Đã mấy ngày Tế Độ chán nản nên chẳng ăn hạt cơm nào, lại nữa tay chàng bị thương, chàng cũng dầm mưa ở Đông Hoa môn, rồi thêm bảy bình rượu nên mặc dù bọn nha hoàn trong phủ Định Viễn ưa đồn thổi tướng quân họ có mình đồng da sắt, chàng cũng không tránh khỏi ngã bệnh.
Nửa đêm về sáng Tế Độ lên cơn sốt, nằm bất tỉnh trên giường. Hà Tử Lăng quỳ trên đôn xoa ngực giúp chàng. Trong phòng còn có mấy a hoàn nữa, người bưng thau nước người cầm khăn... Sau khi thay mấy lượt khăn nóng đắp lên trán cho Tế Độ, Hà Tử Lăng bảo bọn a hoàn ra ngoài. Trong phòng chỉ còn lại hai người, tất cả đều yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng thở dài của Hà Tử Lăng. Nàng ngồi im lìm trên chiếc ghế bên cạnh giường nhìn Tế Độ trong bóng đêm, nhớ lại nhiệm vụ của mình… Mặc dầu nàng được người ta nhờ đi tìm hiểu từ chàng nhưng thật sự nàng cũng muốn biết tại sao chàng lại đồng ý lấy Mẫn Mẫn? Một cô gái thân phận cao quý, vô cùng xinh đẹp, nhưng tánh tình lại tỉ lệ nghịch với nhan sắc. Nhất là cái tật ghen tuông quá đáng. Hà Tử Lăng khẽ lắc đầu. Mỗi lần Mẫn Mẫn đến phủ Định Viễn chơi không khi nào mà không gây sự hão huyền với bọn nô tì của Tế Độ, đôi khi Mẫn Mẫn cầm lòng không đậu, trút giận một cách phi lý vào luôn cả Lôi Kiến Minh. Một cô gái xấu nết như thế chẳng hiểu sao chàng lại đồng ý rước về làm tướng quân phu nhân cho được? Mà Tân Nguyên xem chừng cũng cam phận? Mọi rắc rối trong đó Hà Tử Lăng không biết có dính dáng gì đến chuyện tranh quyền đoạt vị hay không?
Hà Tử Lăng nghĩ tới đây thở mạnh một hơi, trong lòng vô cùng buồn bã. Nàng tự nghĩ bản thân nàng có gì không tốt? So với Mẫn Mẫn, nàng duyên dáng mỹ lệ, lại hiền thục. Hồi a mã còn sống thân phận nàng chẳng khác Mẫn Mẫn, thậm chí còn cao hơn. Tuy nhiên bây giờ gia cảnh sang trọng đó của nàng không tồn tại nữa. Càng nghĩ, Hà Tử Lăng càng cảm thấy bẽ bàng. Tâm trạng nàng lúc này cũng như hoa thạch nam trên đồng hoang Tô Cách Lan, vẻ ngoài rạng rỡ song không che được tâm hồn cô liêu, quạnh quẽ.
Tiếng khóc chực tuôn ra từ miệng nàng, Hà Tử Lăng e tiếng khóc của nàng sẽ đánh thức giấc ngủ của Tế Độ nên đưa tay bịt miệng. Hà Tử Lăng rời giường đến ngồi trên sập. Ở bên góc phải phòng ngủ của Tế Độ có đặt một tấm bình phong năm cánh làm từ gỗ tử đàn, phần thân trang trí hình tứ linh, không còn là Thiên Sơn tuyết liên. Một chiếc sập đóng bằng gỗ đàn hương dựng cạnh tấm bình phong. Hà Tử Lăng ngồi trên sập lặng lẽ rơi lệ, chiếc váy lụa màu mỡ gà của nàng phủ xuống lưng chừng chân sập khẽ khàng lay động như một màn sương.
