18]
Trích Đăng Khoái các, Hoàng Đình Kiên. Nguyên văn Hán Việt: Trừng giang nhất
đạo nguyệt phân minh - ND.Ngày hôm sau, Huyền Lăng sai Lý Trường tới
truyền khẩu dụ cho phép tôi gọi Cố Giai Nghi vào cung hỏi han. Ngoài mệnh phụ,
gia quyến và người xuất gia, nữ tử thứ dân vào cung ắt phải thông báo tới Hoàng
hậu, huống chi Cố Giai Nghi còn xuất thân phong trần, thế mà Huyền Lăng lại chỉ
truyền khẩu dụ cho tôi, hoàn toàn không nói câu nào với Hoàng hậu.
Gió hè thổi tới mát rượi, hồ sen trước Nhu
Nghi điện sóng gợn rung rinh, giữa làn nước biếc đã xuất hiện mấy nụ sen chúm
chím, không ngớt đung đưa, toát ra một vẻ dịu dàng, tha thướt khó mà miêu tả
bằng lời.
Còn Cố Giai Nghi lúc này đang chậm rãi bước
qua cầu đi tới chỗ tôi.
Đây là lần thứ hai tôi nhìn thấy Cố Giai
Nghi, nhưng là lần đầu tiên nhìn rõ bộ dạng của cô ta. Lúc cô ta xuất hiện, tôi
căng thẳng đến nỗi gần như ngừng thở, có lẽ vì bao năm qua đều sống ở chốn khói
hoa, trong vẻ đẹp đằm thắm của cô ta thấp thoáng mấy nét phong trần, vậy nhưng
lại không hề khiến người ta cảm thấy dơ bẩn, còn mông lung như một làn khói
ráng lúc bình minh. Kỳ thực nếu chỉ thoạt nhìn cũng khó có thể nói là cô ta đẹp
đến cỡ nào, có điều cái thần thái ưu sầu, xót xa kia sẽ bất giác lộ ra mỗi khi
cô ta đưa mắt ngó quanh, trong sự xinh đẹp yêu kiều lại mang theo mấy phần tâm
sự, dáng vẻ đó thực giống với An Lăng Dung lúc mới vào Chân phủ. Nhưng cô ta
với An Lăng Dung cũng có chỗ khác biệt, đó là nơi đáy mắt cô ta mang đầy vẻ
kiên nghị và quật cường, khiến người ta không cách nào xem nhẹ.
Nhìn thấy tôi rồi, cô ta chẳng qua chỉ nhún
người hành lễ, cất giọng hờ hững: “Thục phi nương nương vạn phúc kim an.”
Tôi gật đầu, nói: “Cố cô nương ngồi đi.”
Vì đây là việc hệ trọng của gia đình, do đó
cả Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu đều có mặt. Ngọc Ẩn phất tay áo một cái, khẽ nói: “Cố
cô nương xưa nay vẫn luôn có rất nhiều nhã khách, muốn triệu cô nương vào cung
một lần cũng chẳng dễ dàng gì.” Sau đó lại sai Phân Nhi bưng một khay vàng tới.
“Chỗ này coi như là một chút đền bù cho cô nương.”
Cố Giai Nghi chẳng buồn ngó qua lấy một
lần, dường như không hề để vàng bạc vào trong mắt, chỉ hơi khom người. “Đa tạ
Ẩn phi.” Ngọc Ẩn là trắc phi của thân vương, theo quy củ thì chỉ có chính phi
mới được gọi là vương phi hoặc là thêm họ vào phía trước để gọi, nhưng nếu trực
tiếp gọi là trắc phi thì lại có phần thất lễ, do đó mới phải chọn một chữ trong
khuê danh của trắc phi để gọi nhằm tỏ ý tôn trọng, chẳng hạn như Vưu Tĩnh Nhàn
thì thường được mọi người gọi là Tĩnh phi. Cố Giai Nghi xưng hô Ngọc Ẩn như vậy
đủ thấy cô ta khá hiểu về cái đạo đối nhân xử thế.
Tôi khẽ hỏi: “Cô nương bây giờ vẫn trú thân
ở Lưu Hoan các ư?”
