Nỗi oan khuất và căm phẫn trong lòng tôi như một con thú bị nhốt trong bẫy không ngừng tả xung hữu đột, cơ hồ muốn đâm thủng một lỗ trên trái tim tôi. Rồi sau đó, chúng hóa thành cái lưỡi lạnh tanh của con rắn độc, quấn chặt lấy thân thể tôi, trườn khắp người tôi. Dường như có ai đó đang bóp chặt cổ tôi, bóp rất mạnh, bóp với nỗi căm hận tới tột cùng, bóp đến mức khiến tôi không cách nào thở nổi. Lồng ngực tôi như đang bị một cây dùi trống không ngừng nện xuống, đau đớn đến mức sắp nứt ra, khiến tôi kinh hãi vô cùng.
Có tiếng bước chân vội vã vang lên bên tai, rồi sau đó có người đứng bên cạnh không ngừng lay vai tôi. Tôi mơ màng tỉnh dậy, mồm miệng khát khô, đắng ngắt, đến đầu lưỡi cũng như đã dính chặt vào răng. Trái tim tôi khẽ đập một cách yếu ớt, tựa như ngọn đèn dầu lúc tỏ lúc mờ đang đặt trên bàn. Quần áo tôi sớm đã ướt đẫm mồ hôi, dính bết vào cơ thể. Tôi cố gắng đưa tay lên xoa trán, chậm rãi ngồi thẳng người dậy.
Trong khoảnh khắc ngẩn ngơ, tôi chỉ nghe thấy tiếng những hạt mưa va vào cửa sổ, mang theo đầy sự giá lạnh.
Mở mắt, nhìn thấy vẻ mặt quan tâm của Cận Tịch và Hoán Bích, tôi thoáng yên tâm hơn, khàn giọng nói: “Ta không sao.”
Cận Tịch ngồi xuống bên mép giường, xót xa nói: “Nương tử lại gặp ác mộng rồi.”
Tôi nhất thời chẳng nói được gì, chỉ khẽ xua tay. Hoán Bích ngó quanh bốn phía mà chẳng tìm được canh an thần, đành rót một chén nước nóng, khẽ thổi mấy hơi, đưa cho tôi uống, sau đó lại lo lắng nói: “Tiểu thư cứ bị bóng đè mãi thế này, lại không có thuốc an thần để uống, thân thể biết đến bao giờ mới hồi phục lại đây?”
Cận Tịch vội vàng an ủi: “Nương tử vừa tới chùa Cam Lộ, không thích ứng với hoàn cảnh xung quanh cũng là lẽ thường tình, chưa chắc đã là chuyện gì nghiêm trọng, chỉ cần nghĩ thoáng một chút là được.”
Trên mặt tôi vẫn còn vương nước mắt, những giọt nước mắt lớn thấm nhòe trên gối, như những bông hoa mai nhỏ màu đen, hết sức rời rạc và hỗn loạn. Tôi đưa tay gạt nhẹ, chợt thoáng sững ra, miễn cưỡng nói: “Đúng là như trẻ con vậy, đến nằm mơ cũng khóc.”
Từ khi vào chùa Cam Lộ đến giờ, tôi rất ít khi khóc. Sự khó chịu và căm phẫn chưa từng giảm bớt, nỗi nhung nhớ và lo lắng cho người thân cũng ngày một tăng thêm, thế nhưng cặp mắt tôi sớm đã trở nên khô héo, tựa như một giếng nước cạn khô, chỉ có thể nhìn thấy lớp rong rêu phủ đầy dưới đáy, chẳng còn thấy cảnh sóng nước dập dờn. Khi khó chịu tới cực điểm, cả ngày tôi chỉ biết nhìn lớp giấy dán cửa sổ mà ngẩn ngơ, chẳng làm việc gì khác. Có lúc đến Hoán Bích cũng không nhịn được nữa, cất tiếng khuyên nhủ: “Tiểu thư cứ kìm nén như vậy mãi sẽ sinh bệnh đấy, chi bằng cứ khóc thành tiếng thì sẽ thoải mái hơn.”
Tôi chậm rãi lắc đầu, lúc này, tôi biết lấy đâu ra nước mắt đây? Mà nước mắt thì cũng có thể thay đổi được điều gì?
