Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Chương 3: Màn phù dung êm ái đêm xuân




Đoán chừng Huyền Lăng đã sắp thức giấc, tôi bèn để cho nước mắt lã chã tuôn rơi, từng giọt từng giọt nhỏ xuống lưng y. Tôi đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve cánh tay phải của y, tay y bóng láng, mịn màng, nhưng có hơi mềm và nhão do đã lâu ngày không luyện võ. Còn Huyền Thanh, trên cánh tay phải của y có một hình xăm hết sức dữ dằn, khó ai có thể tưởng tượng nổi trên người một nam tử tuấn tú, nho nhã như y lại có một hình xăm như thế, chỉ có những người thân mật nhất mới có thể nhìn thấy được.
Huyền Lăng khẽ thở dài một tiếng vẻ đầy thỏa mãn, kế đó liền trở mình ôm lấy tôi lúc này đang nước mắt đầm đìa. “Hoàn Hoàn, vừa rồi nàng đã nhỏ ba mươi bảy giọt nước mắt vì trẫm rồi đấy!” Tôi thoáng ngẩn ra, kế đó lại càng xót xa rơi lệ. Y hỏi: “Tại sao nàng khóc?”
Tình dục, chẳng qua chỉ là một thứ dục vọng của con người mà thôi. Sự kết hợp của nhục thể đối với Huyền Lăng mà nói thì có là gì đâu chứ, bởi tất cả nữ nhân trong thiên hạ này vốn đều thuộc về y, sau một hồi ân ái, y hoàn toàn có thể phủ nhận, hoàn toàn có thể quên đi nữ tử vừa ân ái với mình.
Nhưng nam nhân, đặc biệt là những nam nhân vừa được thỏa mãn về nhục dục, thường là dễ nói chuyện nhất, dễ bị lay động nhất.
Đây chính là thời cơ mà tôi cần nắm lấy.
Tôi gối đầu lên cánh tay y, rơm rớm nước mắt, nói: “Ai ai cũng bảo năm xưa Hoàn Hoàn ương bướng rời cung, sai đến mức không còn thuốc nào chữa nổi. Chỉ có bản thân Hoàn Hoàn biết rõ, khi đó Hoàn Hoàn làm vậy thật sự không sai chút nào.” Huyền Lăng hơi cau mày, vẻ lạnh lùng trong mắt dần trở nên rõ rệt. Tôi giả bộ như không biết, xúc động nói: “Trước đây thiếp cứ ngỡ Tứ lang chẳng có chút tình ý nào với thiếp, chẳng qua chỉ vì thiếp là mẹ của Lung Nguyệt, lại có mấy phần giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu nên mới muốn thiếp ở lại trong cung. Hoàn Hoàn yêu Tứ lang vô cùng, nhưng thực sự đã bị câu ‘Hoàn Hoàn giống nàng’ kia làm tổn thương sâu sắc.” Tôi dần ngưng khóc, nói tiếp: “Rời cung bốn năm, Hoàn Hoàn không có lúc nào không nghĩ, nếu Tứ lang hãy còn một chút, không, chỉ cần là một chút chút tình ý với Hoàn Hoàn thôi, Hoàn Hoàn dù có phải chết cũng không còn điều gì nuối tiếc nữa. Hiện giờ Hoàn Hoàn rời xa Tứ lang đã bốn năm rồi, bốn năm không gặp, vậy mà Tứ lang vẫn lo lắng cho thiếp, vì nghe ni cô ở chùa Cam Lộ nói thiếp mang bệnh phải dọn ra ngoài mà dời gót tới đỉnh Lăng Vân này. Chỉ cần biết rằng Tứ lang thật sự có chút chân tình với Hoàn Hoàn, bốn năm ly biệt này đâu có gì là đáng tiếc. Nếu sớm biết được điều này, Hoàn Hoàn nguyện lòng giảm thọ mười năm…”
Y khẽ chặn ngón tay lên môi tôi, nửa như xót xa nửa như trách cứ: “Hoàn Hoàn, trẫm không cho phép nàng nói bừa như vậy!”
Nước mắt của tôi đậu trên bờ mi, rung rinh như muốn rơi xuống. Tôi đã từng luyện tập vô số lần, dáng vẻ rơm rớm nước mắt thế này dễ khiến người ta sinh lòng xót thương nhất, cũng dễ khiến y rung động nhất.
