Con người khi bắt buộc phải lựa chọn thì đầu tiên sẽ che chở
cho người thân thiết nhất. Vương đình Hung Nô hùng vĩ là nơi cất giữ thánh vật
của Hung Nô, có không ít người quyền quý sinh sống. Liễu Duệ đứng trong đại trướng
của vương đình nhìn những pho tượng vàng tế trời thờ phụng vợ chồng Thiền vu.
Thiền vu Y Trĩ Tà hiện giờ của Hung Nô là em trai Thiền vu
Quân Thần, chiếm đoạt vị trí thiền vu từ tay cháu mình. Người Hung Nô không coi
trọng chế độ cha truyền con nối như người Hán mà chỉ tôn sùng thực lực. Y Trĩ
Tà có thực lực nên bọn họ thừa nhận hắn ngồi vào vị trí thiền vu. Thiền vu Y
Trĩ Tà có mấy Át chi[1], trong đó có một pho tượng Át chi bằng vàng vẽ mày kẻ mắt,
mặt mũi ôn nhu trông không giống người Hung Nô mà trông giống người Hán. Liễu
Duệ sầm mặt, đây áng chừng là Công chúa trưởng Nam Cung, người tỷ tỷ của Hán Vũ
Đế Lưu Triệt đã được gả cho Hung Nô để cầu hòa.
[1] Át chi: Vợ của thiền vu Hung Nô.
Quá nửa số người trên thế gian ca tụng Vương Chiêu Quân đại
nghĩa lẫm liệt nhưng mấy ai từng nghĩ tới một người công chúa được yêu chiều từ
thuở nhỏ, một lá ngọc cành vàng thực sự, đã từ biệt Trường An phồn hoa ấm áp một
mình tới vùng đất hoang vu xa lạ, đối mặt với kiếp sống cô tịch tàn nhẫn. Nàng
không hề muốn sống một cuộc đời cô tịch như vậy. Nhưng đệ đệ của nàng là Hán Vũ
Đế danh chấn thiên cổ, uy danh hiển hách cũng không thể trợ giúp cho nàng mà
còn làm cho cuộc sống của nàng thêm khổ sở.
Bên ngoài trướng, quân Hán vẫn thảm sát không chút lưu tình.
Có một thị nữ mặc trang phục Hung Nô lảo đảo chạy khỏi căn lều vải gần sát đại
trướng, một lính Hán nhìn thấy bèn vung đao định chém thì đột nhiên sững lại.
Người thị nữ ngẩng lên, khuôn mặt dù đã bao năm dãi dầu phong sương miền Tái Bắc
nhưng vẫn còn lưu lại nét ôn nhu đặc trưng của con gái Giang Nam. Thanh đao
trong tay người lính đột nhiên nhẹ bẫng. Nếu có thể thì gã cũng không muốn lấy
đi tính mạng của đồng bào mình. Hơn nữa người đó còn rời xa quê hương lưu lạc
ngoại quốc nhiều năm vì đất nước. Người thị nữ ú ớ mấy tiếng rồi đột nhiên như
phát điên, giật những thứ đồ trang sức Hung Nô ném xuống đất, nói bằng tiếng
Hán hơi ngọng nghịu, “Mau, đi cứu Át chi của chúng ta”, cô ta tiến lên muốn ôm
lấy chân người lính Hán nhưng bị né tránh theo bản năng, “Không phải, là Nam
Cung công chúa, nàng bị Mô Hiết điện hạ khống chế rồi.”
“Nam Cung công chúa”, người lính Hán giật mình, dùng đao
chém toạc tấm vải trướng, quả nhiên nhìn thấy một tên Hung Nô vẻ mặt quyết tử,
tay cầm loan đao đang kề ngang cổ họng khống chế một cô gái mặc trang phục Hung
Nô.
“Đám người Hán các ngươi hủy vương đình của chúng ta”, Mô Hiết
chỉ vào quân Hán, hung hăng quát lớn bằng tiếng Hung Nô, ánh mắt toát lên vẻ
điên cuồng, cười sằng sặc, “Vậy ta sẽ giết Công chúa Nam Cung của các ngươi. Dù
lần này các ngươi có lập công lớn nhưng nếu hoàng đế người Hán biết được rằng tỷ
tỷ của hắn chết ngay trước mặt các người thì các người chẳng những không được
ban thưởng mà còn bị xử tử.”
