Năm xưa Trần quận chúa, danh chấn khắp Trường An
Hôm nay là Tử Dạ, tay vàng cứu bệnh nhân
Cung Vị Ương truyền ý, vua vời làm thái y
Hận sâu chẳng muốn gặp, việc chấn động kinh kỳ
Vua buồn vì lâu lắm, chàng thiết bặt tin mừng
Chỉ hát “Giai nhân khúc”, rồi mất hẳn hành tung
Ruổi xe về phía trước, phía trước có tri âm
Thành Tức Mặc nương náu, quê nhà chẳng ghé thăm
Nữ nhi mà quyết đoán, hơn cả đấng mày râu
Biết trước không thể tránh, mộng xưa khó cưỡng cầu
(Thủ thi)
Mai Ký Giang cho rằng với tính tình biếng nhác thế này của
Hàn Nhạn Thanh thì Tử Dạ y quán chỉ có thể bán hương thơm, không thích hợp mang
cái tên y quán. Nhưng rồi nàng ta cũng phải thừa nhận khi vận đỏ đến thì có muốn
ngăn cản cũng không ngăn được. Một hôm, một vị phu nhân nhà đại gia đi vào y
quán chọn một thẻ hương cầm thật lâu rồi bỗng nhiên nắm chặt lấy y phục dường
như không thở nổi. Hàn Nhạn Thanh dùng kim châm cứu mấy chỗ mới thuyên giảm.
Sau này mới biết vị phu nhân này chính là vợ của Tể tướng Công Tôn Hoằng. Công
Tôn Hoằng nhậm chức sau khi Lưu Triệt phế hậu nên phu nhân của ông ta tất nhiên
không nhận ra A Kiều. Bà bị chứng bệnh tim bẩm sinh không thể chữa trị tận gốc,
chỉ có thể điều trị tạm thời. Hàn Nhạn Thanh kê một toa thuốc, dặn bà trở về
ngày dùng một lần, chừng mười ngày thì sẽ chuyển biến tốt hơn. Được Công Tôn
phu nhân lấy mình làm gương, Tử Dạ y quán nhanh chóng nổi danh khắp thành Trường
An. Đương nhiên, chuyện này cũng nhờ khá nhiều vào những quy định kỳ quái của
Hàn Nhạn Thanh. Ví dụ như tấm bảng hiệu treo bên ngoài từ lúc y quán khai
trương. Tử Dạ y quán lúc đầu vắng ngắt một phần cũng vì tấm biển hiệu này. Một
số người không coi cái biển hiệu này là gì vì dù sao cũng không có ai chê tiền
cả. Thế nhưng cứ đến trưa hoặc là chẩn mạch cho mười người xong là Hàn Nhạn
Thanh bảo đóng cửa về nhà chơi với con gái. Lúc đầu Mai Ký Giang hào hứng nhận
việc này, nhưng khi mọi người phát hiện rằng không có đại phu nào từ trước đến
nay có y thuật cao minh hơn vị đại phu này thì đều muốn được chờ đến ngày hôm
sau. Cũng có người tức giận nghĩ y quán này kiêu ngạo như vậy thì không thèm
khám ở đây xem họ có thể đứng vững được không. Nhưng rốt cuộc có rất nhiều bệnh
nan y, mãn tính đến tay đại phu của Tử Dạ y quán đều chuyển biến tốt. Vì vậy
người lũ lượt kéo đến, e là Hàn Nhạn Thanh có nâng tiền chẩn bệnh lên tới trăm
tiền cũng không ngăn được. Thậm chí, mọi người còn lấy y quán để đặt tên, gọi
nàng là Trần Tử Dạ. Hàn Nhạn Thanh quá mệt mỏi, cuối cùng cũng hiểu được một
nguyên tắc của kinh tế thị trường là khi cầu vượt cung thì trông chờ vào việc
điều chỉnh giá sẽ là vô ích. Nàng lại giảm tiền chẩn mạch xuống chút ít.