Y quả nhiên đã chấn động, đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc tôi. “Hoàn Hoàn, sau bốn năm ở chùa Cam Lộ, nàng quả đã trưởng thành hơn rất nhiều, không còn ương bướng như xưa nữa.” Y khẽ ôm tôi vào lòng. “Nếu không vì năm đó nàng cứ hay làm việc theo cảm tính, trẫm sao nỡ để nàng rời cung khi mới sinh Lung Nguyệt được ba ngày. Kỳ thực trẫm phế đi danh vị của nàng chính là muốn nàng tập trung suy nghĩ lỗi lầm, bởi nếu vẫn còn danh vị, nàng làm sao biết được nỗi khổ sau khi rời cung.” Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi, xúc động nói: “Nàng cũng thật quật cường, làm trẫm giận đến mức nghiến răng nghiến lợi. Nàng có biết trẫm đã vì nàng mà trừng phạt bao nhiêu phi tần không, ngay đến Như Kim… Nàng không biết Như Kim trông giống nàng đến thế nào đâu.”
Phó Như Kim ư? Cô ta giống tôi hay là giống Thuần Nguyên Hoàng hậu đây? Tôi không hỏi, bởi giống ai cũng không quan trọng, y chẳng qua chỉ dùng một cái bóng để thay thế một cái bóng khác mà thôi. Huống chi dù y sủng ái Phó Như Kim đến mấy, đến cuối cùng cũng đâu có thèm nhỏ một giọt lệ vì cái chết thảm của cô ta.
Thế nhưng ngoài miệng tôi lại lộ rõ vẻ tò mò: “Như Kim là ai thế? Cô ấy giống thiếp lắm sao?”
Huyền Lăng khẽ hôn lên trán tôi, cười nói: “Giống ai cũng không quan trọng, việc đã qua rồi, trên đời đã không còn con người ấy nữa rồi.”
Tôi không nói gì, nữ nhân y đã sủng ái suốt một năm, nữ nhân vì sự sủng ái quá mức của y mà trở thành mục tiêu công kích của mọi người, vậy mà chỉ được y nhắc tới bằng một lời dửng dưng như vậy, thật là đáng thương tới tột cùng.
Tôi gục đầu lên vai y, sụt sịt nói: “Là ai cũng không quan trọng, Hoàn Hoàn chỉ cần có Tứ lang ở đây thôi. Tứ lang, thiếp thực sự rất sợ đời này kiếp này sẽ không còn được gặp lại chàng, còn cả Lung Nguyệt nữa… Lung Nguyệt của chúng ta…”
Huyền Lăng dịu dàng xoa nhẹ lưng tôi, khẽ cười, nói: “Không phải trẫm đang ôm nàng đó sao? Lung Nguyệt vẫn khỏe, nàng không biết nó ngoan ngoãn, đáng yêu đến thế nào đâu, Kính Phi thương yêu nó vô cùng.” Rồi y hơi cau mày lại. “Chỉ đáng tiếc trẫm không thể mang nó tới đây cho nàng xem.”
Tôi lộ vẻ buồn thương, nghẹn ngào nói: “Được nghe Tứ lang nói là Lung Nguyệt vẫn khỏe, thiếp cũng yên tâm rồi!” Thoáng trầm ngâm một chút, tôi nói tiếp: “Kỳ thực không có người mẹ ruột như Hoàn Hoàn, Lung Nguyệt vẫn có thể sống tốt.”
Huyền Lăng nhìn tôi chăm chú rồi khẽ thở dài. “Kỳ thực năm đó nếu nàng không rời cung, Lung Nguyệt được mẹ ruột chăm sóc hẳn sẽ tốt hơn nhiều. Có điều cứ nhìn tình hình bây giờ mà xét, nàng nhờ cậy Kính Phi cũng không phải là nhờ nhầm người.”
Những giọt nước mắt không ngừng lặng lẽ chảy xuống, mỗi lần rơi xuống mu bàn tay y liền bắn ra tung tóe. “Hoàn Hoàn mang bệnh lâu ngày, ở chùa Cam Lộ đã phải chịu rất nhiều khổ cực, đó có lẽ chính là báo ứng cho sự ương bướng năm xưa. Tuy đã rời khỏi Tử Áo Thành suốt bốn năm trời, nhưng lòng Hoàn Hoàn không lúc nào không nhớ đến người trong Tử Áo Thành. Mỗi lần Phương Nhược tới thăm, thiếp thậm chí không dám hỏi về tình hình của Tứ lang, chỉ lo Phương Nhược sẽ nói với thiếp là Tứ lang đã có người mới, hoàn toàn quên mất thiếp rồi. Thiếp thực sự không dám hỏi, chỉ còn cách mỗi ngày tụng kinh trăm lượt, cầu mong cho Tứ lang và Lung Nguyệt mãi mãi được bình an.” Tôi sụt sịt không thôi, mãi một hồi lâu sau mới có thể nói tiếp: “Bây giờ được trùng phùng với Tứ lang, đời này kiếp này Hoàn Hoàn không còn mong cầu gì hơn…”
Y đưa tay dịu dàng giúp tôi lau đi những giọt nước mắt, cất giọng thương yêu: “Hoàn Hoàn, trên đường tới đây trẫm đã nghĩ, chỉ cần nàng còn một tia tình ý với trẫm, chỉ cần nàng biết trước đây mình đã sai, mọi lỗi lầm trẫm đều có thể tha thứ cho nàng. Hoàn Hoàn, nàng đã không làm trẫm thất vọng, trẫm thậm chí còn cảm thấy, năm xưa có lẽ trẫm không nên để mặc cho nàng rời cung.”