Cũng trong căn phòng này, trên chiếc sập... Hà Tử Lăng nhớ nàng và Tế Độ đã từng có một khoảng thời gian đối đãi nhau như vợ chồng. Lúc trước chàng chăm nàng từng miếng ăn đến giấc ngủ, không bao giờ làm việc gì phật ý nàng. Nhưng từ sau khi chàng thọ thương trên Thiên Sơn, chàng đối với nàng đã giữ một khoảng cách.
Hà Tử Lăng lại tiếp tục rớt nước mắt, nàng thật tình không cam tâm buông bỏ mối quan hệ mà nàng từng hi vọng sẽ nở hoa, lòng nàng thật sự đau, cái cảm giác nàng không còn là nữ nhân được chàng yêu chiều nữa, được chàng ôm trọn vào lòng, cùng ăn cùng ở với chàng, cùng làm cả ngàn việc khác, thật khiến trái tim nàng tan vỡ.
Nhớ hồi trước chàng đã từng nói sẽ đưa nàng đi khắp các vùng đại giang Nam Bắc, khắp các nơi trong thiên hạ. “Ta sẽ cùng nàng đông lên Thiên Sơn hạ xuống Giang Nam, tiêu dao mọi chân trời góc bể, sống cuộc đời vô cùng khoái hoạt.” Lời chàng cả đời nàng cũng không quên.
Khi nàng gặp chàng lần đầu tiên, chàng đã giải vây cho nàng khỏi tên sơn tặc trong ngôi chùa hoang. Mười sáu năm, nàng vốn không hề tơ tưởng bóng hình nam nhân, chẳng biết hai chữ tương tư có nghĩa là gì. Không ngờ chỉ trong một ngày nàng lại chết mê chết mệt chàng, chẳng hiểu vì sao từ lúc yêu chàng nàng chẳng còn chút lý trí nào, cứ yêu đến mê muội. Hai người quen được khoảng một năm nàng trao chàng tất cả. Dù nàng biết chàng chỉ coi nàng như hàng tá những người con gái khác từng đi qua cuộc đời chàng. Có lúc nàng cảm thấy mình như một kỹ nữ không hơn không kém, là công cụ cho chàng thỏa mãn nhu cầu khi cần. Có những ngày chàng chẳng đến gặp nàng, chẳng thèm đoái hoài khiến nàng rất buồn, lòng tự ái bị tổn thương, nhưng sau đó chỉ cần chàng sai người đến gọi là nàng lập tức đến phủ Định Viễn.
Hà Tử Lăng ngồi nhớ lại một ngày đầu xuân, hôm đó khí hậu thật trong lành, dễ chịu. Mây trắng trôi chầm chậm trên vòm trời xanh biếc. Thời tiết quang đãng là lúc thích hợp để người ta dạo chơi ở Cảnh Sơn. Lúc đó nàng đang làm công việc giám định đồ cổ trong Tụ Bảo Trai, nghe a hoàn Tiểu Khả vào báo chàng sắp đến nàng liền ra ngoài cửa đón. Đã một tuần hai người không gặp, Hà Tử Lăng vẫn còn nhớ cái cảm giác háo hức. Nàng đứng ngoài cửa tiệm đồ cổ chẳng bao lâu thì tiếng vó ngựa vang lên lộp cộp, rồi một con ngựa có bộ lông màu đỏ rực như lửa phi nước kiệu tới. Nàng ngắm con ngựa đẹp như được tả trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa, còn chưa hoàn hồn đã thấy mình ngồi vắt vẻo trên lưng con huyết hãn mã trân quý. Tế Độ phóng xuống đất bế bổng nàng lên trong hai tay, đặt nàng ngồi lên yên ngựa xong chàng cũng tung mình lên theo, ngồi phía sau nàng, vòng đôi tay rắn chắc qua chiếc eo thon nhỏ của nàng, nắm lấy cương ngựa.