Lưu Đàm bị Mô Hiết dùng loan đao khống chế vẫn ngẩng cao đầu
để lộ đôi mắt mỹ lệ mà cương quyết. Bao năm sống ở vùng đất xa lạ này, ngay cả
bản thân nàng cũng nghĩ rằng mình đã dần bị đồng hóa thành một người phụ nữ
Hung Nô, suốt cuộc đời không được thấy lại bóng dáng đồng bào mình.
“Vậy là đủ rồi.” Nàng thầm nhủ, “Đệ đệ, đệ đã làm rất tôt,
không uổng công năm xưa mẫu thân nước mắt lưng tròng tiễn ta xuất giá, không uổng
công ta chịu khổ nhiều năm ở đất Tái Bắc này.”
Lưu Đàm nhắm mắt lại rồi ngẩng cổ lao mình vào thanh loan
đao, thì thầm, “Nếu như sự tồn tại của ta thành gánh nặng cho Đại Hán thì chẳng
bằng để ta trả giá một lần cuối cùng.”
Mô Hiết kinh hãi, vội vàng giảm lực trên thanh loan đao
nhưng thanh đao vẫn cứa trên cổ Lưu Đàm một vết thật sâu. “Tiện nhân”, gã giận
điên người, trở tay tát Lưu Đàm một cái, “Gan không nhỏ nhỉ.” Cái tát toàn lực
của gã hằn dấu trên mặt Lưu Đàm, thân thể vốn yếu ớt mảnh mai của nàng không chịu
được, suýt nữa thì ngã nhào xuống đất nhưng cũng không còn khí lực tìm tới cái
chết.
Quân Hán thấy Công chúa trưởng Nam Cung bị đối xử như vậy lập
tức gầm lên giận dữ, tràn đầy căm phẫn. “Nếu ngươi còn dám đụng vào Công chúa của
chúng ta…”, một người giương mạch đao chỉ vào Mô Hiết, “Chúng ta chắc chắn băm
thây ngươi thành vạn mảnh.”
Mô Hiết thấy đám quân Hán vừa rồi còn như lang như hổ nhưng
lại có vẻ do dự khi Át chi Khế Chư nằm trong tay mình thì tinh thần lại phấn chấn,
bên bờ vực thẳm bỗng lóe lên một tia hy vọng sinh tồn. Gã túm tóc Lưu Đàm lần
ra khỏi căn lều, quân Hán hận đến ứa máu mắt, muốn ăn sống nuốt tươi, uống máu
gã nhưng cũng đành lui bước nhường một con đường cho gã chạy đi.
“Công chúa”, người thị nữ lúc trước khóc lóc ngã quỵ xuống đất.
Chẳng lẽ bao nhiêu năm chờ đợi mỏi mòn như vậy nhưng không phải là hy vọng hồi
hương mà lại là lệnh bài bán mạng?
Khi Trường Tín hầu Liễu Duệ nghe tin báo chạy tới thì Mô Hiết
đang chém đứt dây cương buộc con tuấn mã. Con tuấn mã hí vang một tiếng, chồm
hai chân lên rồi chở Mô Hiết và Át chi Khế Chư mà gã ôm cứng trong lòng xông
qua quân Hán, chạy thẳng ra khỏi vương đình. Liễu Duệ cũng phi thân lên ngựa.
Con ngựa hắn cưỡi tên là Truy Phong, là vua của đám ngựa hoang sinh trưởng ở
vùng Đường Cổ Lạp Sơn giá lạnh khủng khiếp, được Mạnh Tắc Nhiên thuần phục, sau
đó tặng cho A Kiều rồi A Kiều tặng lại cho hắn, ngày đi ngàn dặm, khỏe mạnh
khác thường.
Thảo nguyên bao la bát ngát chỉ có tiếng gió rít ào ạt bên
tai, thổi lớp cỏ xanh rạp xuống mặt đất, không hề có một chỗ ẩn thân. Mô Hiết
phóng ngựa điên cuồng nhưng con ngựa phải chở hai người nên không thể nào chạy
thoát khỏi Liễu Duệ. Gã nghe tiếng vó ngựa càng lúc càng rõ ở phía sau thì mắt
thoáng hiện lên một tia sắc lạnh, cúi đầu nhìn vào cặp mắt sâu thẳm của Lưu
Đàm.