Tôi khẽ nói: “Tứ lang, năm xưa thiếp không có ý mạo phạm tiên Hoàng hậu đâu.”
Y hơi cau mày, trong mắt lóe lên một tia lạnh lùng. “Chuyện trước đây nàng đã phải nhận một bài học rồi, trẫm là thiên tử, sẽ không tính toán với nàng nữa.” Ánh mắt y đột nhiên dịu dàng hơn mấy phần, tựa như làn nước mùa xuân phá băng chảy ra. “Nếu không vì nàng rời cung bốn năm, trẫm làm sao biết được mình lại nhớ nhung nàng đến nhường này. Vốn dĩ việc dâng hương dịp tháng Giêng có thể làm ở Thông Minh điện, nếu không vì Lý Trường nhắc rằng tới chùa Cam Lộ dâng hương có thể giải khuây đôi chút, trẫm cũng không thể mượn dịp mà tới đây thăm nàng. Kỳ thực lúc ở chùa Cam Lộ, trẫm cũng do dự không biết có nên tới gặp nàng hay không, chỉ sợ nàng vẫn còn quật cường như trước. Nào ngờ vừa hỏi thử liền được biết nàng vì mắc bệnh nên đã dọn tới đỉnh Lăng Vân, tuy bệnh khỏi rồi nhưng lúc nàng sinh Lung Nguyệt là sinh non, lại rời cung khi chưa đầy cữ, chỉ e năm xưa đã lưu lại mầm bệnh, thế là dù không hợp lễ nghi đến mấy trẫm cũng phải đi thăm nàng một chuyến.”
Tôi nghẹn ngào nói: “Được Tứ lang dành cho tình cảm như vậy, Hoàn Hoàn lại càng thấy hổ thẹn.” Tôi đưa tay tới khẽ vuốt ve đôi hàng lông mày của y, nở một nụ cười dịu dàng, nói tiếp: “Bất kể là khi ốm đau hay khi khỏe mạnh, Hoàn Hoàn đều ngày ngày tụng kinh cầu chúc cho Tứ lang được bình an, hôm nay nhìn thấy Tứ lang tráng kiện thế này, Hoàn Hoàn cũng yên tâm rồi.”
Những lời này của tôi nghe như chứa chan tình ý ngọt ngào, trong mắt cũng lộ rõ vẠdịu dàng vô hạn. Nhưng khi chăm chú nhìn y, nơi đáy lòng tôi lại đang thầm nở một nụ cười giễu cợt, là giễu cợt y, cũng là giễu cợt chính mình.
Y ghé người lại ôm lấy tôi, vùi mặt vào giữa mái tóc của tôi. “Hoàn Hoàn, nghe nàng nói vậy, lại ngửi mùi đàn hương trên người nàng, trẫm thấy dễ chịu lắm. Nàng có biết không, trong cung đã xảy ra rất nhiều chuyện, nhưng ngay đến một người tri kỷ để tâm sự đôi lời trẫm cũng chẳng có.” Trong giọng nói của y thấp thoáng nét bi thương: “Nàng có biết không? Lục đệ không thể trở về nữa rồi!”
Tôi khẽ vỗ lưng y tỏ ý an ủi, đồng thời cắn chặt răng, kìm nén để bản thân không rơi nước mắt. Y là đấng quân vương chí cao vô thượng, thế nhưng vẫn có rất nhiều việc phiền lòng. Nghe tin về cái chết của Huyền Thanh, hẳn y cũng giống như tôi, đều đau thương hết mực.
“Lục Vương gia là huynh đệ chí thân của Tứ lang, chắc Tứ lang thương tâm vô cùng. Có điều thương tâm thì thương tâm nhưng Tứ lang là thiên tử, từng lời nói, cứ chỉ đều ảnh hưởng tới chúng sinh trong thiên hạ, không thể không quý trọng thân thể của mình.”