Ngoài trụ trì ra thì chỉ có vị ni cô tặng đường đỏ hôm đó là thỉnh thoảng tới thăm tôi. Sau vài lần trò chuyện, tôi cũng biết được tên họ của bà ta, Mạc Ngôn. Bà ta trông cao gầy và lạnh lùng, hai gò má nhô lên vẻ hung dữ, cũng không thích nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng có vẻ hờ hững, như thể chẳng thèm để ý đến ai. Với bộ dạng như vậy, bà ta tất nhiên không thể thân thiết với các ni cô trong chùa này, thế nhưng cũng không có ai dám đến trêu chọc bà ta, hai bên có thể nói là nước sông không phạm nước giếng. Bà ta thì bị mọi người cô lập, còn tôi, tất nhiên cũng chẳng có mấy ai thèm để ý tới.
Mạc Ngôn thỉnh thoảng có tới nhưng cũng chỉ đứng tựa vào khung cửa nhìn tôi một lát, sắc mặt lạnh lùng. Tôi chỉ khẽ gật đầu tỏ ý chào, sau đó lại tiếp tục ngẩn ngơ hoặc đi ngủ. Nếu khi tới, bà ta nhìn thấy tôi mặt mày đờ đẫn, thường sẽ khinh thường ra mặt, chỉ ở lại một lát rồi phất tay áo rời đi, còn nói thêm một câu: “Đã vào chùa tu hành rồi mà còn thương tâm vì nam nhân nữa sao? Đúng là ngu ngốc!”
Tuy bà ta từng giúp tôi nhưng lại không quen thân với tôi, tôi hà tất phải nói với bà ta rằng sự thương tâm và buồn bã của tôi không chỉ là vì những hành vi đáng hận của nam tử kia.
Mạc Ngôn thường xuyên cười nhạo tôi. “Ban ngày nghĩ đến đám nam nhân thối tha đó rồi thương tâm, ban đêm cũng thương tâm vì đám nam nhân thối tha đó, trước đây là vậy, bây giờ vẫn vậy. Nữ nhân quả là vô dụng, sống cả đời vẫn chỉ biết nghĩ đến đám nam nhân thối tha và thương tâm vì chúng thôi!”
Bà ta một điều “nam nhân thối tha”, hai điều “nam nhân thối tha”, mắng rất đường hoàng và trôi chảy. Tôi bất giác bật cười, người có khẩu khí như vậy đi xuất gia làm ni cô đúng là lựa chọn tốt nhất, thế là tôi bèn nói với bà ta: “Bà xuất gia làm ni cô thực hợp lắm. Bà căm ghét nam nhân như vậy, tất nhiên không nhìn thấy bọn họ là tốt nhất, rất hợp với am ni cô này.”
Bà ta khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Nếu ngươi cứ nghĩ đến đám nam nhân thối tha đó, vậy thì đâu đâu cũng là bóng dáng của nam nhân, ngươi có ở trong chùa Cam Lộ hay không, có làm ni cô hay không cũng chẳng có gì khác biệt.”
Tôi chợt nhớ tới lời bình luận của các ni cô khác về Mạc Ngôn: “Hình như Mạc Ngôn có thù oán với nam nhân thì phải.”
Tôi cũng cảm thấy thế, vì vậy chỉ mỉm cười, không tranh luận gì với bà ta.
Có điều, Mạc Ngôn cũng có lúc tán dương tôi: “Tính cách ngươi cũng khá tốt đấy, dù chẳng thể buông tên nam nhân thối tha nào đó xuống được nhưng chưa từng rơi một giọt lệ vì hắn. Cũng đúng, những giọt nước mắt thuần khiết của chúng ta há có thể rơi vì lũ nam nhân thối tha đó!”
Tôi không rơi nước mắt, thế nhưng trong giấc mộng sự kiên cường và tê dại ấy của tôi đã bị đập tan hoàn toàn. Nước mắt vương đầy mặt mà chẳng hề có chút kiêng dè, tựa như lũ côn trùng, không ngừng bò đi bò lại một cách ngang ngược.