Cố Giai Nghi mỉm cười điềm đạm. “Hạng người
như dân nữ thực chẳng thể vào được nhà nào tử tế, thành ra cứ ở lại Lưu Hoan
các vẫn là tự do tự tại nhất.”
Ngọc Ẩn nói: “Cô nương diễm danh vang xa,
muốn hoàn lương thì đâu thiếu các vương tôn công tử để lựa chọn.”
Hai mắt cô ta bỗng rực sáng. “Thục phi
nương nương hẳn vẫn chưa quên, khi xưa từng có một vị Chân công tử qua lại với
dân nữ rất lâu, trong thành không ai là không biết, vậy mà cuối cùng dân nữ vẫn
chẳng thể hoàn lương, qua đó đủ thấy dân nữ chỉ có diễm danh chứ kỳ thực chẳng
khác gì tàn hoa bại liễu.”
Lòng tôi trầm hẳn xuống. “Cô nương rất oán
hận vị công tử đó đúng không? Với tính tình cương liệt của cô nương, gặp phải
hạng nam tử có mới nới cũ tất nhiên cần phải trút giận một phen mới có thể hả
lòng hả dạ.”
Ngọc Ẩn thì không kìm được cơn kinh hãi và
tức giận, trừng mắt nhìn Cố Giai Nghi, run giọng nói: “Cho nên cô không hại y
tan cửa nát nhà thì không cam tâm chứ gì?”
Cô ta chỉ cười hờ hững. “Nếu nương nương bị
người ta phụ tình, không biết sẽ xử trí ra sao đây?”
Tôi khẽ đáp: “Nói một lời đoạn tuyệt, suốt
đời mãi lìa xa.” Sau đó lại cười xót xa. “Thế nhưng chuyện trên thế gian này
thường chẳng bao giờ đơn giản như thế.”
Cô ta khẽ gật đầu, chậm rãi nói: “Ta vừa
mới ra đã bị tú bà mua về, từ nhỏ đã được yêu quý rất mực, ăn mặc chi tiêu
chẳng kém gì thiên kim tiểu thư, muốn thứ gì là có thứ đó, cũng chẳng bị đánh
bị mắng bao giờ, thành ra trước giờ vẫn luôn mắt cao quá trán, xem thường thiên
hạ. Tú bà làm như vậy thứ nhất là vì không muốn ta bị hỏng dung mạo và vóc
dáng, thứ hai là để bồi dưỡng khí chất cho ta, thứ ba là muốn ta không có chút
cảm giác tự ti nào, như thế sau này mới có thể trở thành con gà đẻ trứng vàng
cho bà ta được. Có điều ta sống giữa chốn khói hoa, tất nhiên biết rõ hoan
trường chẳng có chân tình, sớm đã không coi tình cảm nam nữ là thật, cũng chẳng
để bất cứ nam tử nào vào trong mắt. Ngày đó Quản đại nhân Quản Lộ bỏ ra ngàn
vàng để gặp ta, còn dẫn theo một người khác tới, chính là huynh trưởng của Thục
phi, sau đó liền cùng ta làm một cuộc trao đổi.” Cô ta hơi dừng một chút, đôi
hàng lông mi hấp háy tựa như hai cánh bướm. “Ban đầu chẳng qua là vì thù lao ba
vạn lạng bạc trắng, lại thấy mặt mũi Chân công tử không đến nỗi khó coi, còn
khá có tài học, do đó ta mới miễn cưỡng đồng ý chuyện này.”
Ngọc Ẩn hơi cau mày lại. “Đã nhận bạc rồi
còn nói cái gì mà miễn cưỡng với không miễn cưỡng, thực là giả dối quá chừng.”
Cố Giai Nghi cười nhạt, nói: “Sau khi nhận
bạc, quãng thời gian đó sẽ chỉ được qua lại với một nam tử, nếu y mặt mũi khó
coi, đáng ghét há lại chẳng vô vị lắm ư? Huống chi còn phải tung ra tin đồn sẩy
thai mất mặt kia nữa.”
