Văng
vẳng tiếng oanh, chẳng đặng quay về
Lý Trường sớm đã đi trước an bài sẵn tất
thảy, Chân Hành lặng lẽ bước theo sau một gã tiểu thái giám trên con đường nhỏ
vắng vẻ vô cùng.
Xuyên qua mấy rặng liễu bụi hoa, có thể
nhìn thấy mấy ả cung nữ đang đi theo Lý Trường càng lúc càng xa dần. Lý Trường
nói: “Ngói ở Cảnh Xuân điện lỏng ra rồi kìa, lỡ như rơi xuống thì thật là không
hay chút nào. Các ngươi mau đi mang một ít ngói lưu ly tới đây, chờ sáng ngày
mai thì thay ngói cho cẩn thận.”
Một ả cung nữ lanh lợi chợt cất giọng: “Còn
không mau làm theo lời công công đi, tay chân nhớ nhanh nhẹn một chút đấy.”
Ả cung nữ đó chắc vẫn còn trẻ tuổi, giọng
nói nghe trong trẻo như tiếng chuông bạc, nơi góc áo của bộ đồ cung nữ màu hồng
lấp lánh ánh lên những tia sáng màu xanh, trông cũng khá thú vị. Y ngẩn ngơ
thầm nghĩ, nếu năm đó nàng ta không bị chọn làm tú nữ mà trở thành cung nữ, cho
dù có vất vả một chút thì đến năm hai mươi lăm tuổi cũng sẽ được cho rời khỏi
cung. Tới khi đó rồi thì tha hồ trời xanh nước biếc, chẳng cần phải sống trong
một bầu không khí vất vả và nặng nề như thế này nữa.
Nếu không ở trong cung, lúc này nàng ta có
lẽ đã con cái thành đàn. Dưới ánh dương thu dìu dịu như lúc này đây, nàng ta sẽ
ngồi thêu một bức hình uyên ương hồ điệp, thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu qua nói
cười với phu quân của mình vài câu, lúc thì quay qua dỗ dành mấy đứa con ngoan
ngoãn.
Vậy nhưng lúc này đây, ngay đến một cung nữ
nhỏ bé cũng vui vẻ và hạnh phúc hơn nàng ta rất nhiều.
Những người kia đã dần đi xa khuất bóng,
thế nhưng y vẫn đứng đó ngẩn ngơ. Ánh dương buổi chiều vốn cực kỳ ấm áp, thế
nhưng trên lưng y lại rỉ đầy mồ hôi làm ướt đẫm chiếc áo lót đang mặc trên
người. Thấy y cứ thẫn thờ như thế, gã tiểu thái giám kia liền khẽ gọi một
tiếng: “Công tử.”
Y lập tức tươi cười đáp lại: “Hoàng cung
lớn quá, ta đi lâu rồi nên có hơi mệt.”
Gã tiểu thái giám cười trừ, nói: “Dạ phải,
trước đây Hoàng thượng sủng ái Ly Phi, cố ý chọn một tòa cung điện có phong
cảnh đẹp, do đó đường đi mới hơi xa một chút.” Đi thêm chừng một tuần hương
nữa, dõi mắt nhìn về phía xa đã có thể nhìn thấy bức tường màu đỏ sẫm của
Trường Dương cung. Đó là một nơi vô cùng tịch mịch, hồ Thái Dịch nhẹ đưa gợn
sóng ở ngay sát kề bên, những gốc liễu phất phơ khẽ rủ, mấy con chim màu vàng
kim đang nghỉ chân trên cành thỉnh thoảng lại hót lên một tiếng, rồi lại thêm
tiếng nữa, có điều những tiếng chim hót ấy lại càng khiến cho khung cảnh nơi
đây thêm phần tịch mịch, đi tới gần rồi ai cũng cảm nhận được một sự nặng nề vô
hạn.