Sau một tiếng tặc lưỡi của Tế Độ, con ngựa lập tức rùng chân phóng thốc đi, hướng tới Vô Định Hà. Hà Tử Lăng chưa hề cưỡi con ngựa nào phi nhanh đến thế này, nàng cảm thấy như mình đang bay, gió quất vô mặt sắc như dao, khiến nàng phải nghiêng đầu rút vào ngực chàng. Tế Độ đặt nụ hôn lên trán nàng. Hà Tử Lăng nhớ khi đó nàng đang đắm chìm trong niềm hạnh phúc vô bờ, chợt nàng liên tưởng đến hậu vận của nàng và chàng… Hôm nay hai người ngồi cạnh nhau âu yếm thế này nhưng sau này sẽ phải chĩa giáo đối đầu nhau… Nàng mường tượng tới cảnh đó nên đương khi ngày lành cảnh đẹp bỗng dưng nàng muốn rơi lệ.
Tế Độ không hề hay biết những diễn biến trong lòng nàng lúc đó, chàng lại đặt thêm nụ hôn lên trán nàng. Chàng cho ngựa chạy qua cầu Vô Định Hà, lên đến Cảnh Sơn. Tế Độ kéo sợi cương cho ngựa rẽ vào khu rừng mọc đầy hoa anh đào trên Cảnh Sơn, vừa cho ngựa đi chầm chậm vừa hỏi nàng:
“Nàng có buồn không? Xin lỗi nàng, mấy ngày qua ta có nhiều chuyện cần phải giải quyết trong sở quân cơ nên không có thời gian đến gặp nàng.”
Tế Độ dứt lời một làn gió nổi lên, khiến các cánh hoa đào rơi lả tả khắp nơi.
Cảnh tượng năm đó như hiện ra trong đầu Hà Tử Lăng. Nàng nhớ mình đã đưa mắt ngắm những cánh hoa màu hồng múa may theo cơn gió xuân. Mỗi một cánh hoa trông cứ như một vũ công, lúc thì nhảy múa uyển chuyển, chao lượn trái phải, lúc thì đảo lên lướt xuống và đôi khi còn xoáy tròn như một đào hát đang múa hông, trông vô cùng yêu kiều, vô cùng xinh đẹp, không thể tả bằng lời. Nhưng chỉ được một lát sau đó tất cả các vũ công đều đáp hết xuống đất. Tự nhiên Hà Tử Lăng liên tưởng đến vận mệnh của con người, đời người ngắn ngủi, con người may mắn lắm có thể sống được đến sáu, hoặc bảy mươi năm là dương thế kết thúc.
Hà Tử Lăng nhớ khi đó nàng buồn rầu chép miệng:
“Mấy cánh hoa thật bi ai! Chúng vốn không muốn lìa cành mà gió không cho chúng được phép tiếp tục tồn tại.”
Tế Độ im lặng, vẻ như chàng không nghe được lời vừa rồi của nàng, chàng ghìm cương cho ngựa đi chậm hơn nữa, rồi dừng hẳn, phóng xuống đất, cẩn thận đỡ nàng. Tế Độ bỏ con ngựa cho nó đi gặm cỏ quanh rừng. Hà Tử Lăng vừa đi bên chàng vừa đan mấy ngón tay nàng vào mấy ngón tay chàng.
“Ngài nghĩ thử xem,” Hà Tử Lăng vẫn còn nhìn những cánh hoa đào trên đất, nói: “con người sống trên thế gian này có khác gì những cánh hoa, nhiều lắm cũng chỉ sống được sáu mươi mấy bảy mươi tuổi thôi, trải qua bao nhiêu vật đổi sao dời, tranh đấu truy cầu, rốt cuộc cũng có lưu lại được gì? Danh lợi chẳng khác nào mây trôi gió thoảng trên trời, con người khi sinh ra đời không mang theo gì đến, chết không mang đi được. Chi bằng chúng ta nên tùy duyên đối diện, sống cuộc sống nước chảy mây trôi có phải tốt hơn không?”
Tế Độ nghe Hà Tử Lăng nói chàng dừng chân, ngồi xuống bãi cỏ bên dưới gốc đào lũa, kéo tay nàng, để nàng ngồi trong lòng chàng rồi hỏi nàng:
“Hôm nay nàng gặp phải chuyện gì khiến nàng không vui à?”