Huyền Lăng ngẩng đầu, buồn bã nói: “Kỳ thực, trước khi Lục đệ khởi hành, trẫm đã biết có không ít gian tế Hách Hách trà trộn vào Điền Nam rồi, còn có loạn dân lúc nào cũng thừa cơ gây chuyện. Chỉ là trẫm muốn y vi hành quan sát dân tình nên không thể phô trương quá mức, cũng không thể phái người ngầm bảo vệ y. Nếu trẫm có thể tạm đặt chính sự qua một bên mà lo cho sự an nguy của y trước nhất, kết cục đó có lẽ đã không xảy ra.”
Tôi bất giác rùng mình một cái, trái tim sau nháy mắt đã như bị băng tuyết phủ dày. Tôi cố sức kìm nén nhưng đầu đau đớn tột cùng, cơ hồ muốn nứt ra… Là y, không ngờ lại là y! Cho dù y không cố ý, nhưng tương lai của tôi, giấc mộng đẹp của tôi, mọi niềm hy vọng của tôi, lại một lần nữa vì y mà tan vỡ!
Trong chiếc giỏ đựng kim chỉ nơi đầu giường có đặt một cây kéo, tôi đưa mắt liếc qua, thấy nó lóe lên một tia lạnh ngắt. Chỉ cần tôi đưa tay ra với lấy nó và đâm thẳng vào trái tim Huyền Lăng, y sẽ chết, sẽ chết theo phụ thân của đứa bé trong bụng tôi bây giờ.
Thế nhưng ý nghĩ ấy chỉ lóe lên trong khoảnh khắc. Nếu y chết đi, đứa bé trong bụng tôi cũng khó mà sống nổi. Thậm chí cả cha mẹ, huynh muội của tôi cùng với Lung Nguyệt, Cận Tịch, rồi đến Kính Phi cũng có khả năng bị liên lụy. Muốn trả thù y, tôi không hẳn phải dùng cách giết chết y, như thế thì được chẳng bằng mất, cũng chẳng đủ làm y đau khổ.
Lòng càng đau đớn thì càng phải cố gắng nhẫn nhịn, tôi thu ánh mắt lạnh lùng kia về, dịu dàng nói: “Tứ lang cũng đâu muốn thế, dù sao cũng là huynh đệ chí thân mà. Lục Vương gia trước kia vốn luôn tự do nhàn hạ, giờ đây có thể làm việc có ích cho Đại Chu, rốt cuộc cũng có thể coi là một vị hiền vương rồi.”
Huyền Lăng tựa người vào lòng tôi, cất giọng mỏi mệt nói: “Là trẫm không tốt, không suy nghĩ cho sự an nguy của y. Hoàn Hoàn, nàng biết không? Từ nhỏ phụ hoàng đã thương yêu lục đệ nhất, sủng ái mẫu phi của y Thư Quý phi nhất, lục đệ cái gì cũng giỏi hơn trẫm, cũng tốt hơn trẫm. Trẫm và mẫu hậu tuy có địa vị chỉ thua kém lục đệ và Thư Quý phi, nhưng trong mắt phụ hoàng từ đầu chí cuối chỉ có bọn họ, trẫm chưa từng là gì cả. Hoàn Hoàn, nàng có biết cảm giác phải ở dưới người khác là như thế nào không? Có biết cảm giác phải trơ mắt nhìn cảnh trong thiên hạ chỉ có một người hơn mình là như thế nào không?”
“Cho nên sau khi trừ bỏ y rồi, trong thiên hạ sẽ không còn ai hơn người nữa, đúng thế không?” Tôi thầm đau xót lẩm bẩm tự nói với mình.
“Hoàn Hoàn.” Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi. “Nàng lẩm bẩm cái gì vậy?”
“Đâu có.” Tôi mỉm cười, nói: “Hoàn Hoàn chỉ cảm thấy Lục Vương gia cũng đâu có tốt như vậy, tiên đế thương yêu Lục Vương gia không hẳn là vì Lục Vương gia cái gì cũng tốt, chỉ là vì sủng ái Thư Quý phi nên mới yêu người yêu cả đường đi mà thôi. Hơn nữa, cho dù hồi nhỏ Lục Vương gia có ưu tú thế nào, đến bây giờ cũng chỉ là một vị vương gia nhàn tản có chút tài về thi từ ca phú mà thôi.” Thoáng dừng một chút, tôi cố gắng kìm nén nỗi buồn đau khi phải nói ra những lời trái với lòng, rồi lại tiếp: “Huống chi người làm thiên tử, lúc nào cũng phải đặt chúng sinh thiên hạ lên trên hết.”
Y thở dài than: “Hoàn Hoàn, chỉ có nàng là hiểu tâm ý của trẫm nhất. Khi tin tức về cái chết của lục đệ truyền về, trẫm vô cùng buồn bã, lập tức hạ lệnh cho quan viên các phủ huyện gần sông Đằng Sa tiến hành tìm kiếm, đáng tiếc chẳng có kết quả gì. Dù sao lục đệ và trẫm cũng lớn lên với nhau từ nhỏ, y lại luôn yên phận giữ mình, không hề làm việc gì quá phận, tình cảm của trẫm với y cũng sâu sắc vô cùng.”