“Cuộc sống là như vậy…”, Hàn Nhạn Thanh bế Tảo Tảo đi trên
đường phố Trường An, nàng khó khăn lắm mới trốn được ra khỏi y quán, hối hận về
chủ ý lập y quán điên rồ của mình ngày trước, than thở, “khi nào mới kết thúc
đây?”
Tảo Tảo cười tươi tắn, vung vẩy chiếc trống con trong tay.
“Sao vậy?”, Liễu Duệ bật cười quay lại nhìn nàng, ác ý chọc
vào vết thương, “Tự gây nghiệt thì không thể sống.”
Từ sau ngày vào điện Tuyên Thất ra mắt Hoàng thượng, Liễu Duệ
căn bản luôn luôn nhàn rỗi. Phủ Trường Tín hầu còn chưa khánh thành nên hắn cứ
thế ở lại Tang phủ. Lưu Triệt giao cho hắn nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo binh khí
mới, nhìn như thể sẽ tốn rất nhiều sức lực nhưng thực tế vào tay hắn thì chẳng
qua cũng chỉ bằng một bữa sáng. Năm ngàn kỵ binh Khâu Trạch của hắn đã bị điều
vào quân phương bắc, mặc dù không do hắn trực tiếp điều động quản lý nhưng hắn
có tự tin có thể nắm chắc đội quân này trong lòng bàn tay.
Hàn Nhạn Thanh trừng mắt nhìn hắn, “Huynh có thời gian rỗi,
hay là dạy Mạch Nhi đạo cầm quân.”
Trần Mạch được Liễu Duệ dắt đi dắt lại trên đường phố Trường
An, đang tò mò quan sát thành phố phồn hoa ồn ã, chợt nghe nhắc đến tên mình
bèn ngẩng đầu nhìn hai người, bừng bừng khí thế hỏi, “Học cái gì ạ?”
Liễu Duệ toát mồ hôi, “Nó mới năm tuổi thì học làm gì.” Kể từ
khi Liễu Duệ và Tang Hoằng Dương gặp cặp sinh đôi ai thấy cũng yêu này, bọn họ
cưng chiều còn hơn cả mẫu thân của chúng. Nhưng bọn họ cũng hiểu rằng cưng chiều
quá sẽ làm hại đến ý chí của con trẻ. Gần đầy Hàn Nhạn Thanh và Tiêu Phương đã
dạy bọn nhỏ rất nhiều, vì sự an toàn sau này nên cũng đã dạy Trần Mạch một chút
bản lĩnh thực tế. Hai người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng cùng một ý nghĩ.
“Mẫu thân!” Tảo Tảo kêu, “Chúng ta định đi đâu đây?”
Hàn Nhạn Thanh dừng bước, giờ mới phát hiện mình đã vô tình
đi tới gần phủ Đường Ấp hầu.
Phủ Đường Ấp hầu sơn son gác tía, mặc dù thiếu đi một bà
hoàng hậu tại vị nhưng nhìn bề ngoài thì vẫn uy nghiêm đường hoàng như xưa. Hàn
Nhạn Thanh đứng trong một góc khuất bên ngoài cửa chính Hầu phủ nhìn sang thấy
cửa lớn huy hoàng, các thiếu niên áo đẹp ngựa quý vênh váo tự đắc ra ra vào
vào, có cả người quen kẻ lạ. Nàng thấy cay cay mắt, chợt nghe thấy Tảo Tảo gọi
rối lên, cúi đầu nhìn xuống thấy con gái đang tròn xoe đôi mắt lo lắng.
“Mạch Nhi! Tảo Tảo!” Nàng ngồi sụp xuống, dịu dàng nói, “Mẫu
thân nói cho các con biết nhé, mẫu thân của mẫu thân sống ở nhà này đó.”
“Mẫu thân của mẫu thân!” Tảo Tảo mắt long lanh, cái hiểu cái
không, lại hỏi: “Chẳng phải chúng ta có Thân bà bà rồi sao?”
“Không phải thế đâu. Thân bà bà là nghĩa mẫu của mẫu thân,
người trong này mới là mẫu thân của mẫu thân đó.”
“Bà có thương ca ca và Tảo Tảo giống như mẫu thân không?”
