thấp đứng phía sau Triết Triết, bốn người bao gồm mấy Tiểu Phúc tấn trong hậu cung đồng loạt thực hiện đại lễ ba quỳ chín khấu với Hoàng Thái Cực.
Không qua bao lâu cũng xong lễ, Hoàng Thái Cực chậm rãi bước xuống bậc thang đi hướng ra bên ngoài, Triết Triết theo sau cách chàng nửa bước, tay bưng Ngọc tỷ cùng với công văn sắc phong Hoàng hậu, rập khuôn bước đi.
Lúc sau, đến lượt Na Mộc Chung, Ba Đặc Mã Tảo và Bố Mộc Bố Thái cũng theo sát phía sau chàng, cùng nhau nối đuôi rời đi.
Tôi đứng tại chỗ không biết nên tiến hay lùi, mắt thấy đại thần văn võ đều rời khỏi điện Sùng Chính, thế là trầm ngâm nghĩ ngợi, hỏi: “Theo quy củ thì ta nên đi hay ở lại đây nhỉ?”.
Đã một lúc lâu mà người bên cạnh không đáp lại, tôi bỗng quay đầu, ngạc nhiên khi thấy Tế Nhĩ Cáp Lãng đã sớm mất tăm hơi, người đang đứng ở vị trí ban đầu không biết khi nào đã đổi thành Đa Nhĩ Cổn.
Tôi mở to mắt, vẻ mặt quái gở.
“Hoàng thượng dựa theo chế độ của người Hán, đáng tiếc là ta vẫn chưa quen mấy thứ đó của người Hán lắm”. Hắn áp sát tôi, bỗng cười rộ lên: “Có điều… trong đại điển sắc phong lại để cho một người phụ nữ duy nhất không cần quỳ, không biết nàng có được coi là một ngoại lệ từ trước đến giờ không nhỉ?”.
Tôi thật không muốn vướng thêm nhiều rắc rối với hắn, lại ngó xung quanh đại điện thấy mọi người đều đã đi hết bèn vội vàng hất tay áo đi nhanh ra ngoài, ai dè vừa mới nhấc chân lên, cổ tay trái đã bị hắn nắm chặt.
“Làm gì vậy hả?”. Tôi thấp giọng nói, liền rút tay ra, nhưng hắn nắm chặt quá làm tôi không thể như ý nguyện. “Xin Duệ thân vương hãy tự trọng!”.
“Tự trọng?”. Hắn cười tươi.
Chẳng hiểu sao lòng tôi lại phát lạnh, vì sao vẻ mặt hắn tuy là đang cười đấy, nhưng tôi lại chẳng hề cảm thấy có ý tốt gì?
“Bỏ tay ra!”. Tôi hoảng loạn, tay phải nhắm ngay mặt hắn tát một cái.
Hắn hơi nghiêng đầu né tranh, tôi bèn thuận thế nhấc chân đá vô đầu gối hắn, nhưng ai ngờ hắn đã rút gối lại, đồng thời tay phải hơi vặn.
Tôi đau đớn hô lên, trong chốc lát, cánh tay trái đã bị hắn trói ra sau lưng, đau đớn không thôi.
Tay phải Đa Nhĩ Cổn vặn cánh tay tôi, đột nhiên vòng tay trái ra trước dùng sức ôm sát người tôi. Ngực hắn áp sát vào lưng tôi khiến tôi có thể cảm nhận được nhịp tim có tiết tấu của hắn, không qua lâu sau, bên tai trái lại vang lên tiếng cười kỳ quái: “Chị dâu thật là tàn nhẫn quá!”.
Tôi ngọ ngoạy mấy cái nhưng hoàn toàn chẳng xi nhê gì, không khỏi bực bội, cáu giận nói: “Ngươi muốn phạm thượng hay gì?”.
Đa Nhĩ Cổn không đáp lời: “Đây là thành quả do Tế Nhĩ Cáp Lãng bỏ một tháng ra dạy à?”. Hắn cười lạnh, hơi thở phả lên đỉnh đầu tôi, “Muốn học cưỡi ngựa, bắn cung hay đao kiếm gì đó sao lại không tới tìm thẳng ta mà đi tìm huynh ấy? Nói về kinh nghiệm hành quân đánh giặc, huynh ấy làm sao lợi hại hơn ta được?”.
Tôi đau đến túa mồ hôi lạnh, nào có thời giờ đi dò hiểu ý tứ trong lời hắn, chỉ đành kêu lên: “Quý ngài Duệ thân vương vô cùng bận rộn, ta không dám làm phiền đến ngài…”.
“Vậy thì kể từ ngày mai ta sẽ rất rảnh”.
Hắn buông tay, tôi xoa bóp cánh tay tê dại, hung tợn trừng mắt với hắn: “Ngại quá đi, ngày mai trở đi ta sẽ bắt đầu bận trăm công ngàn việc rồi”.
“Bận cái gì? Bận làm Đại Phúc tấn Thần phi hả?”. Hắn lạnh lùng cười, vẻ mặt đầy khó hiểu, “Nàng tuyệt đối không bận được…”.