Tôi khẽ nói: “Lục Vương gia kỳ thực rất trung thành với Tứ lang.”
Huyền Lăng trầm ngâm trong chốc lát, rốt cuộc đã bình tĩnh lại. “Mọi việc dù sao cũng đã qua rồi, chuyện hậu sự của lục đệ trẫm ắt sẽ có an bài ổn thỏa, một vị thân vương của Đại Chu không thể chết một cách không rõ ràng như thế được.” Dừng một chút, y lại tiếp: “Cái chết của lục đệ quá nửa là có liên quan tới người Hách Hách, do đó tin tức về chuyện này nhất định phải giấu đi, sau này nếu muốn động binh với Hách Hách thì đây chính là cái cớ tốt nhất.”
Tôi cố kìm nén nỗi bi thương và căm hận nơi đáy lòng, cúi đầu dịu dàng nói: “Hoàng thượng đúng là có tầm nhìn xa vời.”
Huyền Lăng đứng dậy, lấy từ trong áo ra một cây trâm vàng hình bông hoa hồng, đó là vật mà năm xưa Huyền Lăng từng thưởng cho tôi. Cây trâm đó được điêu khắc cực kỳ tinh tế, ngay đến những đường vân trên cánh hoa và nhụy hoa cũng hết sức rõ ràng, phần đuôi lại được điểm xuyết thêm bằng mấy sợi tua nhỏ, tuy đơn giản nhưng cực kỳ quý phái. Vì được tôi yêu quý và dùng nhiều, phần thân của cây trâm còn trở nên bóng loáng.
“Năm xưa, trẫm hạ chỉ phế đi mọi danh vị của nàng, dựa theo lẽ thường, tất cả đồ trang sức và quần áo của nàng đều phải sung vào phủ Nội vụ để phân phát cho các cung tần có địa vị thấp kém. Nhưng chẳng rõ tại sao, khi đó trẫm đã hạ chỉ để nguyên mọi thứ của nàng lại trong Đường Lê cung.” Dừng một chút, trong mắt y thoáng qua vẻ bi thương. “Sau khi nàng đi, trẫm từng tới Đường Lê cung một lần, thấy ngoài Trường tương tư ra nàng chẳng mang theo gì cả, ngay đến cây trâm này cũng để lại trên bàn trang điểm.”
Tôi che mặt nghẹn ngào. “Trường tương tư là thứ mà năm xưa chính tay Hoàng thượng ban tặng cho Hoàn Hoàn, ngoài tương tư ra, những thứ vật ngoài thân khác Hoàn Hoàn có gì mà không thể vứt bỏ đây?”
Huyền Lăng dùng cây trâm vén mái tóc dài của tôi lên và cố định lại, dịu dàng nói: “Hoàn Hoàn, trẫm từng lệnh cho nàng bỏ đồ trang sức xuất gia, bây giờ hãy vì trẫm mà trang điểm lại đi.”
Tôi đưa tay chỉnh lại cây trâm một chút, làm phần mũi sắc bén của cây trâm cà nhẹ qua da đầu, kế đó liền nở nụ cười tươi. “Tứ lang nói gì Hoàn Hoàn cũng xin nghe.”
Huyền Lăng đặt tay lên bờ vai trắng ngần của tôi, nửa như bất lực nửa như cảm thán: “Nhưng Hoàn Hoàn, trên đời này có một số việc không thể thay đổi. Nàng đã rời cung rồi, chi e trẫm cũng chẳng có cách nào đón nàng về cung. Đại Chu từ khi khai quốc tới nay chưa từng có tiền lệ phế phi được trở lại trong cung bao giờ.”
Trên mặt bất giác lộ rõ vẻ buồn thương, tôi thì thầm: “Thiếp được như bây giờ thực đã hạnh phúc lắm rồi. Chỉ cần Tứ lang còn nhớ tới thiếp, thiếp sẽ không tính toán gì về danh phận đâu.” Dứt lời, tôi ngả vào lòng Huyền Lăng như một nhành dương liễu mềm mại. “Hoàn Hoàn chỉ có duy nhất một thỉnh cầu, Hoàn Hoàn thân là phế phi, có thể hầu hạ Tứ lang lần nữa đã là điều may mắn, thực không muốn các vị phi tần trong cung vì việc hôm nay mà nảy sinh những phen tranh chấp với nhau.”