“Có chứ!” Hàn Nhạn Thanh khẳng định, “Nếu như bà biết Mạch
Nhi và Tảo Tảo, nhất định sẽ rất thương Mạch Nhi và Tảo Tảo. Bởi vì…”, nàng
nghiêng đầu mỉm cười, “bởi vì bà rất yêu mẫu thân, mẫu thân lại rất yêu các
con, cho nên bà cũng sẽ rất yêu các con.” Nàng cầm tay con chậm rãi đi ngược trở
lại trước ánh mắt lộ rõ vẻ kỳ quái của Liễu Duệ. Liễu Duệ không hiểu rằng từ một
góc độ khác thì nàng chính là tổng hợp của Trần A Kiều và Hàn Nhạn Thanh, cho
nên nàng có tình cảm sâu đậm với Trưởng công chúa Quán Đào.
“Sư huynh”, nàng cười tươi tắn, “Chúng ta về nhà đi.”
Nàng đã thừa nhận nơi này là nhà!
Đầu năm Nguyên Sóc thứ sáu.
Thời gian như nước nhẹ trôi dưới chân cầu. Năm Nguyên Sóc thứ
năm cứ thế qua đi, thoáng cái đã sắp đến năm mới. Một năm qua, bên trong Đại
Hán không xảy ra thiên tai, bên ngoài đại thắng Mạc Nam dương oai với Hung Nô,
khắp chốn mừng vui. Lại đúng vào dịp cuối năm nên đế đô Trường An giăng đèn kết
hoa ăn mừng năm mới. Tuy nhiên trên dưới cung Vị Ương lại lờ mờ xuất hiện không
khí khẩn trương.
Hoàng tử trưởng Lưu Cứ bệnh lâu chưa lành. Lúc đầu Lưu Cứ
cũng chỉ bị cảm lạnh, vốn là thứ bệnh mà trẻ con rất dễ mắc phải, vì thế Vệ
hoàng hậu dù có chút không vui nhưng cũng không trừng phạt đám nô bộc nội thị
chăm sóc tiểu hoàng tử. Ngự y xem mạch xong thì kê một phương thuốc, nói cũng
không nghiêm trọng, nhưng tiểu Hoàng tử uống thuốc mà không thấy khá hơn. Chuyện
này kéo dài hơn nửa tháng, thoáng chốc đã đến cuối năm.
Điện Tuyên Thất.
“Quốc khố Đại Hán ta đã hao phí không ít sau nhiều năm liên
tục dụng binh đánh Hung Nô. Thần nghĩ có thể thực hành biện pháp quy sắt và muối
về của công để tăng thêm thu nhập quốc gia.”
“Ồ!”, Lưu Triệt vỗ án, nói với vẻ ưu tư, “Mặc dù suy nghĩ của
Hoằng Dương không tệ, nhưng muối và sắt đều do các vương gia chư hầu nắm trong
tay rồi.”
Tang Hoằng Dương thoáng cười, từ năm Nguyên Sóc thứ hai, Lưu
Triệt đã tiếp nhận đề nghị của Chủ phụ Yển ban bố lệnh cắt bớt ân sủng, bắt đầu
từng bước đối phó với vương gia chư hầu.
Công Tôn Hoằng bên cạnh tiến lên can gián, “Vương gia chư hầu
vốn nên chia sẻ gánh nặng với Hoàng thượng. Hoàng thượng có thể hạ lệnh thu hồi
độc quyền bán muối và sắt.”
Cấp Ảm ở một bên cả giận nói, “Quyền khai thác muối và sắt
thuộc về chư hầu là do Cao Tổ lúc còn tại thế ban cho họ. Công Tôn Hoằng, ngươi
giờ lại muốn quy về của công, có phải muốn đẩy Hoàng thượng vào chỗ bất nhân bất
nghĩa, quên nguồn quên gốc?”
