Người đến chính là Cốc Chẩn, gã đi lên cầu thang, nhìn cảnh tượng trên lầu, rồi nghe hai người nọ nói những lời tử biệt, trong lòng gã quặn thắt, đến khi nghe hai câu cuối, không sao nín nhịn nổi nữa, gã lùi xuống tầng dưới, tay bám víu vào mặt bàn đá, toàn thân èo uột, gã hầu như muốn té nằm nhào trên sàn.
Đúng như lời Diêu Tình nói, lần tây hành này, Cốc Chẩn là người khổ nhất, chịu mệt mỏi nhiều nhất. Không những thân xác cực nhọc, mà tinh thần còn mệt mỏi cùng cực, gã đã phải tận sức vận dụng tài trí một đời ra sắp đặt mọi công việc nào gã thu xếp được, điều động nhân lực nào gã có thể điều động được, làm thành công một sự việc chưa tiền nhân nào làm được, chỉ trong nửa tháng trời, đã vượt qua hàng mấy vạn dặm đường, Những cái đó, cũng chưa thấm gì so với cái khổ cực nhất, là trong tình huống khó khăn đến đâu, trước mặt cả đoàn, lúc nào gã cũng phải cố giữ vẻ ung dung, cổ vũ khích lệ ý chí mọi người, không dè, trải biết bao gian khó như vậy, đến lúc này, lại nhận được cái kết quả làm vậy, trong một khoảnh khắc, mồm miệng Cốc Chẩn có cảm giác đắng nghét, lần đầu trong đời, gã nếm cái tư vị của "Vi san cửu nhận, công khuy nhất quy" (Đắp một quả núi cao trăm thước, cuối cùng thiếu mỗi một sọt đất để đạt thành công": câu trích từ "Thư kinh - Thượng Thư của Lữ Ngao"). Vào lúc cả trí lẫn lực đều khô cạn, nản chí cùng cực, hai tay gã bấu chặt vào mặt bàn đá, siết chặt đến nỗi mấy móng tay gần bật máu tươi, trong đầu quanh đi quẩn lại vang vọng mỗi một câu "Đại ca anh của ta, có ta thật cũng như không... Đại ca là anh của ta, vậy mà ta thật vô dụng!" Gã không hay không biết, từ khoé mắt ứa ra một giọt lệ, chảy xuống gò má, rồi nó rỏ xuống mặt bàn phủ bụi, làm bụi bậm chỗ đó tan ra, lờ mờ hiện hình dạng nét khắc hoa văn nho nhỏ.
Là người tinh tế, Cốc Chẩn luôn luôn quan sát tỉ mỉ mọi vật, ngay đang lúc ấy, tâm trí gã vẫn hết sức cơ cảnh khác thường, nét chạm vừa lọt vào mắt, gã không dằn được, đưa tay phủi sơ bụi bậm, mới phát giác rằng, thứ nhất, đấy không phải những nét chạm hoa văn trang trí, thứ nhì, cũng chẳng phải văn tự, mà chính là chạm khắc một phần của bức hải đồ. Trong lòng khẽ máy động, Cốc Chẩn ra sức dùng ống tay áo phủi sạch bụi, mới thấy phía đầu bàn có khắc ba chữ "Hải trận đồ", gã chú tâm quan sát, những nét khắc của bức hải đồ chính là biểu hiện của những gì gã đã từng gặp trong hải trận, tất cả các mỏm đá ngầm không sót mỏm nào, sáu con khỉ đá cũng thể hiện rõ ràng, đến cả phương vị của tiểu đảo, liếc sơ qua là hiểu hết.