Trước cửa cung có mấy gã thị vệ đang đứng
tựa lưng vào tường mà gật gù chợp mắt, bộ dạng hết sức uể oải. Gã tiểu thái
giám kia khẽ xua tay ra hiệu với bọn hắn, ngầm bảo bọn hắn chớ lên tiếng, sau
đó thì đi vòng tới một ô cửa ngách nhỏ ở mãi phía sau, lấy chìa khóa ra mở cửa.
Y không khỏi có chút thấp thỏm bất an, đây
mới là lần đầu tiên y đặt chân vào cung điện của một phi tần khác ngoài muội
muội của mình trong chốn hoàng cung này. Đây là cung điện của nàng ta, có lẽ
lúc này y đi vào như thế, đối với Thiến Đào là một sự phản bội.
Thế nhưng y thật sự có rất nhiều điều nghi
vấn muốn hỏi nàng ta, nhiều vô kể. Suốt bao ngày đêm, những điều nghi vấn ấy
như siết chặt trái tim y, khiến y không sao thở nổi. Bóng dáng ngây thơ, e thẹn
của nàng ta trong ký ức cùng với bóng dáng tàn độc, dữ dằn như rắn rết trong
tưởng tượng của y không ngừng đan xen vào nhau, không ngừng cào xé y và Thiến
Đào, ngay cả trong lúc thần trí mơ hồ y cũng chưa từng cảm thấy bối rối như
vậy.
Vừa bước chân qua cửa, một mảng màu hồng
lập tức đập vào mắt y, rạng rỡ vô cùng, khiến y thiếu chút nữa đã cho rằng đó
là những bông hoa đào thắm đượm sắc xuân. Chợt gã tiểu thái giám kia cất tiếng
nhắc nhở: “Công tử cẩn thận, phấn hoa trúc đào có độc đấy.”
Y giật mình tỉnh táo trở lại, hóa ra loài
hoa giống với hoa đào này là trúc đào, diễm lệ nhưng có độc.
Gốc chuối trong sân sớm đã lụi tàn, trở nên
đen thui và mềm oặt đổ qua một bên, từ chỗ bị gãy gập còn rỉ ra một thứ chất
dịch màu vàng ảm đạm. Giữa nơi cung điện hoa lệ đột nhiên xuất hiện một cảnh
tượng như thế khiến y không khỏi giật mình thảng thốt, tự nơi đáy lòng bất giác
sinh ra một tia xót thương khó nói bằng lời, không biết lát nữa gặp lại, bộ
dạng của nàng ta sẽ thê lương tới mức nào đây.
Y do dự trong chốc lát, cuối cùng vẫn bước
chân qua cửa điện mà đi vào phía trong. Cảnh Xuân điện lúc này rất tối tăm,
nhưng sự tối tăm đó lại không hề ảm đạm, thỉnh thoảng vẫn có một vài tia sáng
lóe lên từ nơi tăm tối, trông hệt như ánh sao lấp lánh giữa trời đêm. Y tỉ mỉ
nhìn kĩ, phát hiện những tia sáng đó hóa ra có nguồn gốc từ mấy sợi chỉ bạc
được dùng để thêu bức hình Hòa Hợp nhị tiên bên trên tấm rèm buông lững lờ giữa
điện. Nghĩ tới việc đó vốn là bức hình được dùng để chúc mừng khi người ta có
con, y bất giác thầm chua xót trong lòng, nhớ lại một chuyện mà Hoàn Nhi đã nói
với mình: An Lăng Dung vĩnh viễn không thể nào sinh nở được nữa.