Tang Hoằng Dương thầm than, lão Cấp Ảm này cậy là cựu thần,
thật sự là… Hắn liếc trộm thấy sắc mặt âm trầm của Lưu Triệt thoáng động, đúng
lúc ấy bên ngoài điện truyền vào âm thanh ầm ĩ. Lưu Triệt lạnh lùng ngẩng đầu hỏi,
“Bên ngoài có chuyện gì?”
Một lát sau, Dương Đắc Ý đi vào bẩm báo, “Bệnh cảm lạnh của
Hoàng tử trưởng điện hạ chuyển nghiêm trọng hơn, Hoàng hậu nương nương không
dám tự ý quyết định nên phái người bẩm báo Hoàng thượng.”
Lưu Triệt bực bội, vớ luôn chiếc chén bên cạnh ném thẳng xuống
mặt sàn vỡ nát tan, “Đám ngự y kia làm gì mà mấy cái bệnh cảm vặt cũng không trị
được, nuôi bọn chúng có ích gì?”
Tất cả cung nữ trong điện Tuyên Thất đều quỳ xuống, im như
thóc, “Hoàng thượng!”, Tang Hoằng Dương cười vang, “Vi thần cũng đã được nghe
nói về bệnh cảm lạnh của hoàng tử trưởng điện hạ. Thần biết phía tây thành Trường
An có một y quán, ở đó có một loại hương thơm tên gọi là Ngũ Diệp Trầm Thủy có
công hiệu bình tâm tĩnh khí cũng tốt cho bệnh cảm lạnh của trẻ nhỏ, vi thần cả
gan xin để Hoàng tử trưởng thử một chút.”
“Thật không?”, Lưu Triệt nhìn hắn, “Chẳng qua chỉ là một loại
hương thơm mà lại có công hiệu như thế sao?”
“Ngũ Diệp Trầm Thủy hương này đúng là có chỗ thần kỳ, nếu
Hoàng thượng không tin, có thể hỏi thừa tướng Công Tôn.”
“Hoàng thượng!” Sắc mặt Công Tôn Hoằng hơi lúng túng, “Đúng
là gần đây thê tử của thần ở nhà có sử dụng một loại hương thơm, mặc dù thần
già rồi nhưng được ngửi hàng ngày thì thấy cũng có hiệu quả làm cho tinh thần
được sáng suốt. Nhưng hương thơm có thể trị được bệnh cho hoàng tử trưởng hay
không thì cựu thần không biết. Chỉ biết là…”
“Biết cái gì?”
“Chủ của Tử Dạ y quán có y thuật rất cao minh, thê tử thần bị
bệnh tim từ nhỏ, được Hoàng thượng ân điển ban ngự y đến chữa trị nhưng cũng chỉ
có thể miễn cưỡng khắc chế, tháng trước lấy thuốc ở Tử Dạ y quán thì gần như
không còn tái phát.”
“Vậy à?” Lưu Triệt nghe xong bèn quay sang phân phó, “Dương
Đắc Ý.”
“Có nô tài.”
“Ngươi dẫn người đến Tử Dạ y quán lấy một chút Trầm Thủy
hương.”
“Dạ.”
“Nếu sức khỏe của Hoàng tử trưởng chuyển biến tốt lên”, Lưu
Triệt cười nhạt, trong khóe mắt ánh lên ý tứ kỳ quái, “Tang Hoằng Dương, trẫm
chắc chắn sẽ có khen thưởng.”
“Thần không dám, chia sẻ âu lo, cởi bỏ gánh nặng cho Hoàng
thượng là bổn phận của thị thần”. Tang Hoằng Dương vẫn một mực giữ lễ.
Chiêu Tài trông thấy Tang Hoằng Dương từ trong cung đi ra
thì vội vàng nghênh đón, “Thiếu gia, khí trời lạnh rồi, chắc tuyết sắp rơi”,
nói xong liền phủ thêm cho chủ nhân một cái áo khoác.
“Ừm.” Tang Hoằng Dương vừa mặc áo vừa đi về phía xe ngựa.
“Trường Tín hầu và Nhạn Thanh tiểu thư gần đây đang làm cái gì vậy?”