Quan sát một hồi, Cốc Chẩn thấy vô cùng thất vọng, gã đoán hải đồ này có lẽ là chỗ ngày xưa cha con. ông cháu Tây Côn Lôn đã dùng để thao diễn trận pháp, nếu được xem qua trước khi vào trận thì hay biết mấy, bây giờ, đã qua thoát hải trận rồi, bức vẽ phá trận này xem ra vô dụng. Gã bèn thôi xem xét, ngồi xổm ngay xuống bên cạnh, nặn óc suy nghĩ "Hiện thời, cả năm đầu mối, chỉ còn mỗi "Xà Quật", không lẽ muốn nói trên hòn đảo này còn có một ổ rắn độc nữa ư? Thế nhưng, suốt chặng đường đến thạch lâu này, gã đã chỉ gặp rặt chim biển, chẳng thấy dấu vết muông thú, hay động vật bò sát nào. Bốn đầu mối trước dều có quan hệ mật thiết, theo lẽ đó, "Xà Quật" chẳng thể là ngoại lệ, ắt phải có dính dáng lớn với "Viên Đẩu Vĩ"? Viên "Đẩu Vĩ"...
"Viên Đẩu Vĩ"? "Viên Đẩu"... Cốc Chẩn ngạc nhiên pha lẫn mừng rỡ, xoay chuyển ý nghĩ "Thì ra ba chữ đó mang hai ý, thứ nhất chỉ về đuôi khỉ đá, thứ nhì ám chỉ số khỉ đá phù hợp với bẩy ngôi sao của toà "Bắc Đẩu", nhưng tới bây giờ, gã mới chỉ đã gặp có sáu con, bẩy ông sao Bắc Đẩu, hãy còn thiếu mất một, Thiên Xu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Diêu Quang. Lấy phần cái gáo làm đầu, lấy chuôi gáo làm đuôi, đuôi đây chính là sao Diêu Quang, bức hải đồ này thiếu mất con khỉ vai Diêu Quang, các ông sao trong nhóm Bắc Đẩu thì phương hướng thay đổi luôn, nhưng cự ly, phương vị giữa chúng thì bất biến, mấy ngàn năm nay vẫn thế.
Ý niệm vừa nhen nhúm, Cốc Chẩn quan sát cẩn thận trận đồ, bức vẽ này quả thực có ý làm khó, gây cản trở cho người đọc nó, vị trí không ghi rõ rệt, nhưng may mắn thay, Cốc Chẩn bản thân say mê nghề hàng hải, Bắc Đẩu chỉ Bắc Cực, vốn là kim chỉ nam ngàn năm bất di bất dịch của người đi biển. Cốc Chẩn tối tối đều xem sao, hình dạng Bắc Đẩu do đó nhập tâm, bây giờ, gã dựa vào vị trí sáu ông sao đã rõ biết trên hải đồ, sao Diêu Quang nhìn qua là thấy ngay, chỉ tính toán sơ sơ, Cốc Chẩn đã xác định nó không ở đâu xa, nằm về phía tây nam của đảo.
Cốc Chẩn mừng như điên, gã chạy ào ào lên một gò cao, lấy từ trong bọc ra một cái la bàn, do gã theo nghề buôn bán lâu năm, trên đường di chuyển, phương hướng lộ trình rất quan trọng, đã tạo thói quen cho Cốc Chẩn, đem la bàn làm vật bất ly thân, dù mất tiền mất bạc, nhưng quyết không để thất lạc món đồ đó. Lúc này, nó thật cực kỳ đắc dụng, mũi kim vừa chuyển động, đã chỉ rõ lối đi về sao Diêu Quang. Cốc Chẩn, như một cơn lốc xoáy, co cẳng chạy vù vù đến chỗ ấy.
Trên đường, cây cối rậm rạp, cành lá đan xen, trước mắt thấy khe lạch nhỏ tụ tập lại chảy róc rách thành dòng suối về hướng biển cả. Bên bờ suối, trồng đại trà những cây thuốc như Dược Tài, Điền Thất, Hoàng Kỳ, Thiên Môn Đông, toàn những dược thảo của Trung nguyên. Bất giác, trong lòng Cốc Chẩn ngầm cảm khái "Những cây thuốc này nhất định đều do Hoa tổ sư đem đến đây, đáng thương, ngài là một vị lương y đại thánh, đã không thể tạo phúc cho cư dân Hoa hạ,không lưu danh thơm vạn cổ, mà đã phải đã trôi nổi, chết già nơi chốn xa xôi diệu vợi, đã chịu muôn ngàn nỗi tịch mịch, cái buồn khổ nhất cõi nhân gian này, không gì qua hơn được nỗi khổ đó của ngài."