Khó khăn lắm mới thích ứng được với sự tối
tăm trong điện, y chợt nhìn thấy những món đồ xung quanh đều là trân phẩm
thượng hạng, trong đó còn không thiếu những loại kỳ trân dị bảo, tất thảy đều
được đặt tùy tiện trên bàn hoặc trên giá, không có vẻ gì là trịnh trọng. Nơi
chính giữa điện có đặt một bức bình phong làm bằng ngọc phỉ thúy, bên trên có
hình thêu Lạc thần phú đồ, thực là
một vật giá trị liên thành. Y là nam tử, vốn không hiểu lắm về mấy thứ này, có
điều khi xưa từng một lần nghe muội muội kể rằng sau khi Ngụy Văn Đế chết thì
sủng phi Tiết Dạ Lai bị đuổi về cố hương, có một lần vô tình đọc được bài Lạc thần phú của Tào Thực, nhớ lại quãng
thời gian ở trong cung, thầm cảm kích ơn đức của cố hậu Chân Mật, bèn lấy tướng
mạo của Chân Mật mà thêu ra bức tranh Lạc thần đồ này, lại thêu vào bên cạnh
bài Lạc thần phú nữa. Tiết Dạ Lai vốn
được xưng tụng là Trâm Thần[42], do đó bàiLạc thần phú được thêu bằng chỉ đen theo lối chữ Thảo thực là tinh
diệu vô cùng, nét chữ có đậm có nhạt, uốn lượn bay bổng, hoàn toàn không khác
gì viết bằng bút mực. Có thể nói trên đời này, bức bình phong kia chỉ có một
cái duy nhất, chính là một món bảo vật vô giá.
[42]
Trâm là cây kim, đặt biệt hiệu như vậy là chỉ người này giỏi về nghề thêu thùa,
may má - ND.
Thấy y để lộ thần sắc nghi hoặc, gã tiểu
thái giám kia vội cười trừ, nói: “An thị tuy thất sủng nhưng Thái hậu đã dặn dò
rồi, mọi đồ đạc trong Cảnh Xuân điện cứ để nguyên đó, coi như là đồ tùy táng
của thị ở nơi này.” Gã khẽ lắc đầu rồi nói tiếp bằng giọng thương hại: “An thị
thật đáng thương, bây giờ đã chẳng còn ai hầu hạ nữa, ngày ngày phải ở bên một
đống đồ vật chết, sống như thế thì còn có ý nghĩa gì cơ chứ!”
Y nghe thấy vậy thì không kìm được thầm
chấn động trong lòng, nhưng lại chẳng thể nói gì, chỉ ngẩn ngơ dõi nhìn bức
bình phong đó. Y không giỏi đánh giá về tài thêu thùa, không biết hình thêu như
thế là đẹp hay xấu, chỉ cảm thấy dáng đi của vị nữ thần sông Lạc bên trên đó
thật là tha thướt vô cùng, chừng như sắp bước ra khỏi bức bình phong mà đi về
phía mình.
Hồi đó khi nghe muội muội kể về chuyện này,
y đã thầm để tâm, nghĩ Lăng Dung rất giỏi thêu thùa, nếu được nhìn thấy bức
hình thêu đó thì ắt sẽ rất thích. Có điều y cũng chỉ thầm nghĩ vậy mà thôi, một
thứ báu vật giá trị liên thành như thế thì y làm sao mà có nổi, cũng giống như
nàng ta sau khi đã vào cung và trở thành nữ nhân của Hoàng đế vậy, chỉ thỉnh
thoảng mới lóe hiện lên trong những giấc mơ giữa đêm khuya thanh vắng của y.
Chẳng ngờ thứ đó bây giờ lại thật sự đã
thuộc về nàng ta, đủ thấy những năm qua nàng ta được sủng ái tới mức nào. Tuy y
không được tận mắt nhìn thấy nhưng các nữ tử nơi hậu cung đa phần đều xuất thân
thế gia, còn nàng ta thì chỉ là con gái của một Huyện thừa, thân phận thực là
vô cùng thấp kém, thế mà lại có thể khởi đầu từ ngôi vị tuyển thị mà từng bước
đứng vào hàng tam phi như vậy, quả là chẳng dễ dàng gì.
Có điều giờ đây nàng ta bị giam cầm giữa
một nơi chẳng khác gì lãnh cung, mọi sự phồn hoa xưa đều hóa thành giấc mộng,
ngẫm kĩ ra mới thấy nực cười biết bao nhiêu.