Ngọc Nhiêu tặc lưỡi nói: “Ta vẫn luôn ngỡ
rằng chuyện sẩy thai đó là thật, vì mất con lại không được gả vào Chân phủ nên
cô mới căm hận ca ca.”
“Làm sao lại thế được.” Cô ta cúi đầu để lộ
mấy tia thương cảm. “Ngoài những lúc bắt buộc phải diễn kịch ra, y thậm chí còn
chưa đụng vào ta lần nào. Tuy y luôn ở cạnh ta, tuy y đối xử với ta rất tốt,
tuy bề ngoài y đã hoàn toàn đoạn tuyệt quan hệ với thiếu phu nhân, nhưng kỳ
thực không có ngày nào mà y không nhớ thiếu phu nhân và đứa bé.” Trên mặt cô ta
thoáng qua một nét ửng hồng, nhìn hệt như một bông hợp hoan đang từ từ hé nở.
“Ta chưa từng gặp một nam tử nào như thế, y khiến ta sinh lòng ái mộ. Ta bắt
đầu hy vọng lời đồn sẽ trở thành sự thật, hy vọng y sẽ làm như đã tuyên bố với
bên ngoài, đó là cưới ta về làm thiếp.”
Tôi cúi đầu, nói: “Ca ca ta quả thực hết
sức thương yêu tẩu tẩu.” Sau đó lại khẽ lẩm bẩm: “Có lúc ta cũng từng hoài nghi
có lẽ trong lòng huynh ấy có người khác, hóa ra không phải vậy.”
Cố Giai Nghi bất giác run rẩy đôi mi.
“Nương nương cũng từng hoài nghi ư? Ta quả thực cũng có mối nghi ngờ như vậy, công
tử có bệnh đau răng, mỗi lần cắn búp đinh hương để ngăn cơn đau hoặc là khi
nhìn những cành trúc đào ngoài cửa sổ, y đều có vẻ trầm ngâm buồn bã, vẻ mặt đó
không giống như là vì việc công.”
Ký ức bất giác hiện về trước mắt tôi, đã
rất lâu, rất lâu trước đây, khi ca ca vào cung thăm tôi thì bị đau răng, An
Lăng Dung liền cười tủm tỉm, nói: “Trong các thứ nguyên liệu dùng để phối chế
Bách Hợp hương, có một loại là Đinh Tử hương được chế thành từ búp đinh hương,
ngậm vào miệng có thể ngăn cơn đau răng, không những không đắng mà còn rất thơm
nữa, công tử có thể thử một chút xem.”
Quả nhiên, quả nhiên là có những sợi tơ
tình không thể nào nói rõ.
Cố Giai Nghi dần bình tĩnh trở lại, chậm
rãi nói tiếp: “Ta vẫn luôn hy vọng mỏi mòn, và rồi cuối cùng chuyện lớn bên
ngoài cũng kết thúc, thế nhưng...” Cô ta thở dài buồn bã. “Công tử đối xử với
ta quả thực rất tốt, đã chuộc thân cho ta, đáng tiếc lại không phải là để cưới
ta về làm thiếp, chỉ bảo ta sau này hãy cố gắng sống cho tốt. Nhưng nếu không
thể ở bên nam tử mà mình yêu, hoàn lương thì có ích gì đây? Ta liền trở về Lưu
Hoan các sống tiếp cuộc sống say sưa mộng mị như trước đây.”
“Cho nên cô mới vì yêu sinh hận, muốn trả
thù nhà họ Chân ta ư?”