Dọc đường, con suối chuyển dòng chảy, cây cối thưa thớt dần, đàng trước bỗng thấy khoáng đãng, giữa đất bằng, xuất hiện một toà thạch đài quan sát thiên văn, phần dưới rộng, mỏm trên hẹp như hình chữ KIM (金), những bậc thang lên đài đặt ngay ngắn, đài ngoảnh mặt ra biển, tuy bị dây leo quấn chằng chịt, rậm rạp, toà thạch đài vẫn hiển hiện nét nguy nga, như thưở nào!
Cốc Chẩn đảo mắt nhìn quanh, vạch rẽ cỏ hoang rậm rạp, thì thấy ngồi chễm chệ kế bên vòm cầu quan sát thiên tượng là một con khỉ đá, chính thị con khỉ của sao "Diêu Quang" chẳng sai, đàng sau con khỉ, chỏm đuôi giơ cao chỉ về phiá xa xa. Theo hướng ấy, Cốc Chẩn dõi mắt nhìn, thì thấy mấy nấc thang trong nắng chiều, tạc bóng đen chỉ về một phiến đá cao ngất.
Cốc Chẩn dấn bước xuống đài, dọc đường đi, gã không tìm thấy chút gì, lại nghĩ đến tình trạng Diêu Tình cái chết gần kề, ruột gan nổi bức xúc, gã bèn hươi một khúc cành cây khua loạn hai bên đường, muốn làm phát hiện hoặc hang động gì đó, hoặc khua đọng làm rắn độc bò ra, vừa đi vừa chọc ngoáy, chẳng mấy chốc, đã tới mé biển, tiếp tục đi nữa, sẽ ra đến vùng nước biển lạnh ngăn ngắt.
Đứng ven bờ biển, Cốc Chẩn suy nghĩ một hồi, rồi quay gót trở về bên trên thạch đài, gã nhìn xa xa theo hướng đuôi con khỉ. Lúc ấy vầng nhật đã về tây, chân trời nổi vùn vụt lên những đám mây đỏ. Bóng những bậc thang đá mỗi lúc một ngắn lại, mỗi lúc một thanh mảnh và nhô cao lên. Lúc ấy, con tim Cốc Chẩn đập mạnh một nhịp, gã lấy làm lạ mà nhận xét rằng, vầng thái dương càng ngả về tây, bóng những bậc thang trông càng giông giống hình dạng một con mãng xà, đủ đầu đủ đuôi, linh động như rắn thật, xem kỹ thì thấy thân rắn mường tượng đang có linh tính, nó lắc lư cái đầu, quẫy quẫy cái đuôi, tựa nó muốn theo mặt nhật đang lặn, vươn ra trầm mình xuống biển cả.
Cốc Chẩn nhảy dựng lên, gã ào ào chạy đuổi, chỉ chớp mắt, đã theo kịp bóng rắn, cùng lúc, vầng dương đã dần khuất vào mé đàng sau thạch đài. Bóng rắn mỗi lúc một thu nhỏ lại, cuối cùng chỉ còn gọn ghẽ một điểm, điểm đó hạ xuống, nhắm vào bên dưới một khối đá, rồi mất tích.
- Xà Quật... Xà Quật... Thì ra là vậy!
Cốc Chẩn tận sức vận chưởng, đẩy mạnh một cái, khối đá lập tức chuyển động! Thấy có biến chuyển, Cốc Chẩn mừng rộ, gã bèn đem hết sức đẩy mạnh thêm một lần nữa, khối đá cuối cùng bị tạt sang bên, rồi rầm rầm rơi đụng mặt biển. Mé dưới tảng đá, xuất hiện một cánh cửa đá hình tròn, có gắn khoen đồng đã bị hoen rỉ loang lổ.