Cận Tịch nói: “Hoán Bích, mau đi đun một siêu nước nóng, nương tử đợi lát nữa lau rửa người xong rồi hãy ngủ, cứ để mồ hôi đầm đìa thế này mà đi ngủ thì dễ bị nhiễm phong hàn lắm!” Nàng ta khẽ áp lòng bàn tay ấm áp lên mu bàn tay tôi, nhẹ nhàng nói: “Nếu nương tử chưa buồn ngủ thì để Cận Tịch nói chuyện với nương tử một lát nhé!”
Tôi không nói gì, chỉ khẽ gật đầu một cái.
Cận Tịch dịu giọng hỏi: “Nương tử gặp ác mộng có phải là vì chuyện trước đây không?” Tôi không trả lời, lặng im coi như thừa nhận. Cận Tịch khẽ thở dài một tiếng, nói: “Đổi lại là bất cứ ai, gặp phải cơn biến cố thế này nhất định đều sẽ thương tâm.” Nàng ta thoáng trầm ngâm rồi nói tiếp: “Nương tử có từng nghĩ tới việc Đông Sơn tái khởi, báo thù rửa hận cho người nhà không?”
Nơi đáy lòng tôi tràn đầy sự chua chát, sự chua chát ấy tràn dần lên tới khóe miệng và biến thành một nụ cười gượng gạo. “Ý của ngươi, ta không phải không hiểu, nhưng nếu muốn Đông Sơn tái khởi, báo thù rửa hận thì không thể không dựa vào y, nếu không tất cả sẽ chỉ là lý luận suông, không có chút ý nghĩa thực tế nào.”
Bây giờ tôi chẳng muốn nhắc đến cái tên Huyền Lăng chút nào, cũng bỏ hẳn lối xưng hô “Hoàng thượng”, chỉ thay thế bằng một chữ “y”.
Cận Tịch tất nhiên hiểu rõ điều này. Tôi lại nói: “Người hãm hại ta sớm đã bày ra mưu kế liên hoàn, đầu tiên là dùng áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu để khiến ta bị thất sủng, khiến y cho rằng ta cố ý mạo phạm tiên Hoàng hậu, làm một việc không biết lượng sức mình, tự chuốc lấy nhục. Mà khi ấy, ta cũng hiểu rõ, trong bao năm sủng ái, trong mắt y, ta chẳng qua chỉ là cái bóng của Thuần Nguyên Hoàng hậu mà thôi.” Mười ngón tay của tôi nắm chặt, nơi đốt ngón tay phát ra những tiếng “răng rắc” và trở nên trắng bệch, sự căm hận và bất lực trong lòng thể hiện ra một cách rõ ràng bằng những giọt nước mắt lã chã tuôn rơi. “Người đặt ra cạm bẫy không chỉ suy nghĩ chu toàn, kín kẽ, còn biết rõ tính cách của ta và y. Nếu y nhận định rằng ta có lòng mạo phạm, nhất định sẽ không thèm nghe lấy nửa lời giải thích của ta, thậm chí về sau ta có biện bạch gì cho người khác, y cũng chỉ cho là những lời vô căn cứ, chẳng thèm để tâm. Mà ta sau khi biết việc mình chẳng qua chỉ là cái bóng của người khác trong lòng y, sao ta còn muốn gặp lại y, ân ái với y nữa, thậm chí người đó còn đoán trước được việc ta sẽ chẳng tự biện bạch cho bản thân câu nào. Người đó tâm kế thâm trầm đến đáng sợ, vượt xa khỏi dự liệu của ta, cũng chính vì thế nên ta mới bị nàng ta khống chế trong lòng bàn tay như vậy.”
Cận Tịch nhíu chặt đôi hàng mày, nhìn như hai chiếc lá liễu bị gió lốc thổi cho cong lại. Sau một thoáng tĩnh lặng tới tột cùng, nàng ta đột nhiên ngẩng đầu, trong mắt lóe hiện những tia sáng âm u, sâu thẳm, tựa như ngọn lửa ma trơi. Nàng ta nói rành rọt từng từ: “Hoàng hậu là chủ nhân của hậu cung, lại làm vợ chồng nhiều năm với Hoàng thượng, có tâm kế như thế cũng là lẽ thường tình.”
Tôi khẽ “hừ” một tiếng, nói với giọng tự giễu: “Ban đầu ta cứ ngỡ Hoàng hậu nhân từ, lương thiện, về sau cũng loáng thoáng biết là không phải, nhưng không ngờ lại có ngày hôm nay. Ta xưa nay vẫn luôn tôn kính Hoàng hậu, chưa từng có chút lòng nổi loạn.”