“Liễu hầu gia gần đây dọn về phủ đệ của mình, bắt đầu chế tạo
nỏ lớn. Nhạn Thanh tiểu thư thì cứ sáng sớm là tới y quán, trước giờ Ngọ thì trở
về, tiểu thiếu gia và thiếu tiểu thư gần đây đều đi theo tiểu thư.”
“Thiếu gia”, Chiêu Tài hạ thấp giọng, “Bãi cỏ bên kia, có phải…
nữa hay không?”
Tang Hoằng Dương ngần ngừ một lát rồi đáp, “Thôi đi”, hắn cười
khổ, biết bản thân dù sao cũng không thể coi mạng người như cỏ rác, “Những huyền
cơ trong đó, dù có người điều tra ra được thì cũng không hiểu nổi đâu.”
Điện Tiêu Phòng.
“Hoàng thượng!” Vệ Tử Phu dẫn mọi người quỳ lạy khi Lưu Triệt
sải bước vào điện Tiêu Phòng. Lưu Triệt nâng nàng ta dậy, “Tử Phu, nàng đã là
hoàng hậu, không cần phải đa lễ như thế.”
“Nô tỳ không dám”, Vệ tử Phu dịu dàng đáp, mái tóc xõa ra
như dòng suối đen óng ả, “Tất cả đều là nhờ ân điển của Hoàng thượng, Tử Phu
cam tâm tình nguyện.”
Lưu Triệt cười vẻ hài lòng, đi vào điện, “Cứ Nhi thế nào rồi?”
“Hoàng thượng sai nội thị đưa tới năm nén hương Diệp Trầm Thủy,
Tử Phu đã mời các ngự y xem thử, mặc dù không biết có đúng bệnh hay không nhưng
đều nói là vô hại, do đó Tử Phu mới sai người thắp lên ở trog phòng của Cứ Nhi.
Nói ra cũng thật kỳ lạ, bệnh trạng của Cứu Nhi đã khá lên nhiều.”
“Vậy à?” Lưu Triệt cúi xuống nhìn đứa con trai độc nhất của
mình. Lưu Cứ lúc này còn nhỏ, mới chừng bốn năm tuổi, đang ngủ say trong chiếc
giường nhỏ, gương mặt hồng hào, coi như đã an ổn.
“Hoàng thượng!” Vệ Tử Phu mắt đỏ hoe, đứa con trai này liên
quan tới bốn mẹ con nàng ta, thậm chí là cả gia tộc họ Vệ, thật sự không dám có
nửa điểm sơ suất, “Trầm Thủy hương mặc dù tốt, nhưng Cứ Nhi cũng không thể dùng
hương này mãi được. Nô tỳ nghe nói, đại phu chế ra Trầm Thủy hương có y thuật
cao minh, có thể mời hắn xem bệnh cho Cứ Nhi một lần được hay không?”
“Tử Phu nghe từ đâu vậy?” Lưu Triệt đứng dậy nhìn nàng ta,
ánh mắt lóe lên một tia sắc nhọn, giọng nói âm u. Vệ Tử Phu kinh hãi, quỳ nói,
“Lúc Trầm Thủy hương được đưa tới, nô tỳ lo lắng nên đã hỏi nội thị đưa hương mấy
câu.”
Khuôn mặt Lưu Triệt giãn ra, đi lại vài bước, trầm giọng, “Y
thuật của đại phu kia có tốt hơn nữa thì vẫn là người ngoài cung, làm sao có thể
mời vào cung Vị Ương được chứ?”
“Hoàng thượng!” Vệ Tử Phu buồn bã cầu khẩn. Lưu Triệt nhìn
dung nhan đáng thương của nàng ta, lại nghĩ tới đây là con trai độc nhất của
mình, lúc vừa sinh đã khiến y rất vui vẻ nên mềm lòng. “Để trẫm điều tra xem, nếu
không có gì khả nghi trẫm sẽ đồng ý với nàng, cho người đi mời.”