Huyền Lăng khẽ mỉm cười. “Còn nói mình là phế phi nữa sao? Vừa rồi trước mặt Lý Trường và Cận Tịch trẫm xưng hô với nàng thế nào? Tuy không thể chính thức làm lễ sắc phong, nhưng những năm nay nàng chưa từng rời khỏi lòng trẫm, nàng vẫn là Chiêu nghi của trẫm như ngày nào.”
Việc xảy ra trong những năm qua, thực sự có thể một gạch xóa hết được sao? Tôi thầm cười lạnh, bốn năm trong cung, bốn năm ngoài cung, tôi và Huyền Lăng đã được ông trời định trước là sẽ có những sự dây dưa không bao giờ dứt.
Huyền Lăng nói tiếp: “Còn về chuyện tranh chấp trong cung, nàng không muốn nhìn thấy, trẫm cũng không muốn nhìn thấy nên ngay cả Hoàng hậu, trẫm cũng sẽ không cho biết việc này đâu. Sau này vấn đề ăn ở của nàng trẫm sẽ sai Lý Trường an bài ổn thỏa.”
Tôi làm bộ lưu luyến buông lời: “Chỉ cần Tứ lang còn nhớ tới Hoàn Hoàn, dù sau này Hoàn Hoàn có phải cô độc tu hành cả đời cũng sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.”
Y đưa tay tới nâng cằm tôi lên, nở một nụ cười đầy ý vị. “Hoàn Hoàn hiểu lòng trẫm như vậy, trẫm sao nỡ để cho nàng phải cô độc cả đời chứ?” Y suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Thái hậu ốm nặng chưa khỏi, trẫm sẽ hạ chỉ lệnh cho chùa Cam Lộ mỗi tháng cử hành lễ cầu phúc một lần, rồi trẫm đích thân tới đây dâng hương là được.”
Tôi thấp giọng cười, nói: “Thái hậu hồng phúc tề thiên, phượng thể sẽ sớm an khang trở lại thôi.”
Đôi môi nhẹ nhàng mơn trớn từ má xuống vai tôi, Huyền Lăng cất giọng dịu dàng: “Rồi trẫm sẽ sai chùa Cam Lộ làm pháp sự cho tiên đế, sau đó lại cầu khấn cho vận nước hưng vượng… Hoàn Hoàn, nàng gầy đi nhiều quá nhưng dung mạo còn hơn cả ngày xưa…” Giọng nói của y thấp dần, ngoài cửa sổ, hoa đào rơi lả tả như mưa, đẹp tươi rực rỡ, trong khi đó bên khóe môi tôi lại thấp thoáng một nụ cười lạnh lẽo đầy vẻ thê lương.
Khi trở lại thỉnh an lần nữa, Lý Trường mang theo khá nhiều quần áo và đồ đạc, trên mặt tràn ngập nét cười. “Lời của nô tài có đúng không nào? Hoàng thượng vẫn còn nhớ Chiêu nghi nương nương nhiều lắm, vừa về cung ngài liền sai nô tài chọn những thứ tốt nhất mang tơi đây cho nương nương.”
Tôi lúc này đang trang điểm, nghe vậy liền khẽ mỉm cười. “Đã làm phiền công công rồi, có điều cần làm thế nào để giúp Hoàng thượng giấu mọi người trong cung thì còn phải trông vào bản lĩnh của công công nữa.”
Lý Trường vội vàng nói: “Nô tài nhất định sẽ dốc hết sức mình.”
Tôi im lặng, Huyền Lăng mỗi tháng đều đến chùa Cam Lộ một lần với cớ là dâng hương cầu phúc, cho dù có giấu giếm tốt đến mấy, đám người Hoàng hậu cũng sẽ nhanh chóng phát hiện ra thôi. Tôi như vô tình như hữu ý đưa tay vuốt nhẹ bụng mình, bên khóe môi thoáng hiện một nụ cười hờ hững, chỉ cần một, hai tháng thôi, giấu được đám người trong cung một, hai tháng là đủ rồi.
Tôi ngoảnh đầu qua nhìn Lý Trường, ân cần nói: “Chuyện của huynh trưởng ta chắc Cận Tịch đã kể với công công rồi. Ta vừa gặp lại Hoàng thượng, không tiện mở miệng cầu xin điều gì, việc này đành phiền công công lựa lúc thích hợp nói với Hoàng thượng một tiếng vậy.”
Lý Trường đáp “vâng” một tiếng, đoạn cười nói: “Nô tài hiểu chứ. Chuyện này nếu nương nương mở miệng, Hoàng thượng nhất định sẽ nghi ngờ rằng trong lòng nương nương có điều mưu tính, không hề thành tâm, vậy nên nô tài sớm đã tìm cơ hội nhắc tới việc này trước mặt Hoàng thượng rồi. Hoàng thượng yêu người yêu cả đường đi, tất nhiên rất quan tâm tới huynh trưởng của nương nương, tuy bây giờ Chân công tử vẫn là người mang tội nhưng đã được Hoàng thượng phái người đón từ Lĩnh Nam về kinh chữa bệnh rồi, chắc chẳng bao lâu sau sẽ về tới nơi.”