Cô ta khẽ lắc đầu. “Ca ca Thục phi chỉ
không thích ta mà thôi, ta đâu có lý gì lại đi hại y, ta sinh lòng oán hận là
vì một việc khác!” Cô ta chậm rãi kể. “Có một hôm, Quản Lộ tới chỗ ta uống
rượu, uống rất nhiều, trong cơn say, y lấy một bức họa ra cho ta xem.” Trên đôi
hàng lông mày của cô ta dần lộ ra một tia ưu thương. “Đó là bức họa vẽ hình một
nữ tử vận cung trang, mà người bên trên rõ ràng chính là An Phương nghi đang
được Hoàng thượng rất mực sủng ái. Y nói, An Phương nghi trước khi vào cung
từng ở trong Chân phủ một thời gian và quen biết Chân công tử; y nói, y từng
nghe Chân công tử kể ta và An Phương nghi trông rất giống nhau, từng đặc biệt
nhờ họa sư trong cung vẽ một bức tranh mang ra ngoài; y nói, An Phương nghi
thực sự có mấy phần giống ta. Ta thấy trên khăn tay và áo váy của nữ tử trong
tranh đều có thêu hình trúc đào, không kìm được thầm sinh lòng tò mò, y liền
nói với ta, An Phương nghi vốn thích trúc đào nhất. Ta rốt cuộc đã hiểu ra tại
sao khi xưa y lại chọn ta giúp y hoàn thành đại sự, không phải là vì ta diễm
danh vang xa, càng không phải là vì Chân công tử thích ta, mà vì trông ta giống
với vị An Phương nghi đó, y không đụng tới ta không chỉ là vì thiếu phu nhân,
còn là vì vương vấn An Phương nghi nữa. Thiếu phu nhân thì thôi cũng đành, dù
sao cũng là thê tử kết tóc của y, nhưng còn An Phương nghi thì sao? Cô ta là
phi tử của Hoàng thượng. Ta ở bên y suốt một thời gian dài, lại đối xử với y
tốt như thế, không ngờ ngay tới một An Phương nghi ở mãi trong thâm cung cũng
không bằng được!”
Ngọc Ẩn không kìm được lộ vẻ giận dữ. “Thế
là cô liền hãm hại nhà họ Chân ta như thế đúng không?”
Cố Giai Nghi đau xót nói: “Ngày đó ta đang
cơn giận, Quản Lộ lại nói với ta là Chân công tử sau khi bình định Nhữ Nam
Vương thì kiêu căng, ngạo ngược, kéo bè kết cánh, hơn nữa trong hôm cầm quân
tới tấn công phủ Nhữ Nam Vương còn mấy lần tỏ thái độ chần chừ. Khi đó ta nghe
mà vô cùng kinh hãi, rồi y còn nói Hoàng thượng đã nổi lòng nghi ngờ và trách
phạt người muội muội ở trong cung của Chân công tử, còn ta và Chân công tử thì
đã từng gây ầm ĩ một hồi, dù chỉ là đóng kịch nhưng người khác cũng sẽ cho rằng
là thật, đến khi đó, nếu Hoàng thượng truy xét thì không chỉ mình ta mà ngay
đến các tỷ muội và tú bà ở Lưu Hoan các cũng không thể nào toàn mạng. Ta từ nhỏ
đã sống ở Lưu Hoan các, tuy tú bà nuôi ta là vì tiền tài nhưng cũng có ơn dưỡng
dục nhiều năm, lại còn các tỷ muội ở Lưu Hoan các nữa, bọn họ đều vô tội.”
“Sau đó, hắn liền nói với cô là nếu cô chịu
đứng ra tố cáo thì mọi người trong Lưu Hoan các sẽ đều được an toàn đúng
không?”
“Đúng vậy.” Cô ta cúi gằm mặt, vẻ lạnh
lùng, kiêu ngạo ban đầu dần biến mất. “Ta tự biết mình xuất thân thấp kém, bình
sinh hận nhất là bị người khác coi thường, do đó trong cơn tức giận đã phạm
phải sai lầm lớn. Phải tới ba năm sau khi nhà họ Chân xảy ra chuyện, ta mới dần
biết được thì ra có rất nhiều việc ta đã hiểu lầm, thế nhưng sai thì cũng đã
sai rồi, ta không biết phải làm sao mới có thể bù đắp được.”
Tôi thổn thức nói: “Cô quả có hồ đồ nhưng
cũng là vì tình mà ra. Lúc xưa nếu là người khác đứng ra tố cáo chưa chắc Hoàng
thượng đã tin, tiếc rằng lại là cô.” Tôi cố nén cơn giận trong lòng, nhẹ nhàng
nói tiếp: “Có điều, ta vẫn phải cảm ơn cô vì đã chăm sóc cho ca ca ta.”