Y khẽ thở dài một hơi.
Âm cuối của tiếng thở dài giống như một làn
gió mát, còn chưa tan đi thì phía sau bức bình phong đã có bóng người lay động
rồi. Y chờ một hồi lâu mà không thấy có ai đi ra, sau một hồi do dự đành cất
bước đi vào. Phía sau bức bình phong là một gian phòng rất rộng rãi, chính là
nơi đãi khách. Nàng ta ngồi ngay dưới ô cửa sổ trổ hoa, đôi tay thon đưa đi
thoăn thoắt, vô số sợi chỉ màu ngũ sắc liền giống như những cánh bướm bay lượn
nhẹ nhàng trên tấm vải trắng. Nàng ta hôm nay mặc một chiếc váy dài màu nâu
vàng, mái tóc không hề búi lại mà buông xõa ra như một nữ tử còn chưa xuất giá,
gió vừa thổi đến là lất phất tung bay, bên chỗ tóc mai có cài một chiếc trâm
bạc đơn giản, tư thế thực là dịu dàng điềm đạm vô cùng, hệt như hồi mà y mới
gặp. Cây trâm ấy y từng nhìn thấy từ xưa, hồi còn ở nhờ trong Chân phủ, nàng ta
ngày nào cũng chỉ cài duy nhất một chiếc trâm đó, ngay đến y phục cũng thường
mặc loại có màu sắc như hiện giờ, có điều về mặt chất liệu và kiểu dáng thì
đương nhiên không thể nào so sánh được.
Nàng ta của năm xưa đẹp tựa hoa đào, chính
là một bông hoa đào vừa hé nở dưới sương đêm gió nhẹ.
Khi y còn đang ngẩn ngơ giữa dòng hồi ức,
nàng ta chợt ngẩng đầu lên, khẽ cất tiếng gọi y với một nụ cười thấp thoáng bên
khóe miệng: “Chân công tử.”
Chân Hành hơi sững người, trái tim đập
thình thịch, không ngờ nàng ta lại dùng lối xưng hô giống hệt năm xưa. Thế
nhưng giờ đã chẳng còn là năm xưa nữa rồi, chỉ sau một thoáng y đã tỉnh táo trở
lại, lập tức chào hỏi theo đúng lễ nghi: “Ly Phi nương nương kim an!”
Nàng ta dừng động tác trên tay, chợt mỉm
cười, nói: “Ta vẫn coi công tử như trước kia, sao công tử lại gọi ta là “nương
nương” như thế?” Giọng nàng ta nghe mềm mại tựa như làn gió tháng Ba. “Có phải
công tử thấy ta đã già rồi, không còn giống trước kia nữa không?”
Chân Hành cúi đầu, nói: “Lễ chế là vậy,
thần không thể không tuân, quyết chẳng dám mạo phạm nương nương.”
Nàng ta mỉm cười nhìn y, cất giọng dịu
dàng: “Huynh dám một mình tới đây chứng tỏ đã chẳng ngại gì mạo phạm, sao còn
phải dè dặt như thế làm gì.”
Trước đây nàng ta đâu có thản nhiên như
thế, nếu phát hiện ra ánh mắt của y thì ắt sẽ thẹn thùng cúi đầu, hai má ửng
đỏ. Y ngẩng lên, một lát sau mới có thể nhìn rõ dung mạo của nàng ta, thấy nàng
ta đã gầy đi rất nhiều, phải bôi rất nhiều phấn mới có thể che đi những vệt đỏ
sưng vù trên má. Nghe nói đó là do Thái hậu ngày ngày phái người tới đây vả
miệng nên nàng ta mới trở nên như vậy. Còn trong đôi mắt nàng ta thì chất chứa
một nỗi tang thương vô hạn không thể nào giấu được. Y cất giọng bình tĩnh:
“Dung nhan của nương nương vẫn như xưa, phục sức cũng không đổi, có điều trái
tim sớm đã chẳng còn đơn thuần giống thuở nào nữa rồi.”