Tôi cố kìm nén nỗi mừng rỡ trong lòng, chậm rãi đeo một cặp hoa tai phỉ thúy hình lá hạnh lên tai, cười nói: “Không biết ta nên cảm ơn tấm thịnh tình này của công công như thế nào đây?”
Lý Trường “Úi chao” một tiếng, vội vàng khom người, thưa: “Nương nương là quý nhân, nô tài đâu dám đòi nương nương ban thưởng chứ.”
Tôi bật cười một tiếng, ung dung nói: “Với địa vị của ta bây giờ, dù công công có mở miệng đòi ta thứ gì, ta cũng chưa chắc đã đưa nổi, công công đâu cần phải nôn nóng chối từ như vậy.”
Lý Trường chỉ cười mà không nói, đôi mắt lén liếc qua phía Cận Tịch đang đứng bên cạnh tôi, đoạn bưng một xấp quần áo lên, nói: “Mấy bộ quần áo này đều là do Hoàng thượng sai nô tài tới tiệm cắt may tốt nhất kinh đô đặt làm, vì sau khi quay về, Hoàng thượng có nói chiếc áo ni cô nương nương mặc hôm đó có nét đẹp rất đặc biệt, do đó bèn bảo nô tài chọn loại vải lụa màu xám bạc để làm loại áo eo thon tay rộng cho nương nương.”
Tôi khẽ mỉm cười, bảo Hoán Bích nhận lấy, nói: “Hoàng thượng quả là có lòng”, sau đó lại nhìn qua Cận Tịch bên cạnh, ung dung cất tiếng: “Chiếc áo xanh ngươi mặc hôm nay đúng là rất hợp đấy, bên trên còn thêu loại hoa nghênh xuân mà ngươi thích nữa.” Cận Tịch đưa mắt liếc Lý Trường, có chút lúng túng.
Lý Trường vội vàng cười, nói: “Cận Tịch dù có mặc gì thì cũng đâu thể đẹp bằng nương nương được.”
Tôi bất giác bật cười. “Đây đâu phải là vấn đề đẹp hay không đẹp, quan trọng nhất vẫn là tâm ý của công công.”
Lý Trường lộ rõ niềm vui. “Nô tài chẳng qua chỉ dốc hết sức mình mà thôi”, sau đó lại hơi khom người. “Nô tài thực sự vui thay cho nương nương từ tận đáy lòng.”
Tôi để yên cho Hoán Bích giúp mình chải tóc, nhắm mắt lại, khẽ nói: “Lý Trường, ngay đến ta cũng phải cảm thấy ngạc nhiên đấy, không ngờ việc này lại thuận lợi như vậy.”
Lý Trường mỉm cười vui vẻ. “Qua việc này, có thể thấy nương nương được sủng ái đến mức nào, mà Hoàng thượng cũng thật lòng thích nương nương.” Thoáng dừng một chút, y lại tiếp: “Hai người có sẵn tình ý với nhau, chỉ cần có chút xíu cơ hội là sẽ đến được bên nhau thôi, huống chi tình cảm giữa nương nương và Hoàng thượng đã trải qua bao năm tháng như vậy.”
Hai người có sẵn tình ý với nhau? Tiếng cười lạnh lùng của tôi thiếu chút nữa đã bật ra khỏi miệng, đây chẳng qua chỉ là một phen mưu mẹo mà thôi. Phải bỏ ra bao nhiêu tâm cơ để tính toán như thế, còn chỗ nào cho chân tình được?
Thế nhưng xuất hiện bên khóe miệng tôi lại là một nụ cười hết mực dịu dàng. “Sủng ái nhất thời thì có ích gì đâu. Muốn khiến Hoàng thượng lúc nào cũng nghĩ đến ta, thực còn phải trông cậy vào công công nhiều lắm!”
Nụ cười dịu dàng, đoan trang mà tôi cố giữ trên mặt lập tức trở nên lạnh lùng ngay sau khi Lý Trường rời đi. Hoán Bích biết lúc này tâm trạng tôi đang không tốt, liền kiếm cớ ra ngoài, chỉ để lại một mình Cận Tịch bầu bạn bên tôi.
Lòng tôi ngợp nỗi bi thương và hỗn loạn, liền tiện tay rút cây trâm vàng trên đầu xuống, cắm mạnh vào chiếc bàn trang điểm làm bằng gỗ, lặng im không nói gì.