Cô ta hơi nhướng mày. “Nương nương cũng
biết việc ấy ư?”
“Sau khi ca ca thần trí thất thường, ta
từng tới thăm huynh ấy một lần, đám người gác cửa nghe thấy động tĩnh còn tưởng
là Cố tiểu thư, ngoài Giai Nghi cô nương ra chắc ca ca ta không quen biết vị Cố
tiểu thư nào khác.”
Cố Giai Nghi gượng cười thê lương. “Công tử
biến thành bộ dạng như bây giờ hoàn toàn là do một tay ta gây ra, ta chỉ còn
biết cố hết sức bù đắp thôi.” Trong mắt cô ta rưng rưng ánh lệ. “Vị công tử hào
hoa, tuấn tú trước đây không ngờ lại trở nên như vậy, đó quả thực là lỗi của
ta. Nhưng năm xưa khi ta nóng giận thật sự chưa từng nghĩ tới hậu quả này. Ngày
Chân công tử bị lưu đày, ta nghe nói thiếu phu nhân và tiểu công tử đột ngột
qua đời, còn từng cất công đi nghe ngóng tin tức một phen.”
Tôi bất giác lòng thầm máy động, nôn nóng
hỏi: “Ồ? Tẩu tẩu với Trí Ninh có đúng là đã chết vì sốt rét không?”
“Ta có hỏi tên ngỗ tác khám nghiệm tử thi
rồi, quả đúng là chết vì sốt rét.” Cô ta trầm ngâm nói. “Mùa đó vốn hiếm khi
xuất hiện bệnh sốt rét, ta không khỏi sinh nghi, sau khi mua chuộc ngỗ tác thì
được biết trong căn phòng giam giữ thiếu phu nhân và tiểu công tử có một con
chuột chết vì sốt rét, mà trên người thiếu phu nhân và tiểu công tử đều có rất
nhiều dấu vết bị chuột cắn, trông thê thảm vô cùng.”
Tôi đau xót tột cùng, đồng thời cũng cảm
thấy việc này cực kỳ khả nghi. “Sốt rét là bệnh rất dễ truyền nhiễm, nếu có một
con chuột mắc bệnh ắt sẽ lây lan rất nhanh. Vậy trong nhà lao còn có ai khác bị
sốt rét nữa không?”
Cố Giai Nghi lắc đầu. “Không. Ngoài thiếu
phu nhân và tiểu công tử vốn bị nhốt riêng, không ai khác bị lây bệnh cả.”
Toàn thân tôi run lên lẩy bẩy, cơ hồ không
dám nghĩ tiếp, Ngọc Nhiêu thì đã khóc không thành tiếng. “Đại tỷ tỷ, con chuột
đó chắc chắn là do người ta cố ý thả vào để cắn Trí Ninh và tẩu tẩu. Bọn họ...
bọn họ thật độc ác quá!”
Tôi nắm chặt hai tay, móng tay cắm sâu vào
trong da thịt. “Là Quản Lộ đúng không?”
Cố Giai Nghi nói ngay: “Không phải, khi đó
y chỉ biết là thiếu phu nhân và tiểu công tử đã qua đời chứ không biết là qua
đời như thế nào, ta đã thử thăm dò vài lần, y quả thực không liên quan gì tới
chuyện này.”
“Nhà họ Chân năm xưa nhà tan cửa nát, cha
mẹ ta đã già mà còn bị biếm đến đất Xuyên Thục, ca ca tới Lĩnh Nam rồi vẫn bị
kẻ gian hãm hại đến nỗi phát điên, tẩu tẩu và Trí Ninh thì chết thảm. Cô nương
đã tận mắt nhìn thấy tấn thảm kịch của nhà họ Chân, lại biết rõ bên trong kỳ
thực có rất nhiều điều giả dối, vậy ta xin hỏi cô nương, cô nương có bằng lòng
sửa chữa sai lầm ngày trước không?”
Cô ta suy nghĩ một chút rồi đáp: “Hôm nay
ta đã chịu tới đây rồi, nương nương muốn hỏi gì xin cứ tự nhiên.”