Nàng ta cúi đầu thêu thêm mấy đường kim
nữa, y thấy nàng ta đang thêu hình một cặp uyên ương nô đùa với nhau dưới gốc
trúc đào nở hoa rực rỡ, khung cảnh hết sức thanh bình. Nàng ta khẽ nói: “Nếu
trái tim vẫn còn đơn thuần như xưa, chắc ta sớm đã chết không biết bao nhiêu
lần trong chốn cung cấm này rồi.” Dứt lời chợt cười khì một tiếng, nói tiếp:
“Vừa rồi huynh nói tới lễ chế, vậy huynh lén lút đi vào cung điện của phi tần
thế này có tính là vi phạm lễ chế không đây?”
Chân Hành lùi về phía sau một bước, nói:
“Đúng là thần đã thất lễ, có điều thần tới đây là theo lời mời của nương nương,
và cũng đang có điều muốn hỏi nương nương.”
Bên tay nàng ta có đặt một đĩa hạnh nhân,
nàng ta cầm một hạt lên chậm rãi ăn, sau đó ngoảnh mặt đi, nửa bên mặt nhìn
giống như một bông sen trắng vừa hé nở dưới ánh dương ấm áp. Rồi nàng ta cất
giọng như đang nói mơ: “Huynh có biết ai đã dạy muội thêu thùa không? Chính là
mẹ muội đấy. Bà từng là một người thợ thêu ở Tô Châu, tay nghề khéo léo vô
cùng, thêu con chim thì như có thể bay được, thêu bông hoa thì như có thể tỏa
hương. Bà thông minh khéo léo, trẻ trung xinh đẹp, vậy nên cha muội rất thích
bà. Năm xưa cha muội chỉ là một người làm ăn chuyên bán hương liệu, khó khăn
lắm mới tích cóp đủ tiền để cưới mẹ muội về, về sau lại phải dựa vào số tiền mà
mẹ muội bán đồ thêu mới mua được một chức quan nhỏ. Mẹ muội đã vì cha muội mà
làm việc cật lực đến nỗi hỏng cả đôi mắt, dung mạo cũng chẳng còn được xinh đẹp
như hồi trẻ, cha muội liền cưới về mấy vị di nương, dần dần không còn thích mẹ
muội nữa. Mẹ muội tuy là chính phòng nhưng mắt không được tốt, lại tuổi già sắc
kém chẳng có tâm cơ gì, do đó liên tục phải chịu thiệt thòi, để rồi cuối cùng
cha muội thậm chí còn chẳng muốn nhìn mặt bà lấy một lần. Muội ngày ngày phải
nhìn mấy vị di nương kia tranh sủng, trong lòng liền biết rằng nữ nhân mà mềm
lòng thì sớm muộn gì cũng phải chịu thiệt. Về sau ngũ di nương bỏ trốn theo một
gã thợ may từ bên ngoài tới, còn mang theo tất cả tiền bạc, của cải trong nhà,
mấy vị di nương thấy nhà muội đã suy bại, thế là dần dần cũng bỏ đi. Cha muội
tuy là huyện thừa nhưng khi đó lại không được lòng huyện lệnh đương nhiệm, tình
cảnh thực là tồi tệ vô cùng, căn bản không có cách nào tìm được ngũ di nương
về, mãi tới khi đó ông mới nhớ tới những chỗ tốt của mẹ muội. Sau khi muội vào
cung, thấy Hoa Phi thì hung hãn, Hoàng hậu thì bụng dạ thâm sâu, còn bản thân
thì ngay đến một đứa cung nữ cũng dám ức hiếp. Khi đó muội rất sợ, mỗi đêm đều
nằm mơ thấy muội biến thành bộ dạng như mẹ muội, hai mắt mù lòa, suốt ngày bị
người ta ức hiếp, sống không bằng chết, khổ sở vô cùng.”