Hà Tử Lăng nhớ khi đó trong lòng nàng tâm sự trùng trùng nhưng nàng chối bay chối biến, cười đáp lời chàng:
“Tiểu nữ có gì buồn đâu, chỉ là chứng kiến nhiều cánh hoa đào đang rơi, thấy các tán cây thưa dần nên tức cảnh sinh tình vậy thôi.”
Tế Độ vuốt tóc Hà Tử Lăng. Nàng xoay mình lại quàng hai chân nàng quanh eo chàng, mặt đối diện chàng và tiếp tục nói:
“Mỗi lần ra khỏi kinh thành tiểu nữ nhìn cảnh trời cao đất rộng thế này là tiểu nữ luôn cảm thấy mình quá nhỏ nhoi, tiểu nữ biết ngài có cơ hội đi đó đây, thấy chân trời góc biển, không biết ngài có cảm giác ra sao?”
“Cũng như nàng vậy thôi,” Tế Độ cười nói, “thiên địa bao la rộng lớn, đúng là so với trời đất con người chúng ta quá nhỏ nhoi.”
Hà Tử Lăng gật đầu:
“Ước gì tiểu nữ cũng được đi xem khắp nơi như ngài.”
Tế Độ lại cười:
“Đến khi tam mệnh đại thần không còn quấy nhiễu triều chính nữa ta sẽ đưa nàng đi xem đó đây.”
“Ngài và Ngao Bái đều là hai trọng thần đương triều, một người là phụ nội, một là phụ ngoại, ai cũng có tầm quan trọng nhất định phải đấu tranh một mất một còn à?”
Hà Tử Lăng hỏi rồi không chờ Tế Độ trả lời, tiếp tục nói:
“Tiểu nữ có nghe câu chuyện kể về Đức Phật Thích Ca. Năm xưa Đức Phật Thích Ca vốn là vị thái tử, từ nhỏ sống cảnh nhung lụa, vinh hoa phú quý hưởng không hết được, lại nữa ngài cũng được dạy dỗ kỹ càng, ngoài tinh thông văn võ ngài còn thông thuộc kinh điển Bà La Môn. Dù sống trong cảnh nhung lụa nhưng ngài vẫn luôn cảm thấy bất an trước những cảnh sinh lão bệnh tử của đời người. Ngài luôn cảm thấy mạng người sao quá bấp bênh, không bệnh rồi tử thì cả ngày sống trong cảnh phiền não, chẳng ung dung tự tại. Vì vậy cho nên có một đêm sau khi từ giã vợ con, ngài ra lệnh mã phu đưa ngài ra khỏi hoàng cung, xuống tóc xuất gia. Ngài đã cởi áo mão, vàng vòng châu báu nhờ mã phu mang về. Từ đó ngài bước hẳn vào con đường xuất gia cầu đạo. Dưới cây bồ đề ngài đã ngộ giác sinh tử đời người ngắn ngủi, sống nay chết mai chẳng ai hay được, tính mệnh muôn loài vốn dĩ mong manh cho nên ngài đã khuyên các tỳ kheo sống cuộc đời ý nghĩa. Có những hài tử xấu số chưa kịp mở mắt đã lìa đời. Lại có những bệnh nhân tuy tuổi còn rất trẻ nhưng cũng vĩnh viễn ra đi bởi căn bệnh hiểm nghèo hay tai nạn bất ngờ nào đó. Thời gian thấm thoát thoi đưa, khi chết rồi lại trở về cát bụi. Mỗi người đều là trần trụi sinh ra, cuối cùng cũng đơn độc ra đi, không ai có thể mang theo tài phú và danh vọng mà bản thân đã đau khổ tìm kiếm cả đời.”
Hà Tử Lăng nói rồi nhìn sâu vào mắt Tế Độ. Nàng thấy chàng cũng nhìn vào mắt nàng, không biết chàng có đang nghi ngờ thân phận của nàng?