Tôi lười đấu võ mồm với hắn, tìm khoảng trống rồi xoay người chạy khỏi điện Sùng Chính, ba chân bốn cẳng đầy chật vật chạy về phía hậu cung.
Đa Nhĩ Cổn coi như còn có chút kiêng kị nên không đuổi theo, đến khi tôi thở hổn hển lao vào lầu Tường Phượng, khi vào bên trong đã thấy khắp sân đều là người ta đang quỳ.
Tôi không biết làm sao thế là ngây người ra tại chỗ, trố mắt nhìn đám Phúc tấn sau làm lễ ba quỳ chín khấu với Hoàng Thái Cực và Triết Triết thì đều đứng dậy. Hoàng Thái Cực không tỏ vẻ gì, đứng trên bậc thang Trung cung gật đầu, sau đó bỏ lại đám thê thiếp rồi đi về phía lầu Tường Phượng, theo sát ở sau là đoàn hộ tống nghi trượng.
Vào lúc chạm ánh mắt với tôi, chàng đột nhiên thấp giọng ném lại một câu: “Tuy rằng nàng không thấy hứng thú, nhưng thứ gì cần cho ta đều sẽ cho nàng…”.
Lòng tôi đầy ấm áp.
Nghiêng đầu nhìn về khu phòng ở phía Đông Trung cung ấy, trên đầu cửa đã được treo một tấm biển, ba chữ “Quan Thư cung” to lớn và rực rỡ sắc vàng như ánh mặt trời dịu dàng sưởi ấm lòng tôi.
Mồng mười tháng bảy hôm đó, Hoàng Thái Cực đã sắc phong một hậu bốn phi, Trung cung chỗ Triết Triết ở được ban tên là “Thanh Trữ cung”, chỗ ở của tôi lúc đầu được ban tên là “Vĩnh Phúc cung”, dọn ra nhường chỗ lại cho Bố Mộc Bố Thái ở, chỗ Bố Mộc Bố Thái ở trước đó thì được ban tên là “Lân Chỉ cung” và nhường lại cho Na Mộc Chung ở. Dựa theo vị trí và phương hướng của bốn toà cung điện này mà bốn người chúng tôi bị chia ra gọi tắt là Đông Đại Phúc tấn, Tây Đại Phúc tấn, Đông Trắc Phúc tấn và Tây Trắc Phúc tấn.
Trừ lần đó ra, Hoàng Thái Cực còn đặt tên cho cửa chính Nam cung là “Đại Thanh môn”, điện Bát giác được đặt tên là “Đốc cung điện”…
Đại Thanh dựa theo nhà Minh, ngoài việc định quy chế hậu phi là “một hậu bốn phi” ra thì còn định thêm quy chế Công chúa, quy định rằng, con gái do Hoàng hậu sinh ra được gọi là “Cố Luân Công chúa”, con gái do phi tử sinh ra và con gái nuôi của Hoàng hậu sẽ được gọi là “Hoà Thạc Công chúa”.
Có điều, trước đó ai cũng không lường trước được rằng Bố Mộc Bố Thái sẽ bị rớt xuống hai cấp, danh phận lại xếp sau Na Mộc Chung và Mã Tảo!
Hoàng Thái Cực sắp xếp như thế rõ ràng là cố ý! Cùng lúc có thể áp chế vẻ kiêu ngạo của Triết Triết khi làm hậu, cùng lúc nâng uy tín của Sát Cáp Nhĩ Phúc tấn lên, do đó có thể khiến thế lực hậu cung được cân đối.
Ai cũng không chiếm được lợi của ai!
Sau khi Triết Triết lên làm hậu, vinh quang của Na Mộc Chung và Ba Đặc Mã Tảo cũng được thăng lên, vì thế nhất định phải giáng cấp bậc của Bố Mộc Bố Thái.
Giữa ba người thăng cấp một người xuống cấp, ẩn tình sâu xa chẳng cần nói ai cũng biết.
Tiết trời đêm thu đã có chút se lạnh, chỉ là trong phòng vẫn chưa đến lúc dùng giường lò, tôi có hơi sợ lạnh bèn rút vào trong lòng chàng, không chịu được cụp mí mắt.
Một tay Hoàng Thái Cực ôm chặt tôi, tay còn lại khẽ đặt bút.
“Ơ, sổ gấp đã phê hết chưa?”. Cả người ngồi trên đùi chàng của tôi thoáng run lên, mệt mỏi ngáp một cái.
Chàng kê cằm lên đỉnh đầu tôi, cười khẽ: “Khoan hẵng ngủ vội, ta có cái này cho nàng”.
Tôi gắng gượng mở hai mắt, buồn ngủ hỏi: “Cái gì vậy?”.
Chàng cười không đáp, thận trọng giao vào tay tôi một quyển sổ da vàng.
Trọng lượng không nhe, cầm trong tay cảm thấy nặng trình trịch. Tôi tiện tay mở ra, trang vải vô cùng dài, ước chừng khoảng hai thước, trên lụa vàng dày đặc các chữ. Tôi gượng mở to mắt nhận mặt, nhưng tầm mắt đã sớm mơ màng, đọc vô cùng khổ sở.