Cận Tịch hơi nhếch khóe môi, bình thản nói: “Nương tử mới chỉ biết một mà không biết hai. Nương tử cho rằng chỉ cần ngoan ngoãn nghe lời thì Hoàng hậu sẽ không ôm lòng muốn giết nương tử sao? Nô tỳ biết được dung mạo của nương tử có ba phần giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu, tính cách thậm chí còn giống năm phần, Hoàng hậu thân là em ruột của Thuần Nguyên Hoàng hậu, có lý nào lại không biết? Tình ý của Hoàng thượng với Thuần Nguyên Hoàng hậu sâu dày đến cỡ nào, mà nương tử lại có phần giống với tiên Hoàng hậu, cho nên sớm đã trở thành cái gai trong mắt Hoàng hậu rồi. Huống chi, khi đó cả cha anh của nương tử đều lập được đại công trong việc bình định Nhữ Nam Vương, nương tử thì vẫn luôn đắc sủng, lúc này gia thế lại lên vùn vụt, hiển hách tột cùng, thậm chí còn khó đối phó hơn Hoa Phi khi xưa.” Nàng ta suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Nếu là trước đây, nô tỳ cũng chỉ nghĩ Hoàng hậu có chút tâm kế, nhưng sau việc vừa qua mới hiểu được sự lợi hại của nàng ta. Thời gian vừa rồi, nô tỳ vẫn luôn không ngừng suy nghĩ, rốt cuộc đã hiểu ra được đôi điều. Kỳ thực, ngay từ sớm Hoàng hậu đã tính toán kĩ càng, từng bước đẩy chúng ta vào cạm bẫy.”
Mưa lạnh va vào chấn song cửa sổ làm phát ra những tiếng “bộp bộp” không ngớt, xen lẫn trong đó còn có tiếng gió lạnh rít gào, nghe như ma hờn quỷ khóc, khiến lòng người kinh sợ. Dù cách một lớp giấy dán cửa sổ, sự lạnh lẽo của cơn mưa ấy vẫn như tràn thẳng vào phòng.
“Chu Nghi Tu!” Từ kẽ răng tôi bật ra cái tên của Hoàng hậu, từng từ đều ẩn chứa sự oán hận tột cùng: “Ta cứ ngỡ mình không đắc tội gì với nàng ta, chẳng ngờ ngay từ đầu ta đã là cái gai trong mắt nàng ta rồi.” Tôi đưa mắt nhìn Cận Tịch, nơi đáy lòng chợt trào dâng một ự yếu đuối và thương tâm tới tột cùng. “Lúc đầu, nàng ta chỉ lợi dụng ta để đối phó với Hoa Phi. Hóa ra sau khi ta vào cung, mỗi bước đi đều nằm trong tính toán của nàng ta, người ta là dao thớt, còn ta là cá thịt, vậy mà ta lại chẳng hay biết, sao có thể đối địch với nàng ta được? Nàng ta sớm đã bày sẵn thiên la địa võng để chờ ta rồi.”
Cận Tịch hơi cúi xuống, dưới ánh nến mờ tối, chiếc cằm ngày một gầy guộc kia toát ra những nét kiên định. Sau hồi lâu lặng im suy nghĩ, Cận Tịch cất tiếng: “Đừng nói là lúc này, dù là trước đây, chúng ta cũng không có sức để đối địch với Hoàng hậu.”