“Huynh đệ Quản Lộ vốn giao hảo với ca ca ta
nhưng đột nhiên trở mặt, bị lợi ích làm mờ mắt cố nhiên là một nguyên nhân,
nhưng sau lưng hắn nhất định vẫn còn người khác. Cô nương đã từng qua lại với
Quản Lộ, có biết người đó là ai không?”
“Từ đầu chí cuối đều là Quản Lộ liên hệ với
ta, tuy cũng từng nghe nói hắn có dính dáng tới vị quý phụ nào đó trong cung,
nhưng rốt cuộc là ai thì ta cũng không rõ.”
“Cô nương thật sự không rõ?”
“Ta đã hổ thẹn với Chân công tử lắm rồi,
thực không dám nói dối nửa câu.”
Tôi chăm chú nhìn cô ta một lát, sau đó
liền đưa giấy bút tới. “Vừa rồi cô nương nói là bằng lòng sửa chữa sai lầm ngày
trước, vậy cô nương có chịu viết lại việc năm xưa Quản Lộ từng dùng những thủ
đoạn cả cứng lẫn mềm ép cô nương vu cáo nhà họ Chân không?” Tôi nhìn cô ta chăm
chú. “Ta không ngại nói với cô nương, nhà họ Quản kiêu căng, ngang ngược, trong
triều đã có rất nhiều người bất mãn và sinh lòng hoài nghi về việc nhà họ Chân
bị oan năm xưa, bây giờ mọi việc đều đã đủ cả, chỉ còn thiếu ngọn gió đông là
lời làm chứng từ phía cô nương thôi.”
Cố Giai Nghi hơi trầm ngâm rồi không cầm
bút lên mà rút cây trâm vàng trên đầu xuống đâm vào đầu ngón tay, cúi đầu viết
huyết thư.
Ngọc Ẩn nhìn tôi cười khẽ, đôi hàng lông
mày nhíu chặt dãn ra mấy phần.
Viết xong huyết thư, Cố Giai Nghi liền khẽ
cười tự giễu: “Viết bằng mực thì khó bề phân biệt thật giả, bức huyết thư này
hy vọng có thể khiến bọn họ tin ta thêm mấy phần.”
Tôi gật đầu đón lấy. “Trong việc lần trước
cô nương vướng mối hiềm nghi vu cáo mệnh quan triều đình, chỉ e vì nhà họ Quản
mà cô nương cũng sẽ bị liên lụy. Song ta sẽ nói rõ với Hoàng thượng việc cô
nương bị bức ép, mong là ngài sẽ mở lượng khoan hồng.”
Ngọc Ẩn nói: “Còn có một cách nữa, đó là cô
nương hãy về làm thiếp cho ca ca ta, như thế mọi sự trách phạt đều có thể miễn
được.”
Cố Giai Nghi mỉm cười một tiếng, sắc mặt
toát ra vẻ hết sức thản nhiên. “Nếu ta trở thành thiếp của công tử, người khác
làm sao chịu tin vào lời làm chứng của ta. Huống chi ta cũng đâu còn mặt mũi
nào để về bên công tử nữa.” Rồi cô ta ngẩng đầu nhìn tôi. “Công tử bây giờ đã
đỡ hơn chút nào chưa?”
Tôi vui vẻ gật đầu. “Đỡ hơn nhiều rồi, đã
nhận ra được hết mọi người, chỉ là nếu huynh ấy khôi phục ký ức về những chuyện
năm xưa thì e rằng sẽ rất đau khổ.”
Cô ta khẽ nở nụ cười, vẻ diễm lệ tỏa ra tứ
phía, nhưng bên trong đó lại thấp thoáng mấy nét thê lương. “Ta còn dám đi thăm
công tử là vì biết rằng công tử không nhận ra ta, nhưng bây giờ công tử đã có
chuyển biết tốt như thế, ta đâu còn mặt mũi nào mà gặp lại y. Chờ sau khi việc
này xong xuôi, ta sẽ rời đi, không để công tử phải khó xử.” Nói tới đây, cô ta
liền quỳ xuống bái lạy. “Trước đây nếu có lỗi lầm gì, hy vọng rằng lần này ta
có thể bù đắp được hết.”