Từ khi nàng công chúa người Hán có vẻ xinh đẹp quyến rũ khác
hẳn con gái Hung Nô được gả cho Quân Thần thiền vu với số tuổi có thể làm phụ
thân của nàng thì các tù trưởng quý tộc trên thảo nguyên cũng bắt đầu như những
con sói đói rình rập. Không chỉ Y Trĩ Tả mà ngay cả gã cũng từng mơ mộng về
nàng, nhưng vào thời điểm sống chết thì còn có gì là không thể vứt bỏ? Mô Hiết
cười lạnh một tiếng, ngồi trên lưng ngựa quay đầu lại hỏi, “Ngươi muốn công
chúa của ngươi phải không?” Gã nói thứ tiếng Hung Nô mà Liễu Duệ không thể nào
hiểu được, cặp mắt hiện lên vẻ điên cuồng tàn ác, vung tay đẩy Lưu Đàm xuống ngựa,
chỉ cần Liễu Duệ dừng lại chăm sóc cho Lưu Đàm là gã có thể chạy thoát.
Mô Hiết nghĩ như vậy nhưng gã không ngờ được rằng một cô gái
yếu ớt rơi vào tình cảnh này lại nảy sinh dũng khí dám liều mạng. Khi thân thể
còn đang lơ lửng giữa không trung, Lưu Đàm bỗng túm chặt lấy gã khiến gã dùng hết
toàn lực cũng không cách nào tránh thoát, lảo đảo suýt ngã khỏi lưng ngựa.
Lưu Đàm cảm thấy nửa thân thể bị kéo lê trên mặt đất rất đau
đớn, cảm giác giống như hồi năm kia, khi nàng mất đi đứa con của mình, ở bên
trong lều trướng lạnh lẽo lẳng lặng khóc thầm, chung quanh không có một người,
một thân nhân nào. Thật ra thì cái chết cũng không đáng sợ, đáng sợ chính là sống
cuộc đời cô đơn trống rỗng.
Máu của Lưu Đàm chảy tạo thành một vệt dài, Liễu Duệ cố giục
ngựa nhanh hơn nhưng vẫn không kịp, đành nhìn Mô Hiết phía trước mắt rực hung
quang, vung loan đao lên chém xuống bả vai Lưu Đàm ngay trước lúc nàng phải
buông tay. Hắn thúc ngựa vọt đến bế thốc vị công chúa Hán triều bị số phận đày
đọa nhưng lại khiến mọi người ta kính nể, chỉ một chớp mắt nhưng đã là quá lâu,
Mô Hiết đã phóng ngựa chạy xa.
Liễu Duệ nheo mắt ngắm trúng lưng Mô Hiết, dùng hết sức lực
phóng thanh mạch đao trong tay ra. Thanh đao cắm vào lưng Mô Hiết rung bần bật
nhưng không rơi xuống, đủ thấy lưỡi đao cắm rất sâu. Mô Hiết kêu một tiếng thảm
thiết, không dám quay đầu lại mà tiếp tục chạy, thoáng cái đã mất dạng.
Công chúa trưởng Nam Cung nằm trong lòng hắn, gương mặt
không còn chút sắc máu nhưng vẫn không chịu nhắm mắt, bình tĩnh nhìn hắn, hỏi,
“Ngươi là ai?”
“Ta”, Liễu Duệ khẽ mím môi, “Là chủ tướng Đại Hán cầm quân
tiến công Hung Nô lần này, Trường Tín hầu Liễu Duệ.”
“Trường Tín hầu”, Lưu Đàm thì thào nhắc lại, “Ta chưa từng
nghe tên. Ngươi không biết thần tử Đại Hán gặp bản công chúa thì phải tự xưng
là vi thần sao?”
Liễu Duệ không buồn để ý, “Vết thương của Công chúa trưởng cần
được băng bó.” Hắn nói rồi bế nàng xuống ngựa, “Xin đắc tội.”
Ở nơi vô cùng lạnh giá như vùng Mạc Bắc, người dính một vết
thương như vậy mà không được băng bó thì e rằng chỉ đi lại ngoài trời một thời
gian ngắn sẽ chết dần. Lưu Đàm biết rõ điều này, lại ở Hung Nô nhiều năm nên đã
sớm phai nhạt lễ giáo nam nữ, liền khẽ gật đầu nói, “Xin làm phiền Hầu gia.”
Liễu Duệ liền cởi bỏ áo khoác, xé một vạt áo lót băng bó cho
Lưu Đàm. Nhát đao Mô Hiết chém vào vai Lưu Đàm sâu thấy xương, so với nó thì những
trầy xước dưới hai chân do bị ngựa kéo lê thật không đáng kể. Hắn lấy kim sang
dược trị liệu ngoại thương vô cùng hiệu quả của Trần A Kiều đắp kín miệng vết
thương cho Lưu Đàm, trong lúc lơ đãng liếc sang thấy ngoài vết đao, trên vai
còn có những vết sẹo chằng chịt khác.