Lời của Cận Tịch quả là đúng, mà tôi cũng nào phải chưa từng nghĩ đến điều này. Trong quãng thời gian đầu óc mơ màng, thân thể tôi luôn bị nhấn chìm trong đau đớn, chẳng thể ngủ ngon. Qua bao lần đau đớn ấy, mỗi sợi dây thần kinh trong cơ thể tôi đều dần trở nên tỉnh táo và suy nhược hơn. Dù có không cam tâm đến mấy, rốt cuộc tôi cũng đành thừa nhận: “Trong hậu cung, đa số phi tần đều cho rằng nàng ta hiền lương, thục đức, còn những người biết được bộ mặt thật của nàng ta đều gặp phải cơn tai họa bất ngờ, do đó nụ cười của nàng ta với mọi người trong cung luôn hiền hòa như thế. Mà quan trọng nhất là ngay đến Hoàng thượng cũng cho rằng như vậy. Nàng ta là con gái nhà họ Chu, là cháu gái ruột của Thái hậu, là chị họ của Hoàng thượng, là em gái ruột duy nhất của Thuần Nguyên Hoàng hậu, chính sức mạnh về huyết thống này đã giúp nàng ta ngồi vững ở ngôi mẫu nghi thiên hạ. Dù rằng nàng ta không có con cái…” Tôi cười lạnh một tiếng, tựa như tiếng kêu thê thảm của một con cú đang nấp trên cây giữa màn đêm đen. “Không, con trai của Cẩn Phi ngày trước bây giờ đã trở thành con ruột của nàng ta rồi. Nàng ta chỉ cần đợi ngày ngồi lên ngôi vị Hoàng thái hậu nữa thôi!”
“Hoàng thượng…” Cận Tịch nhìn chằm chằm vào tôi, những sợi gân xanh trên trán hơi nẩy lên.
Tôi đương nhiên hiểu rõ ý của nàng ta, một nụ cười thê lương lặng lẽ xuất hiện bên khóe môi, tựa như một vết nứt xuất hiện trên khuôn mặt tôi vậy. Tôi bình tĩnh nói: “Trong quãng thời gian mang thai Lung Nguyệt, trong nhà đột nhiên xảy ra biến cố, đâu phải ta chưa từng nghĩ nếu mình ép dạ cầu toàn, có lẽ sẽ có thể xin y tin rằng nhà họ Chân trong sạch, thế nhưng y nào chịu tin, vẫn hạ thánh chỉ biếm truất toàn bộ người nhà của ta. Kỳ thực khi đó ta còn chưa hiểu rõ, nếu y chịu tin tưởng ta, tất nhiên sẽ không bao giờ cấm túc ta chỉ vì việc ta mặc nhầm áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu, khiến ta phải chịu đủ nỗi ghẻ lạnh, khổở trong Đường Lê cung, làm Lưu Chu mất đi tính mạng, thậm chí ngay cả lúc mang thai, ta cũng chẳng thể ra ngoài. Ta suy đi nghĩ lại, rốt cuộc cũng đã thông suốt, do đó mới tự động xin rời cung ra ngoài tu hành. Kỳ thực, cho dù ta vẫn còn ở bên cạnh y, rồi y sắc phong ta làm chiêu nghi, ta cũng không thể tươi cười với y, nhẫn nhục chịu đựng sự sủng ái của y. Y dù gì cũng là Hoàng đế, còn Chân Hoàn ta tuyệt đối không phải người như vậy.”
Cận Tịch khẽ vỗ bàn tay tôi tỏ ý an ủi, nói: “Kỳ thực Chân đại nhân, Chân phu nhân và Chân công tử tuy người Nam kẻ Bắc cách trở xa xôi nhưng dù sao cũng đã giữ được tính mạng. Nương tử dù tính cách mạnh mẽ nhưng cũng không cương nghị và cứng cỏi như Thụy Tần tiểu chủ, tự sát để tỏ chí, đến cuối cùng còn mang tiếng uy hiếp đấng quân vương, chết không nhắm mắt. Chỉ đáng tiếc cho Chân thiếu phu nhân và tiểu công tử.” Cận Tịch thoáng trầm ngâm, cuối cùng vẫn lên tiếng hỏi: “Kỳ thực nô tỳ vẫn luôn canh cánh trong lòng một chuyện, nếu người An Lăng Dung căm hận là nương tử, vậy thì chỉ cần ra tay với nương tử hoặc người chí thân của nương tử là được, tại sao đến cuối cùng lại là Chân thiếu phu nhân và tiểu công tử gặp cơn tai họa như thế? Nô tỳ nghe nói khi đó Chân thiếu phu nhân và tiểu công tử mắc bệnh sốt rét, thái y được phái tới chữa trị chính là người bên cạnh An thị, việc này quả thực kỳ lạ quá chừng.”
Nếu là lúc còn ở trong cung, nguồn cơn bên trong tôi ắt sẽ chẳng nói ra nửa phần mà vùi sâu trong tim, để mặc cho nó dần trở nên mục ruỗng. Nhưng giờ đây, tình hình đã khác hẳn ngày xưa rồi.