Lúc này, hai người nam nữ trong điện Tiêu Phòng cũng không
biết, bởi vì một câu nói kia mà sinh ra biết bao nhiêu biến hóa trong tương
lai. Nếu Vệ Tử Phu biết cũng chẳng thể oán hận thỉnh cầu của mình ngày hôm nay,
vì cái gọi là “Thành nhờ Tiêu Hà, bại cũng bởi Tiêu Hà”[1]. Nàng ta đặt toàn bộ
hy vọng vào Lưu Cứ nhưng cũng chính bởi Lưu Cứ mà tất cả hy vọng tan thành mây
khói. Còn nếu như Lưu Triệt biết được thì thà rằng nguyện đời này kiếp này vĩnh
viễn không gặp lại, hơn nữa còn hối hận năm đó không chịu quay đầu lại nhìn
dung nhan kiều diễm của cô gái kia.
[1] Tiêu Hà (? – 193 TCN) vốn là người huyện Bái (ở vùng
Giang Tô ngày nay), là Thừa tướng nhà Hán. Tiêu Hà cùng với Trương Lương, Hàn
Tín là “Tam kiệt nhà Hán.” Ông có đóng góp nhiều trong thành công của Lưu Bang
trong thời Hán Sở tranh hùng. Ông cũng là người có công giúp Hàn Tín đến với
Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Hàn
Tín, việc này trở thành một ngạn ngữ của Trung Quốc: “Thành nhờ Tiêu Hà, bại
cũng bởi Tiêu Hà.”
Đêm đã về khuya, Tang Hoằng Dương ở trong phủ đệ của mình
nhìn vầng trăng sáng trên trời cao, thở dài, “Nhạn Nhi, muội chớ trách ta.”
Tử Dạ y quán.
“Mẫu thân ơi, chúng ta phải về nhà chứ?”, Tảo Tảo hỏi.
“Ừ”, Hàn Nhạn Thanh gật đầu, kê nốt đơn thuốc cho người bệnh
cuối cùng, “Lục Y, chuẩn bị đóng cửa.”
“Dạ”, Lục Y đáp dịu dàng.
“Tử Dạ đại phu, con gái của đại phu thật là đáng yêu.” Người
bệnh là một quý phu nhân đang mang thai, vừa đỡ tay vào eo vừa trìu mến nhìn Tảo
Tảo.
“Đa tạ phu nhân”, nàng đưa đơn thuốc tới, “Cứ theo đơn này,
mỗi ngày uống hai lần vào sáng tối thì có thể an thai. Đến tháng Năm sẽ sinh một
cậu con trai mạnh khỏe bụ bẫm.”
“Ồ, cảm ơn lời chúc phúc.” Quý phu nhân cười tươi như hoa nở,
lại mua thêm mấy cây An Tức hương, thanh toán tiền chẩn bệnh rồi dẫn nha hoàn
đi ra.
Tảo Tảo trông thấy có một bà lão đang bán búp bê cỏ ở góc tường
bên ngoài y quán thì hớn hở xin phép: “Mẫu thân, con đợi ở bên ngoài nhé, lúc
nào mẫu thân về thì gọi con.”
“Con cẩn thận đấy!” Nàng đáp, nhìn theo bóng con gái rồi cúi
đầu thu dọn đồ đạc, bất chợt nghe thấy một giọng nói lanh lảnh, nàng chợt cứng
người, ngẩng đầu nhìn lên.
“Đây chính là Tử Dạ y quán sao?”
Một thanh niên mặc y phục hoạn quan, dẫn theo hai gã thị vệ
ăn mặc trang phục Kỳ Môn quân. Chắc gã tiến cung sau năm Quang Nguyên hoặc là địa
vị còn thấp nên nàng không nhận ra, nhưng điệu bộ này thì nàng quen thuộc đến tận
xương cốt. Gã nhìn Tử Dạ y quán có chút nhỏ hẹp với vẻ chê bai lộ rõ, “Chúng ta
là người trong cung, Trần đại phu, ngươi gặp vận may rồi. Hoàng thượng lệnh cho
ngươi vào cung chẩn bệnh cho Hoàng tử trưởng điện hạ, nếu ngươi chữa khỏi thì sẽ
có muôn ngàn vinh hoa phú quý.”