Chữ viết ngang dài, từ trái qua phải viết tổng cộng ba loại chữ, một là chữ Mãn, một là chữ Mông Cổ và cuối cùng là chữ Hán.
Tôi bỏ qua hai loại trước, trực tiếp đọc phần viết bằng chữ Hán: “Phụng thiên thừa vận, Khoan Ôn Nhân Thánh Hoàng đế chế viết: Từ thuở khai thiên lập địa đến nay, người cai trị nắm được vận may, tất có đông thiếp. Tuy nhiên, ban sắc mệnh để định ra danh phận, thật là việc mà một thánh đế minh vương coi trọng. Tư Nhĩ Hải Lan Châu là người con gái của Khuếch Nhĩ Thấm thuộc Mông Cổ, dịu dàng đức hạnh, thận trọng liêm khiết. Nay trẫm đăng cơ, bèn phỏng theo quy chế cổ xưa, sắc phong nàng thành Quan Thư cung Thần phi. Mồng mười tháng bảy Sùng Đức nguyên niên”.
Lòng tôi run lên, đây là sách văn!
Ban ngày lúc ở điện Sùng Chính tôi có nghe tuyên đọc, nhưng nó không có giao vào tay tôi, hẳn đây chính là thứ ấy.
“Phần chữ Hán này là do Phạm Chương kinh viết sao?”.
“Nàng đoán đúng rồi”.
Tôi mỉm cười chỉ vào ba chữ “Hải Lan Châu” trong sách văn nói: “So với Cáp Nhật Châu Lạp thì em thích cái tên tiếng Hán này hơn, đẹp lắm…”.
“Cáp Nhật Châu Lạp” chính là tiếng Mông, phát âm chuẩn là Harjol, nay Phạm Văn trình có thế dùng âm tiết ấy để tưởng tượng nên cái tên “Hải Lan Châu” giàu ý thơ này thật sự đi sâu vào lòng tôi rồi.
Hoàng Thái Cực nghẹn họng: “Lẽ nào nàng chỉ nhìn thấy ba chữ ‘Hải Lan Châu’ thôi à?”.
“Hả, còn có gì khác ư?”. Tôi cố ý trêu đùa chàng, “Có phải là còn thiếu Ngọc tỷ không? Cái trong tay Triết Triết hồi sáng rất đẹp đó”.
Thật ra trí nhớ của tôi tương đối tốt, phần sách văn trong tay tôi, ngoại trừ phần chữ Hán và chữ Mãn khi người phiên dịch đọc vào ban ngày ra thì còn có sự khác biệt, vẫn nhớ rõ trong sách văn của mấy người Na Mộc Chung đó thì còn có thêm một lời giáo huấn nữa là “Cẩn thận nghe theo lời dạy bảo của Hoàng hậu, chớ làm trái ý nguyện của trẫm”..
“Vốn phải là của nàng, mà nàng không cần đấy thôi, bây giờ lại đến đòi ta”.
“Đúng vậy, thì sao nào, dù sao đi nữa thì sách văn em lấy, Ngọc tỷ em cũng muốn lấy”. Tôi tiếp tục làm nũng quấy phá.
Chàng bất lực lắc đầu: “Đi! Đi! Ta cho! Không phải là Ngọc tỷ thôi à? Cho nàng đây này!”. Nói xong bèn lấy từ trên bàn ra một hộp gấm, khi mở ra liền thấy lộ ra một khối Ngọc tỷ có khắc “Chế cáo chi bảo” của Hoàng đế.
Tôi bưng Ngọc tỷ, nhịn cười hỏi: “Bộ cho em thật à?”.
“Đúng rồi, cho nàng đó. Nàng muốn gì ta cũng đều cho…”. Chàng nhẹ nhàng thì thầm, âm thanh hiền dịu vô cùng dễ nghe, “Ta thật muốn móc tim mình ra đưa cho nàng, chỉ xin nàng có thể bên ta cả đời, không xa không rời…”.
Tim tôi đập thình thịch, dạt dào sự hạnh phúc cùng cảm động.
“Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu…”.
Hoàng Thái Cực khẽ ngâm bài “Quan Thư” trong Kinh thi, hai tay ôm lấy hai tay tôi, bốn tay cùng cầm khối Ngọc tỷ “Chế cáo chi bảo” của Hoàng đế lên, đóng một dấu ấn đỏ tươi vào chỗ lạc khoản trong sách văn ấy.
“Du Nhiên, dù hậu cung của Hoàng Thái Cực ta có vô số Phúc tấn, nhưng nàng vẫn sẽ là người vợ duy nhất của ta trong kiếp này!”.
Tôi đột nhiên run lên.
Thần phi…
Thần giả, đế vương dã.
*Ý chỉ là ngôi nhà của vua chúa ở.
Thần phi! Thần phi…
Người phụ nữ của Hoàng đế!
Người vợ duy nhất…

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.