Tôi cố gắng kiềm chế tâm trạng của mình, giọng nói từ kích động trở nên hờ hững: “Sự đố kị của nữ nhân đáng sợ vô cùng, còn ghê gớm hơn cả mãnh thú, lũ lụt.” Thoáng dừng lại, tôi nói tiếp: “Đặc biệt là trong chuyện tình cảm nam nữ.”
Cận Tịch bất giác cả kinh, lập tức hiểu ra mọi việc. Sự kinh hãi của nàng ta không hề thua kém tôi khi phát hiện ra những giọt nước mắt bi thương của Lưng Dung đêm đó. Nàng ta thoáng ngẩn ngơ, sau đó liền phần nào bình tĩnh trở lại. “Nô tỳ tự vấn thấy mình đã sống trong cung nhiều năm, cũng coi như là từng trải, vậy mà tuy có thể phát hiện ra một chút lòng phản trắc của An thị nhưng về tình cảm của An thị với Chân công tử thì thực sự không thể nhìn thấy được nửa phần.”
Tôi khẽ thở ra một hơi dài, nói: “Nào chỉ mình ngươi, nếu không phải tận mắt thấy, chính tai nghe thấy thì ngay đến bản thân ta cũng gần như không thể tin nổi. Thế nhưng cái gọi là nghiệt duyên trên đời này chính là như vậy. Tâm tư của An thị thâm sâu kín đáo, qua đó cũng thấy được phần nào.” Tôi ngẩn ngơ rơi nước mắt, những giọt nước mắt nóng bỏng như đang thiêu đốt trái tim tôi. “Trước đây ngươi cũng từng bóng gió, nhắc ta phải đề phòng An Lăng Dung hai lòng nhưng ta lại quá tin tưởng ả, tin tưởng cái gọi là tình nghĩa tỷ muội, cho nên mới có kết cục ngày hôm nay. Tất cả đều là tại ta quá cả tin, tự chuốc lấy tai họa vào người.”
Cận Tịch nói: “Đây chính là điểm yếu của nương tử, quá trọng tình cảm. Kỳ thực đã vào cung rồi, có thể xem nhẹ chữ ‘tình’ đi một chút, giống như Kính Phi nương nương vậy, cuộc sống chắc sẽ thoải mái hơn nhiều.”
Tôi bất giác nghẹn ngào, nói ra mối tâm tư khiến bản thân tột cùng nghi hoặc: “Cận Tịch, ta có một chuyện không sao hiểu được. Ta đối xử với An Lăng Dung tuy vẫn chưa tới mức moi gan móc ruột như với My Trang, nhưng cũng coi như là hết lòng hết dạ. Cớ gì mà ả lại hận ta đến vậy, đầu tiên là dùng Thư ngân giao hại chết đứa con trong bụng ta, sau đó lại liên thủ với Hoàng hậu lật đổ ta, đến người già người trẻ trong nhà ta cũng không chịu buông nữa. Ta thực không hiểu, tại sao ả lại hận ta như vậy?”
Trên mặt Cận Tịch thoáng qua nét phức tạp và mê hoặc nhưng rất nhanh sau đó đã mỉm cười thản nhiên, như thể hiểu thấu sự đời. “Lòng người vốn phức tạp và dễ đổi thay, đây chính là ví dụ rõ ràng nhất.”
“Lòng người vốn phức tạp và dễ đổi thay…” Tôi lẩm bẩm lại câu này: “Cận Tịch, giờ đây ta chỉ có một mong ước viển vông, ấy là đời người mãi được như lần đầu gặp mặt… Ví như Lăng Dung, còn nhớ lúc mới gặp, ả yếu đuối, đáng thương biết mấy, My Trang tỷ tỷ khi đó cũng tự nhiên, cởi mở biết nhường nào. Còn y, chỉ là y trong lần mà ta mới gặp thôi…” Tôi nở nụ cười thê lương. “Giữa những bông hoa hạnh đầy trời, y mỉm cười bước tới, cảnh xuân tươi đẹp vô cùng… Nhưng mùa xuân rồi cũng phải qua đi. Nếu thế gian mãi dừng lại ở khoảnh khắc đó, không có mọi chuyện về sau thì thật tốt biết bao!”