Nếu không phải vì thân phận, Hàn Nhạn Thanh thật sự muốn mỉm
cười hỏi ngược một câu, “Nếu như trị bệnh không hết thì sao?”
Nàng cúi thấp đầu, Lưu Cứ bị bệnh sao? Nàng đọc lịch sử
không thấy vị thái tử điện hạ này có bệnh nặng gì khi còn nhỏ. Tuy nhiên nàng lại
không thể đi xem bệnh cho nó. Lòng kiêu hãnh không cho phép nàng quỳ gối thỉnh
an trước những người đó. Lưu Cứ, nàng cười nhạt, mặc dù không hận, cũng không
có ý định làm khó, nhưng nàng không muốn trở thành Bồ tát cứu mạng gì đó, nàng
không vĩ đại đến như vậy.
“Công công, ngài chờ một chút.” Nàng ổn dịnh vẻ mặt rồi ngẩng
đầu lên, “Tôi đi vào chuẩn bị chút dược liệu.”
“Không cần, trong cung chẳng lẽ thiếu dược liệu?”, Thượng
Viêm không khỏi nôn nóng.
“Tử Dạ dù bất tài nhưng cũng có một số thứ dược liệu độc môn
của sư môn, nếu không mang đi, kéo dài bệnh của điện hạ thì tìm ai chứ!” Nói
xong, nàng không để ý tới Thượng Viêm, vén rèm đi thẳng vào.
“Mẫu thân!” Mạch Nhi đang ở phòng trong, dụi mắt nhỏm ra khỏi
giường. Gần đây nó được Liễu Duệ thao luyện các loại kỹ thuật cận chiến nên cực
kỳ mệt mỏi, phần lớn thời gian rảnh rỗi đều ở nhà nghỉ ngơi. “Phải đi về ạ?”
“Suỵt!”, Hàn Nhạn Thanh ngăn nó nói thêm, gói chút tiền bạc
lại rồi ôm nó nhảy ra ngoài qua cửa sổ phòng trong.
Còn Tảo Tảo nữa, nàng thầm suy tính rồi căn dặn Trần Mạch tự
tới cổng phía tây Trường An chờ ở đó, còn mình thì quay về cửa chính y quán.
“Làm gì mà còn chưa đi ra?” Thượng Viêm không nhịn được, chỉ
vào Lục Y, “Ngươi đi vào giục nhanh lên.”
Lục Y vén rèm đi vào, chỉ chốc lát sau đã đi ra nói với vẻ hốt
hoảng, “Chuẩn bị xong rồi!”
Đúng lúc Tảo Tảo cầm một con búp bê có hớn hở chạy vào kêu lớn,
“Mẫu thân, mẫu thân ơi. Bà bà tặng cho con một con búp bê.”
Lục Y kinh hãi vội vàng nhào qua ôm lấy nó. Thượng Viêm sinh
nghi xông tới khoát rèm ra nhìn vào bên trong, liền biến sắc mặt, nghiến răng
nghiến lợi nói, “Đúng là không muốn uống rượu mời lại muốn uống rượu phạt.” Gã
chỉ vào Lục Y và Tảo Tảo ra lệnh, “Trói hết bọn chúng lại dẫn về cho Hoàng thượng
xử lý.”
“Dạ!” Hai thị vệ đáp một tiếng rồi tiến lên.
Ngoài đường, Hàn Nhạn Thanh dậm chân, biết mình hôm nay quá
vọng động. Nàng suy nghĩ một chút rồi cắn răng xoay người chạy về phủ của Trưởng
công chúa Quán Đào.
“Thỉnh cầu thông báo với Trưởng công chúa Quán Đào rằng Trần
Tử Dạ của Tử Dạ y quán cầu kiến.”
Tên lính canh cổng Hầu phủ ngẩng lên nhìn Hàn Nhạn Thanh vẻ
khinh miệt, “Ngươi cho rằng nói muốn gặp Trưởng công chúa là được gặp hay sao?”