“Ngươi thấy kỳ quái lắm sao?” Lưu Đàm thản nhiên hỏi, “Ngày
trước, vào năm đầu tiên ta được gả cho Thiền vu Quân Thần, có một ngày Quân Thần
đi ra ngoài, Đại át chi lão phái người đến lều trướng của ta, dùng đao chém ta
bị thương.” Địa vị công chúa Đại Hán tôn quý ở trên vùng đất này chẳng những
không đáng được nhắc tới mà trái lại còn là nguyên nhân gây họa, cũng chỉ có thể
dựa được vào bản thân mình là người con gái Hán xinh đẹp và ân sủng của hai đời
thiền vu.
Liễu Duệ băng bó thật kỹ vai và hai chân của nàng rồi nói,
“Sau này Công chúa trưởng trở về Đại Hán rồi thì không còn một ai dám đối xử với
người như thế nữa.”
“Về nhà”, Công chúa trưởng Nam Cung nhắc lại vẻ mơ màng, “Ta
còn về được sao?”
“Sao lại không?” Liễu Duệ bế Lưu Đàm lên ngựa, cho ngựa quay
trở về nhưng lo lắng cho thương thế của nàng nên không dám phi nước đại, “Thái
hậu và Hoàng thượng luôn nhớ thương người.”
“Nhưng…” Lưu Đàm có vẻ lưỡng lự, “Trách nhiệm của ta là kết
hôn để cầu hòa, mặc dù hôm nay…” Nàng còn chưa dứt lời thì Liễu Duệ đã cười
sang sảng cắt ngang, “Kết hôn cầu hòa là thứ kế sách hèn kém trong lịch sử nhà
Hán. Đại Hán của ta có đất đai rộng lớn, vô số thanh niên trai tráng, còn có vị
quân chủ anh minh và các tướng lĩnh dũng mãnh thì làm sao có thể đổ trách nhiệm
tồn vong lên vai một người con gái yếu ớt được chứ.”
Lưu Đàm kinh ngạc trước hào khí của hắn, thấy lòng ấm áp, hồi
tưởng lại hình ảnh của mẫu thân và đệ đệ đang nhạt nhòa dần trong trí nhớ của
mình. Khi nàng ra đi thì đệ đệ mới chỉ là một đứa bé chừng năm, sáu tuổi, thế
mà hôm nay đã trở thành một bậc đế vương mà thiền vu của Hung Nô nhắc tới cũng
phải kinh hãi.
“Đại Hán… bây giờ tình hình như thế nào?”
“Tình hình Đại Hán bây giờ rất tốt. Hoàng thượng anh minh,
bên ngoài đánh Hung Nô, bên trong phát triển nông nghiệp, quốc gia giàu có phồn
vinh. Công chúa trưởng trở về lần này nhất định sẽ rất vui.”
Hai người đang trò chuyện thì thấy quân Hán từ đằng xa đuổi
tới. Đoàn quân trông thấy hai người liền cất tiếng hoan hô như sấm động, cùng
xuống ngựa đồng thanh bái chào, “Tham kiến Công chúa trưởng Nam Cung, tham kiến
Liễu tướng quân.”
Lưu Đàm ngồi trên lưng ngựa, cuối cùng trên khuôn mặt cũng
xuất hiện nụ cười thanh thản, mãi đến giờ phút này mới có cảm giác chân thật là
được gặp lại người thân cách biệt lâu ngày. “Ta không nghĩ rằng trong suốt cuộc
đời mình, quân Hán có thể đánh tới đây. Nên nhớ nơi này chính là Mạc Bắc.”
“Chỉ cần trong lòng con người còn có niềm tin thì mọi kỳ
tích đều có thể xuất hiện”, Liễu Duệ mỉm cười.
Vương đình huy hoàng của Hung Nô ngày xưa nay đã thành biển
máu. Liễu Duệ phân ra một đội quân hộ tống Công chúa trưởng Nam Cung trở về Đại
Hán còn mình thì dẫn phần còn lại vu hồi chặn đánh Y Trĩ Tà.
Ngày mười tám tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, trong lều lớn
của trung quân Hung Nô. Y Trĩ Tà thấy Mô Hiết phi ngựa về báo tin thì quát lên
như sấm, “Không thể thế được! Vương đình ở Mạc Bắc, làm sao đám người Hán kia
có thể đến đó được chứ?”