Gió đêm thổi vào qua khe cửa sổ, mang theo không khí ẩm ướt mà giá lạnh, khiến ngọn nến vốn đã mờ tỏ chập chờn như muốn tắt. Cận Tịch đưa tay tới che ngọn lửa, thoáng lặng im rồi mới nói: “Gió thu mang sầu đến, lòng người dễ đổi thayChuyện trên thế gian này thường luôn như vậy.”
“Ly sơn ngữ bãi thanh tiêu bán, dạ vũ lâm linh chung bất oán. Hà như bạc hạnh cẩm y nhi, tỷ dực liên chi đương nhật nguyện[1].” Tôi chậm rãi cất tiếng ngâm, giữa mưa đêm dầm dề sầu da diết, tôi chợt khẽ cất tiếng cười. “Đêm nay không ngờ cũng là một đêm mưa. Cận Tịch, ngươi có tin không? Quãng thời gian vừa qua, y gần như không bước vào giấc mộng của ta lần nào. Cứ tiếp tục thế này, chỉ e ta sẽ hoàn toàn quên mất hình dáng của y.”
[1] Trích Mộc lan hoa – Nghĩ cổ quyết tuyệt từ giản hữu, Nạp Lan Tính Đức. Dịch nghĩa: Ngày đó trên Ly Sơn, Dương Quý Phi và Đường Minh Hoàng thề non hẹn biển, chẳng ngờ cuối cùng nơi gò Mã Ngôi Dương Quý Phi lại bị Đường Minh Hoàng ban cho cái chết, nhưng Dương Quý Phi vẫn chẳng oán hận chút nào. Đâu có giống như Đường Minh Hoàng bạc tình, những lời chim liền cánh, cây liền cành ngọt ngào thuở xưa chỉ là lời nói suông – ND.
Cận Tịch mỉm cười hiền hòa, cất lời an ủi: “Y vốn là người mà nương tử một lòng muốn quên đi, không nhớ đến nữa thì đương nhiên là tốt rồi. Cuộc sống trong cung xưa nay vốn luôn dễ dàng mài mòn góc cạnh của người ta, nương tử đã vào cung nhiều năm, trong mọi việc đa phần đều nín nhịn cầu toàn. Nhưng giữa chốn cung đình, việc tranh đấu không bao giờ ngơi nghỉ, nô tỳ luôn cảm thấy tính cách của nương tử hồi mới vào cung đã bị mài mòn gần hết rồi. Mãi đến ngày hôm đó, khi nương tử kiên quyết từ biệt y, ngâm lên lời rằng ‘sông Cẩm mênh mang, từ nay vĩnh biệt’, nô tỳ mới cảm thấy bản tính thật sự của nương tử đã trở về. Chỉ đáng tiếc, chốn cung đình không cho phép tính cách đó tồn tại. Nương tử có thể rời cung mà tới nơi này, còn vừa bảo vệ được mình vừa bảo vệ được người khác, ấy cũng đã là một điều may mắn giữa bao nỗi bất hạnh lớn lao rồi!”
Tôi nghe những lời an ủi này của Cận Tịch mà thầm cảm kích, thế nhưng vẫn nói: “Dù ta có quên được y thì e rằng vẫn còn một số chuyện, một số nỗi oán hận và thương tâm, phải rất lâu sau mới có thể quên được.”
“Đến chim nhạn bay qua còn để lại dấu vết, huống chi là con người. Dù sau này nương tử thật sự quên được người đó, nhưng có một số vết thương đã để lại sẹo thì không sao xóa nổi. Con người vốn có tâm ma, nương tử phải cố gắng trấn áp nó mới được.” Cận Tịch khuyên xong liền nở nụ cười rạng rỡ, cặp mắt trong veo như gương soi. “Hơn nữa, như thế này liệu có thể tính là tình ý của nương tử với y còn chưa đến mức khắc cốt ghi tâm không? Chính bởi thế nên sự oán hận và thương tâm còn nhiều hơn nhung nhớ. Nếu đó là tình yêu chân thành, sâu sắc và kiên định, vậy sẽ chẳng dễ gì bị hận thù che phủ. Đương nhiên, sống trong cung vốn không cần có tình yêu, thứ tình yêu ấy cho dù có thì cũng chẳng chịu nổi mưa gió dập vùi, giữa muôn vàn mưu mô quỷ kế, đến cuối cùng rồi cũng sẽ tan biến thôi. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, nếu nương tử cứ mãi cố gắng duy trì tình yêu đó, còn y thì không ngừng nghi ngờ, vậy thì sao mà lâu bền được, chỉ càng khiến nương tử thương tâm hơn mà thôi. Trên thế gian này, tình yêu đẹp nhất định phải là chàng có tình thiếp có ý, hai bên tin tưởng lẫn nhau, như thế mới có thể thật lòng hòa hợp, ở bên nhau đến khi răng long đầu bạc.”