“Vậy thì ta cầu kiến Trần đại tổng quản của quý phủ, kính
xin tiểu ca giúp cho.” Hàn Nhạn Thanh tháo dây buộc thả buông xõa mái tóc dài.
Mặc dù nàng đang mặc y phục đàn ông, nhưng đã lộ rõ ra hình dáng phụ nữ.
Tử Dạ thần y nức tiếng kinh thành đúng là nữ giới! Tên lính
gác còn chưa kịp kinh ngạc thì một giọng nói già nua đã từ trong phủ truyền ra:
“Có chuyện gì mà làm loạn lên thế?”
“Nhị tổng quản”, tên lính gác cuống quýt bẩm báo, “Người phụ
nữ này cầu kiến Trưởng công chúa.”
“Trần thúc thúc”, Hàn Nhạn Thanh gọi với, “Thúc còn nhớ ta
không?”
Nàng từ từ gỡ tấm mặt nạ xuống để lộ ra một gương mặt yêu kiều
quen thuộc, giọng nói tràn đầy vẻ thân thiết.
“Nương nương!”, Trần Lãng kinh ngạc thốt lên, “Nương nương
sao lại…?” Ông kinh ngạc không tin vào mắt mình.
“Chuyện khác hãy để nói sau”, Hàn Nhạn Thanh nhướng mày, hơi
sốt ruột, “Ta muốn gặp mẫu thân.”
“Dạ!”, Trần Lãng khom người đáp. Ông đã làm người hầu ở phủ
Đường Ấp hầu suốt bao năm nên rất biết thời thế, hiểu rõ cái gì nên hỏi, cái gì
nên ngậm miệng. “Mời nương nương đi theo ta.”
“Kiều Kiều!” Trưởng công chúa Quán Đào vừa thấy Hàn Nhạn
Thanh xuất hiện trước mặt thì không tránh khỏi thất thố, chạy vội xuống hỏi, “Tại
sao con lại ở đây?”
“Mẫu thân…”, Hàn Nhạn Thanh tức thì đỏ hoe mắt, nhào vào
lòng Trưởng công chúa Quán Đào, “Mẫu thân!”, nước mắt nàng rơi lã chã.
“A Kiều! Không phải là con đang ở trong cung Trường Môn ư?
Làm sao lại ở…?” Trưởng công chúa Quán Đào ôm đứa con gái đã lâu không gặp, nhất
thời cũng đổ lệ, dù sao tình cảm mẫu tử rất khó kìm nén, nhưng rất nhanh chóng
khôi phục lại lý trí, vội nén cơn xúc động mà hỏi ngay vào chuyện chính.
“Mẫu thân”, Hàn Nhạn Thanh vừa khóc vừa cười, “Chuyện này để
nói sau, con cầu xin mẫu thân giúp con cứu Sơ Nhi trước đã.”
“Ai?”
“Sơ Nhi, con gái của con. Con không chịu tiến cung thăm bệnh
cho Lưu Cứ, bọn họ liền bắt Sơ Nhi và Lục Y mang đi. Mẫu thân, hãy giúp con cứu
người, chậm một chút nữa thì sợ rằng không kịp mất.”
Trưởng công chúa Quán Đào cảm thấy tim mình như ngừng đập,
“Con… Con nói gì?”
“Say này con sẽ giải thích cho mẫu thân nhưng Sơ Nhi đúng thật
là con gái của con, con gái ruột của con, cháu ngoại của mẫu thân. Mẫu thân
cũng không muốn nó gặp chuyện không may phải không? Hoàng… Triệt Nhi không biết…”
“Con không cần nói nữa.” Trưởng công chúa Quán Đào cũng biết
chuyện nghiêm trọng, vung tay lên, “Lập tức tiến cung.” Bà quay mặt ra ngoài gọi,
“Trần Lãng!”
“Lão phu nhân!”, Trần Lãng khom người bước vào.
“Chuẩn bị xe ngựa, bản cung muốn tiến cung… Ngoài ra, phái mấy
người đắc lực bảo vệ nương nương, khi bổn cung trở về, nếu nương nương xảy ra
chuyện không may thì ta sẽ hỏi tội ngươi.”