“Tất cả đều là sự thật.” Mặc dù Mô Hiết đã được băng bó lại
vết thương nhưng sắc mặt gã vẫn còn tái nhợt, “Vương đình đã thành phế tích, Át
chi Khế Chư, bọn chúng cũng đã cứu đi.”
Mặt mày Y Trĩ Tà tái mét, ai có thể dễ dàng chịu được mối
thù phá nhà, mối hận đoạt vợ, huống chi hắn còn là thiền vu của Hung Nô. Chẳng
lẽ là trời xanh đã bỏ Hung Nô? Hắn bỗng nhiên cảm thấy tang thương, nghĩ tới bản
thân tự nhận là có thiên phú dũng mãnh phi thường, lại biết nghe lời can gián,
có thể coi như minh chủ nhưng sao lại liên tiếp gặp phải khắc tinh Lưu Triệt lẫn
đám Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, Liễu Duệ kia chứ? Vương đình bị tập kích, ngay cả
tượng vàng tế trời cũng đã mất, nếu để cho quân đội Hung Nô biết được tin tức
này thì chỉ e rằng lòng quân dao động, càng thêm thất bại thảm hại. Y Trĩ Tà
quét ánh mắt âm tàn lướt qua Mô Hiết, bỗng nhiên bảo, “Mô Hiết, ngươi cũng mệt
rồi, lui xuống nghỉ ngơi trước đi.”
Mô Hiết liền ôm quyền đáp, “Đa tạ Thiền vu!”
Y Trĩ Tà chợt rút loan đao chém ngang cổ Mô Hiết. Đầu Mô Hiết
rơi xuống, đến chết gã cũng không hiểu được vì sao gã đã liều chết chạy khỏi
vương đình mà vẫn không chạy thoát được số kiếp.
Y Trĩ Tà lớn tiếng hét gọi, “Người đâu?” Thị vệ bên ngoài lều
trướng liền vén rèm tiến vào.
“Mô Hiết to gan ý đồ hành thích bản thiền vu”, Y Trĩ Tà thản
nhiên nói, “Hiện đã bị chém đầu. Khiêng gã xuống đi.”
Ngày mười chín tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, Trường Tín hầu
Liễu Duệ rút quân về Long Thành, gặp quân đội của Y Trĩ Tà. Mặc dù đã chuẩn bị
tâm lý nhưng thấy thiết kỵ của quân Hán xuất hiện ở phía sau thì quân Hung Nô vẫn
cảm thấy cực kỳ kinh ngạc. Y Trĩ Tà thấy Liễu Duệ liền tức giận điên cuồng,
quát lên, “Các con dân Hung Nô, giết chết hết tất cả những tên Hán man dám xâm
nhập vào thảo nguyên của chúng ta kia đi.”
Hai quân đối chiến mấy ngày liền vô cùng khốc liệt. Nhiều
năm sau, người Hung Nô khi nhắc tới trận chiến này, nhắc tới kỵ binh Khâu Trạch
thì vẫn còn tỏ vẻ sợ hãi. Đến ngày thứ ba, cuối cùng trung quân Hán cũng tới.
Quân Hán trước sau giáp công, giành thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt gần hai vạn
quân địch, giết chết Tả Hiền vương, Mạc Hoàn vương cùng tướng quốc và gần một
ngàn đô úy, bắt được vô số dê bò trâu ngựa của Hung Nô.
Người Hung Nô liều chết che chở cho Y Trĩ Tà công phá vòng
vây, dẫn theo tàn quân chưa đầy ngàn người bỏ chạy về hướng Mạc Bắc, trên đường
lại gặp phải một ngàn kỵ binh quân Hán đi hộ tống Công chúa trưởng Nam Cung.
Tàn quân Hung Nô đã mất ý chí chiến đấu, mệt mỏi đói khát nên không thể là đối thủ
của kỵ binh quân Hán trong thế lấy nhàn thắng mệt, thoáng chốc đã bị vây kín.
Y Trĩ Tà trông thấy Lưu Đàm liền cất tiếng gọi, “A Đàm!”
Lưu Đàm cưỡi ngựa thở dài, đến lúc này mà chẳng lẽ Y Trĩ Tà
vẫn cho rằng nàng còn nặng tình vợ chồng tha cho hắn một lần hay sao? Huống chi
là giữa hai người vốn cũng chẳng có tình cảm gì đáng kể. Chưa nói đến việc Quân
Thần thiền vu còn chưa khuất mà hắn đã nhìn nàng bằng ánh mắt dâm tà, sau khi
Quân Thần thiền vu mất đi liền cướp đoạt chiếm hữu nàng.