Cận Tịch sợ đến giật nẩy mình, lo lắng nói: “Nương nương cẩn thận kẻo đau tay!”
“Nương nương?” Tôi khẽ cười lạnh một tiếng, nơi đáy lòng có thứ gì đó cực kỳ quý giá đã tan vỡ hoàn toàn, không thể phục hồi được nữa. Hồi lâu sau tôi mới khẽ hỏi: “Cận Tịch, ngươi có biết tại sao Thanh lại chết không?”
Mí mắt bất giác nảy lên một cái, Cận Tịch cất giọng run run: “Nô tỳ không biết.”
Nỗi đau đớn và căm phẫn bất giác trào dâng, lên tới mặt tôi hóa thành một nụ cười hờ hững, lạnh lùng tột độ, rồi tôi nói gằn từng từ: “Chiếc thuyền mà Thanh ngồi quả là đã bị người ta đụng tay đụng chân vào, nhưng Huyền Lăng…” Tôi không sao kìm nén được nỗi căm hận của mình, để nó bật ra ngoài qua kẽ răng: “Y biết rõ vùng Điền Nam không hề yên ổn, vậy mà lại sai Thanh vi hành tới đó, cho nên mới có mối họa hôm nay!” Tôi cầm cây lược trên bàn lên, nắm chặt, răng lược dày và nhọn hoắt cắm vào lòng bàn tay mang tới cảm giác đau nhói. “Cận Tịch, ta hận quá…”
Cận Tịch kéo tôi vào lòng, xót xa nói: “Dù sao chuyện cũng đã tới nước này rồi, nương nương chớ nên giày vò bản thân quá!”
Tôi đặt tay lên bụng mình, lạnh lùng cất tiếng: “Trước đây, ta còn có chút áy náy khi trở lại bên y để đứa bé này có được một danh phận đàng hoàng, nhưng giờ đây chút áy náy ấy đã hoàn toàn tan biến. Cận Tịch, tuy y không cố ý nhưng nếu không phải vì y…” Nói tới đây, một cơn choáng váng và cảm giác buồn nôn bất giác trào lên, khiến tôi nhất thời không nói thêm gì được.
Ánh mắt Cận Tịch bừng lên một vẻ kiên định tột cùng, nàng ta nắm lấy bàn tay tôi, bình tĩnh nói: “Yêu cũng tốt, hận cũng tốt, con đường này dù sao cũng vẫn phải đi tiếp, đúng không nào?”
“Đúng thế nhưng nỗi hận ít đi được chút nào, ta sẽ dễ chịu hơn chút đó.” Tôi muốn khóc mà không ra nước mắt, cặp mắt giờ đây đã cạn khô. “Cái chết của Thanh có liên quan tới Huyền Lăng nhưng ta thậm chí còn không thể nói với Hoán Bích việc này. Nhỡ cơn giận của muội ấy nổi lên, chỉ sợ còn khó kiềm chế hơn ta.”
Cận Tịch một tay giữ chặt bờ vai tôi, một tay rút cây trâm vàng trên bàn trang điểm ra, cẩn thận cắm lại lên búi tóc của tôi, khẽ nói: “Nương nương làm rất đúng, nếu nói việc này với Hoán Bích cô nương sẽ chỉ làm loạn đại cục, chi bằng không nói. Dù sao bất kể là có chuyện này hay không thì nương nương cũng vẫn phải về cung bảo toàn dòng dõi của Thanh Hà Vương. Việc gặp lại Hoàng thượng đã được tiến hành rất tốt, nhưng mới chỉ là bước đầu tiên. Đối với nương nương mà nói, thời khắc khó khăn nhất đã qua rồi, những ngày tháng sau này dù có khó khăn, vất vả đến mấy cũng vẫn phải cố gắng chịu đựng. Nếu để lộ ra sự yếu ớt dù chỉ là trong một khoảnh khắc thôi, kẻ địch sẽ có cơ hội để lợi dụng.” Nàng ta cầm lấy một cây trâm khác có hình bông hoa, cài lên búi tóc cho tôi, nói tiếp: “Việc nương nương cần làm bây giờ là giữ lấy trái tim Hoàng thượng, cho nên dù trong lòng có đau đớn và khổ sở đến mấy thì ngoài mặt cũng vẫn phải tươi đẹp như hoa.”
Người chết thì đã chết rồi, mọi nỗi khổ đau đều cần có người sống chịu đựng.
Tôi lặng lẽ ngước mắt lên, chiếc gương đồng ánh ra những tia ảm đạm mà lạnh lẽo, giống hệt ánh mắt tôi, nhưng khuôn mặt của người trong gương thì lại đẹp tươi như hoa đào.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.