Chân Hành tuy vô cùng căm hận sự tàn độc
của nàng ta nhưng lúc này vẫn không kìm được sinh lòng thương xót. “Ta biết
cuộc sống trong cung chẳng dễ chịu gì, nhưng dù ngày tháng có khó khăn đến mấy
thì cũng chỉ cần tiến dần từng bước là được, đâu cần phải hãm hại những người ở
bên cạnh mình chứ? Hoàn Nhi vẫn luôn coi nương nương như tỷ muội cơ mà.”
“Đâu có ai trời sinh ra đã muốn làm hại
người khác, làm hại những người ở bên cạnh mình.” Nàng ta ngoảnh đầu nhìn qua,
nơi đáy mắt bừng lên một tia căm phẫn. “Sau khi vào cung, mỗi ngày muội đều rất
sợ hãi, nhưng dù có sợ hãi đến mấy thì chỉ cần nghĩ tới một người là lòng muội
lại dễ chịu hơn một chút. Muội vào cung được mấy tháng mà vẫn không chịu nhận
sự sủng hạnh, huynh có biết là vì sao không? Đó là vì muội không muốn. Muội
biết sau khi vào cung, mình đến chết vẫn chẳng thể ra ngoài. Cung tần không
giống với cung nữ, cung nữ chỉ cần tới hai mươi lăm tuổi là có thể xuất cung
hoàn hương, nhưng muội thì lại không thể, muội chỉ có thể chết già trong chốn
hoàng cung này thôi. Nhưng...” Nàng ta cắn chặt môi, cặp mắt liếc nhẹ qua khuôn
mặt y, tựa hờn tựa oán. “Muội thà rằng cả cuộc đời này chỉ nghĩ tới một người,
không màng tới sự ân sủng của kẻ đế vương.”
Y lờ mờ biết được người mà nàng ta nói tới
là ai, bèn hơi ngước mắt lên, bắt gặp ánh mắt nóng bỏng của nàng ta, trái tim
tức thì nhảy dựng, không kìm được buột miệng hỏi: “Người đó là ai vậy?”
Trong mắt nàng ta ánh lên một tia lóng lánh
thấp thoáng hình bóng của y, rồi cả hai đều lặng im không nói gì, hệt như ánh
dương thu ấm áp ngoài sân lúc này. Đôi mắt nàng ta dường như không thể chịu nổi
thứ ánh sáng rạng rỡ như thế nên vô cùng ngứa ngáy, trái tim thì đập thình
thình không ngừng, chừng như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực, bao nhiêu năm rồi, rốt
cuộc cũng phải nói ra câu ấy rồi ư? Nàng ta âm thầm do dự, âm thầm giằng xé,
dường như không thể tin vào những việc đang xảy ra trước mắt, bao nhiêu năm
rồi, rốt cuộc đã có thể chính miệng nói với y rồi ư? Cổ họng nàng ta có chút
nghẹn ngào, ánh mắt thì dịu dàng vô hạn, mãi một hồi lâu sau mới nhẹ nhàng cất
tiếng: “Muội không tin là huynh không biết.”
Nụ cười e thẹn ấy thật giống hồi nàng ta
mới vào Chân phủ biết bao nhiêu. Lòng y bất giác thầm mềm lại, y biết là An
Lăng Dung thích mình, y không chỉ một lần phát hiện nàng ta lén đưa mắt nhìn về
phía y, y biết rất rõ. Nhưng khi vừa định mở lời thì trong lòng y đột nhiên
xuất hiện hình bóng của một người, đó chính là Thiến Đào lúc vừa được gả cho y.