Hà Tử Lăng còn đang lo lắng trong lòng, Tế Độ gật đầu nói:
“Ta hiểu ý nàng. Đúng là đời người sinh hữu hạn, tử bất kỳ, cái chết đến với vạn vật vào những lúc bất ngờ nhất, và vòng xoáy nghiệt ngã của sự tranh quyền đoạt vị trong cung lại càng đưa ta đến gần ngày đó hơn, nhưng dầu muốn dầu không ta cũng đã bị cuốn vào trong cuộc chiến mãnh liệt đó rồi, không thể nào buông bỏ để rời đi cùng nàng.”
Hà Tử Lăng nhớ sau đó nàng đã không biết nên dùng lý do gì để tiếp tục khuyên chàng, vì chàng tiếp tục nói với nàng hiện thời trong triều Ngao Bái tạo ra một bối cảnh cực kỳ phức tạp. Ngao Bái ỷ vào bản thân là một trong bốn đại thần có công khai quốc nên lập ra bè phái khống chế hoàng triều. Chàng nói nếu như bây giờ chàng từ quan thì trong triều hiện đang chia thành hai quẻ: thượng - hạ sẽ không còn cân bằng được nữa. Quẻ thượng nghĩa là những người theo Thuận Trị, Hiếu Trang, Khang Hi, lên án những kẻ độc quyền đang thực hành bá đạo khiến cho lòng dân oán than. Còn quẻ hạ đương nhiên là những người phục tùng tam mệnh đại thần, vì tư lợi gây cho muôn dân biết bao phẫn nộ. Khang Hi tuổi còn quá nhỏ nên không thể nắm thực quyền, Thuận Trị lâm bệnh nặng, còn Hiếu Trang thì cũng không có cách nào ngăn được sự lộng hành của tam mệnh đại thần, đời sống của dân chúng vì vậy gian khổ vô cùng. Lại nữa trong vòng mấy năm gần đây tệ nạn nha phiến không ngừng khuếch tán khắp kinh thành, đâu đâu cũng có đầy rẫy những thanh thiếu niên sa vào con đường nghiện ngập. Mà gia đình chàng nhiều đời đều làm quan cho triều đình, đã có không ít người hy sinh cho những cuộc tranh giành quyền thống trị thiên hạ như thế này. Năm xưa cha chàng theo Hoàng Thái Cực chống lại thế lực của Đa Nhĩ Cổn, bây giờ chàng cũng sẽ giúp con cháu Hoàng Thái Cực lấy lại binh quyền từ tay Ngao Bái. Tôn phò đích chúa, vạch tội tham nhũng, trừng trị những kẻ vơ vét ngân khố và thanh trừ nha phiến chính là những lý tưởng của chàng. Nên chàng không thể vì tình cảm riêng tư với nàng mà từ quan rời khỏi kinh thành, bỏ lại Hiếu Trang, Thuận Trị, Khang Hi để ba người này phải tự mình đối mặt với cả một thế lực to lớn của tam mệnh đại thần.
“Nhưng nàng an tâm,” Tế Độ nói thêm, “từ đây cho tới ngày tam mệnh đại thần không còn nắm giữ binh quyền sẽ không còn bao xa, tới chừng đó ta sẽ từ quan, rồi đưa nàng đi du ngoạn khắp nơi.”
Hà Tử Lăng nhớ sau khi Tế Độ nói với nàng câu nói đó nàng đã nhìn chàng bằng ánh mắt ngờ vực. Khoảng thời gian đó quả tình hai người quen nhau chỉ vỏn vẹn một năm. Nàng vốn không biết chàng đối với nàng vô tình hay hữu ý, đang đùa chơi hay nghiêm túc? Nàng không biết chàng đến với nàng có phải vì một lý do hứng thú nhất thời nào đó hay chính là định tâm từ trái tim? Từ cổ đối với đàn ông, phụ nữ chẳng qua chỉ là những tấm bình phong dùng để trang trí trong nhà hay nói tệ hơn nữa là những món đồ tiêu khiển. Sự ân cần của chàng đối với nàng có phải sự ân cần của một người đàn ông tìm một người đàn bà khi muốn được giải tỏa? Sẽ mãi mãi dừng lại ở mức độ đó chứ không phải vô hạn định.