Tôi mỉm cười, hỏi: “Cận Tịch, có đúng là ngươi đã ba mươi lăm tuổi rồi không? Có đúng là từ nhỏ ngươi đã sống trong cung không thế?”
Cận Tịch thoáng ngạc nhiên. “Đúng là như vậy mà.”
Tôi cười, nói: “Vậy tại sao ngươi lại hiểu rõ về tình yêu như vậy, còn hơn hẳn muôn vàn nam nữ si tình trên thế gian này?”
Cận Tịch bất giác bật cười. “Nương tử chê cười nô tỳ đấy sao? Nương tử vốn vô cùng thông minh, cớ sao lại không hiểu trên thế gian này người ngoài cuộc thường luôn tỉnh táo, còn người trong cuộc thì hay u mê, đặc biệt là trong chuyện ái tình. Nếu đổi lại là nô tỳ sa vào bể yêu đương, lúc này có lẽ cũng chỉ là một người rất mực hồ đồ mà thôi.”
Tôi khẽ gật đầu. “Cũng phải, có điều, Cận Tịch ngươi thông minh như vậy, sao có thể rơi vào bể yêu đương đến nỗi không tự thoát ra được chứ.”
Trên mặt Cận Tịch thoáng qua nét ngẩn ngơ, khiến tôi cảm thấy mình chắc đã nhìn nhầm, Cận Tịch sao có thể để lộ khoảnh khắc ưu sầu như thế được, nhất định là tôi nhìn nhầm rồi! Nàng ta rất nhanh đã cười, nói: “Nô tỳ thân phận thấp kém, chỉ biết hầu hạ chủ nhân, lại đã ba mươi lăm tuổi rồi, nửa đời người sۭ đã qua đi, sao còn dính dáng đến chuyện yêu đương được nữa, nương tử thực đã nói đùa rồi!”
Sau một hồi trò chuyện với nàng ta, nỗi ưu phiền trong lòng tôi đã giảm đi quá nửa, lúc này tôi cũng cười, nói: “Đúng thế, ta chỉ nói đùa vậy thôi. Có điều theo ta thấy, nhiều lúc vô tình thực ra còn tốt hơn hữu tình nhiều.”
Cận Tịch chỉ khẽ cười. “Vậy sao? Nếu có một ngày nương tử gặp được một người đối xử với mình thật lòng, mà nương tử cũng thật lòng yêu thương người đó, e là nương tử sẽ không nói ra những lời như vậy nữa đâu.”
Tôi bất giác bật cười. “Cận Tịch, ngươi nói đùa còn ghê hơn ta nữa đó. Ta đã là người trong cửa Phật rồi, sao còn có thể gặp được một người như vậy nữa đây?”
Cận Tịch hầu hạ tôi lau rửa thân thể, lại đắp chăn cẩn thận cho tôi, trên mặt luôn giữ nụ cười mỉm hiền hòa. “Nô tỳ đúng là chỉ nói đùa vậy thôi, mong nương tử cười xong rồi sẽ dễ ngủ hơn một chút.”
Thế rồi tôi lại ngủ tiếp. Bên ngoài cửa sổ mưa rơi rả rích, gió thổi vù vù, lúc này mùa thu còn chưa qua hết, khung cảnh mưa gió càng làm tăng lên sự thê lương, nỗi sầu thương, buồn hận trong lòng người bất giác tăng lên bội phần. Sau một hồi dốc bầu tâm sự, tâm trạng tôi đã thư thái hơn nhiều, dần chìm vào giấc ngủ.