Khi đó y đối xử với Thiến Đào kỳ thực không được tốt cho lắm, lúc nào cũng lạnh
nhạt hững hờ, không có chút gì có thể gọi là thương yêu trìu mến. Buổi sáng hôm
đó, khung cảnh ngoài trời đẹp như tranh vẽ, Thiến Đào ngồi trước gương nhẹ
nhàng chải tóc. Mái tóc của nàng vừa đen vừa dày, hệt như một xấp lụa đen bóng
thượng hạng. Y khẽ cất tiếng hỏi nàng: “Nàng bao nhiêu tuổi rồi?” Lời vừa ra
khỏi miệng y đã cảm thấy hối hận, hóa ra sau khi Thiến Đào được gả vào nhà họ
Chân, y chưa từng để ý tới những thứ thuộc về nàng, thậm chí cả việc nàng năm
nay mười tám hay mười chín tuổi y cũng không biết, mà nữ nhân thì vốn bụng dạ
hẹp hòi, dù tính tình nàng có ôn hòa đến mấy thì lần này, một phen phong ba chỉ
e khó mà tránh nổi.
Nào ngờ Thiến Đào lại không hề tức giận,
chỉ ngoảnh đầu nhìn qua, cười tươi rạng rỡ. “Thiếp không tin là chàng lại không
biết. Mới sáng sớm mà chàng đã định đùa cho thiếp vui đấy phải không?”
Chân Hành thoáng sững ra, kế đó liền cười
gượng. “Ta thật sự không biết.”
Thiến Đào nhoẻn miệng cười, nói: “Mười tám.
Nếu lần sau chàng còn không nhớ nổi thì thiếp sẽ nói lại với chàng.” Thế là y
cũng nở nụ cười tươi.
Kể từ khi ấy, y biết rằng Thiến Đào là một
nữ tử cực kỳ khoan dung, hiền hậu, do đó, y đã dần dần yêu nàng.
Nơi khóe mắt y đã vương dấu lệ từ lúc nào
chẳng hay. An Lăng Dung thầm máy động trong lòng, hóa ra y vẫn còn nghĩ tới
mình như thế, vẫn còn để tâm tới mình như thế, và rồi nàng ta có thêm một chút
dũng khí, bèn khẽ nói: “Người đó chính là...”
“Thần thực đã mạo muội quá rồi!” Chân Hành
cắt ngang lời nàng ta. “Thần không nên thăm dò chuyện riêng tư của nương nương.
Nương nương có nghĩ tới ai cũng không quan trọng, bởi thần chỉ là người ngoài,
nương nương không cần phải nói cho thần biết làm gì.”
An Lăng Dung thầm giá lạnh trong lòng,
chiếc kim bạc trên tay hơi run lên, thiếu chút nữa thì tự đâm vào tay mình. Bên
khóe môi nàng ta dần hiện lên một nụ cười buồn thương tột độ. “Công tử cho rằng
trong lòng ta, công tử chỉ là người ngoài ư?”
Y hít sâu một hơi, nói: “Đúng thế. Nương
nương từng cùng với muội muội của thần là Thục phi tình như tỷ muội, nhưng xét
cho cùng thần chỉ là huynh trưởng của Thục phi thôi, không có quan hệ gì với
nương nương, do đó đương nhiên là người ngoài rồi.”
Đầu ngón tay sao lại ra nhiều mồ hôi như
thế chứ, làm nàng ta ngay đến một cây kim cũng không cầm chắc được. Nghe y cự
tuyệt một cách dứt khoát như thế, cảm giác thật chẳng khác gì ngày đó tận mắt
nhìn thấy y và Tiết thị ân ái bên nhau. Nàng ta chưa từng quên cảm giác lúc đó,
giống như bị một mũi dùi băng sắc bén đâm thẳng vào trái tim vậy, toàn thân
không có chỗ nào là không đau đớn. Tiết thị là thê tử kết tóc của y, còn bản
thân nàng ta rốt cuộc chỉ là một người ngoài, dù chỉ đứng nhìn từ xa thôi cũng
không kìm được thầm đau xót.
Nhưng, nàng ta lại không cách nào hận y
được.