Hà Tử Lăng nghĩ đến những câu trả lời vừa rồi của Tế Độ, chàng vốn không thuộc loại người sẵn sàng hy sinh danh vọng và tiền đồ chỉ vì một nữ nhân, bởi quyền lực đã sớm hóa thành một phần trong cuộc đời chàng, kiếp này khó lòng rời xa nó được. Nàng biết bất kỳ cô gái nào có dùng lời gì khuyên chàng, chàng cũng sẽ không bao giờ rút khỏi cuộc tranh đoạt vương quyền. Hà Tử Lăng lại nghĩ đến những ước mơ của nàng, nàng mơ những điều đơn giản lắm, một mái nhà, một người đàn ông yêu thương nàng và những đứa trẻ, hằng ngày nàng sẽ giặt giũ, may vá cho gia đình nhỏ của nàng. Còn chàng? Quá nhiều tham vọng, quá nhiều toan tính. Thêm vào đó trong tay chàng nếu muốn có thể sở hữu rất nhiều đàn bà. Hà Tử Lăng ước gì lúc đó nàng sáng suốt hơn, đáng ra nàng không nên ôm ấp một chút hi vọng nào về chàng.
Nhưng năm đó nàng đang đắm chìm giữa những cảm xúc yêu đương không tài nào dứt khỏi chàng được. Bởi lần đầu gặp mặt trái tim nàng đã dành trọn cho chàng. Nếu không phải là chàng, nàng chẳng muốn lấy ai khác. Chàng phong trần, điềm tĩnh, khiến nàng thấy rất cuốn hút. Đó là kiểu đàn ông nàng thích.
“Ngài có chắc là không lâu hay không?” Hà Tử Lăng nhớ nàng đã nhìn Tế Độ, hỏi: “Tiểu nữ chỉ e khi ngày đó tới, hoàng thượng thu tóm được binh quyền nhưng lúc đó tiểu nữ đã trở thành một bà cụ già, không biết có còn đủ sức đứng nữa hay không, nói gì du ngoạn khắp nơi.”
Tế Độ ồ lên một tiếng, trả lời nàng:
“Xem chừng nàng không tin vào bản lĩnh của ta rồi. Nếu nàng sợ mai này không thể đi lại thì ngay bây giờ ta sẽ chứng minh cho nàng xem.”
“Ngài muốn chứng minh cho tiểu nữ xem gì đây?”
Hà Tử Lăng bắt gặp nụ cười bí hiểm trên môi Tế Độ, lập tức hai má đỏ lên. Nàng cũng thấy ánh mắt chàng chuyển từ mắt nàng chầm chậm xuống môi và cổ nàng, rồi xuống thấp hơn... Hà Tử Lăng nhớ nàng đã lườm chàng một cú sắc như dao, khi đôi môi chàng vờn lên vành tai nàng... Lời nói rót vào tai khiến lồng ngực nàng căng cứng lên, lại thêm âm thanh hít vào thở ra của chàng khi nói những lời đó cực kỳ gợi cảm.
Hà Tử Lăng không thể quên cái cảm giác rạo rực trong người nàng. Từ trước tới giờ chưa từng có ai có thể dùng lời nói tác động đến nàng mãnh liệt như chàng, chỉ có mình chàng làm được, chẳng những bằng lời nói mà chàng có thể tác động đến nàng chỉ đơn giản bằng một ánh nhìn, những tiếng thở trầm thấp gợi tình, nàng không sao từ chối chàng. Có phải vì vẻ ngoài lịch lãm của chàng? Sự giàu có, hay quyền lực, tiền đồ? Nàng không thể hiểu nổi.
Giọng nói của Tế Độ cũng cực kỳ trầm ấm khiến cho nhịp tim Hà Tử Lăng nhảy điên loạn. Nàng cứ liên tục cảm thấy rạo rực ở những nơi nhạy cảm trên cơ thể dưới sự quan sát chăm chú của chàng. Nàng hoàn toàn chìm nghỉm trong cái nhìn như đang dán vào những nơi thầm kín nhất trên thân thể nàng.
(còn tiếp)