Đã biết bao nhiêu lần hắn trèo lên người nàng để phát tiết lửa
giận đối với Đại Hán, đối với Lưu Triệt? Không có cách nào vượt qua được địa vị
hoàng đế nhà Hán ở thành Trường An phồn hoa phía xa, hắn chỉ có thể lựa chọn
cách thức làm nhục người thân của người đó để tự lừa dối bản thân về chiến thắng.
Giữa hai người luôn có quá nhiều ngăn cách, quá nhiều ứng phó, quá nhiều thô bạo,
quá nhiều thù địch, quá nhiều hoài nghi, dù cho thân thể gần nhau như vậy nhưng
tâm hồn chưa từng hòa hợp với nhau, mở đầu đã sai rồi thì tất cả đều sai theo.
Lưu Đàm giục ngựa quay đầu bỏ đi. Y Trĩ Tà giận tím mặt
nhưng cũng nhận thấy rằng quân Hán đang bảo vệ Lưu Đàm. “Không cần đánh nhau
dây dưa với quân Hán, tiến công vào chỗ Khế Chư át chi, chỉ cần bắt được nàng
thì đám quân Hán này sẽ không dám làm loạn”, hắn thấp giọng ra lệnh cho đám
quân lính chung quanh. Quân Hán phải tách ra một bộ phận lớn để bảo vệ Lưu Đàm
nên đành giương mắt nhìn Y Trĩ Tà thoát khỏi trùng vây.
“Bỏ đi”, Lưu Đàm thở dài, “Có đuổi theo cũng không kịp nữa.
Chúng ta đi thôi.” Nàng ra roi giục ngựa phi thẳng về hướng đông nam không hề
ngoảnh lại.
“Quân ta đánh nhau với Tả Hiền vương Hung Nô ở Ô Lan Ba Thác
xong thì vốn phải tới đây sớm hơn nhưng lạc đường trên thảo nguyên mất mấy ngày
nên mới tới muộn.” Trong trướng trung quân, Chấn Viễn hầu Lý Quảng ngại ngùng bẩm.
Liễu Duệ không nói gì. Lý Quảng có thiên phú đi lạc đường, hắn đành xin chịu
thua.
“Chấn Viễn hầu, ông đại thắng trận Ô Lan Ba Thác, lần này hội
quân cùng bản tướng đánh bại quân chủ lực của Hung Nô là có công nhưng lạc đường
làm hỏng việc quân cơ là có lỗi, ông có phục không?”
Lý Quảng trang nghiêm đáp, “Thuộc hạ phục.”
Quân Hán giành được toàn thắng đã chấm dứt trận đại chiến
Hán Hung năm Nguyên Thú thứ hai. Sự rộng lớn hoành tráng của trận chiến khiến
cho người đã phát động nó là Vũ Đế Lưu Triệt cũng phải kinh hãi, là trận chiến
lưu truyền danh tiếng ngàn thu thời kỳ vũ khí lạnh. Từ đó về sau, Mạc Nam không
còn vương đình Hung Nô, còn dân tộc Hung Nô vô cùng dũng mãnh từng hoành hành
trên thảo nguyên cũng dần suy bại.
“Liễu tướng quân”, Lý Quảng bẩm, “Quân ta có nên khải hoàn về
triều hay không?”
“Chờ một chút nữa đi.”
“Chờ gì nữa?”
“Chờ…”, Liễu Duệ đang nhớ về người con gái xinh đẹp đáng
kính trong vương đình của Hung Nô kia, mỉm cười đáp, “Công chúa trưởng Nam
Cung.”
“Công chúa trưởng Nam Cung?” Lý Quảng mới đầu hơi sửng sốt
nhưng rồi liền vui mừng, “Tướng quân lập nhiều công lớn như thế, trở lại kinh
thành tất Hoàng thượng và Thái hậu sẽ trọng thưởng.”
Liễu Duệ phất tay, “Ta phải viết thư báo tin cho Hoàng thượng
về tình hình chiến chinh lần này đã.” Lý Quảng hiểu ý, cáo từ lui ra khỏi trướng.
Ba ngày sau, Công chúa trưởng Nam Cung về tới trung quân của
quân Hán, Trường Tín hầu Liễu Duệ hạ lệnh thu quân về triều. Khi trông thấy cổng
thành quận Sóc Phương, Lưu Đàm ngồi trên ngựa bật khóc nức nở.