Cốc Chẩn chụp mạnh vào khoen, tận lực kéo, khung cửa mở rộng hẳn, một luồng hàn khí toả tấp vào mặt. Bất giác, Cốc Chẩn lùi lại một chút, gã chăm chú nhìn, thấy bên trong khung cửa, có những bậc thang quanh co uốn lượn dẫn về một chỗ xa xăm tối ám mé dưới.
Tầng lầu yên ắng, thỉnh thoảng nghe vọng vào tiếng chim hót, hai người Lục Tiệm, Diêu Tình ngồi dựa vào nhau, tay trong tay, nhìn bóng nắng qua song cửa, họ cùng cảm giác tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng mỗi khắc mỗi giây đang hưởng đều thật đáng quý.
Bóng nắng nhạt dần, qua song cửa, thấy man mác một màu máu hồng nhàn nhạt. bỗng Diêu Tình khe khẽ gọi:
- Lục Tiệm!
Lục Tiệm hỏi:
- Gì thế?
Diêu Tình bảo:
- Đưa ta ra mé biển đi.
- Mé biển? - Lục Tiệm đáp - Ở đấy gió máy dữ lắm!
Diêu Tình run rẩy, cô khăng khăng:
- Ta phải ra đấy!
Lục Tiệm liếc nhìn cô, gã không muốn cãi lời, bền ôm cô, đứng dậy ra khỏi toà thạch lâu, phi thân đi, ra đến mé biển, khi thấy đơn độc chiếc tam bản buộc vào một tảng đá, bất giác Lục Tiệm tự hỏi "Cốc Chẩn đi đâu rồi vậy kia?". Ý nghĩ đang mơn man trong đầu, bỗng gã nghe tiếng Diêu Tình thì thầm bên tai:
- Lục Tiệm, mặt trời lặn mau rồi kia!
Lục Tiệm ngoảnh trông vầng nhật, giọng bùi ngùi:
- Đúng thế! Lặn nhanh thật!
Diêu Tình bảo:
- Ta thấy đẹp đấy chứ!
Lục Tiệm gật đầu, ôm cô, ngồi xuống. Dõi mắt về phương tây, Diêu Tình chăm chú nhìn một hồi, bỗng cô hỏi:
- Buổi hoàng hôn này đẹp không?
Lục Tiệm đáp:
- Đẹp! Trông đẹp lắm!
Diêu Tình cười cười, bỗng cô tìm đâu được một khí lực mạnh mẽ, lớn giọng kêu:
- Mặt trời tất phải lặn thôi!
Giật mình, Lục Tiệm ngẩn ngơ ngó cô. Nhưng, hé nở một nụ cười buồn, Diêu Tình lầm thầm:
- Thực tình, là không cam lòng đâu!
Lục Tiệm lại bỡ ngỡ lần nữa, Diêu Tình gắng gượng nét cười, cô se sẽ nhắm mắt, khẽ nói:
- Lục Tiệm, mặt trời lặn xuống, ta.. ta cũng phải ra đi thôi!
Lục Tiệm nỗi đau không sao đè nén được, gã thở hắt ra, giọng thê thảm:
- A Tình, cô đúng là phải ra đi rồi, thôi, được rồi, tôi cũng đi theo cô!
Diêu Tình hốt hoảng, cô la lớn:
- Đừng!
Cô muốn mở mắt, nhưng thần trí chợt mù mịt, cô lơ mơ thấy Lục Tiệm đứng thẳng người dậy, gã tiến bước ra vùng biển khơi.
Mặt trời đã xuống ngang tầm mặt nước, mặt biển mênh mang nhuốm một màu đỏ tựa máu, trông kinh tâm động phách, Chân Lục Tiệm lội xuống vùng nước đỏ au đó, gã chăm chú nhìn vầng nhật đang lặn, bỗng trong trí vụt kéo trùng trùng về những khúc phim cả cuộc đời gã, vui có, buồn có, giận có, thù hận có, người thân thích có, kẻ thù địch có, làm người ta khóc có, làm người ta cười có, làm người ta vướng mắc, cũng làm người ta mất mát, tất cả những cố sự trọn cuộc đời gã xuất hiện trong tâm tư.
Mực nước biển càng lúc càng sâu, đầu tiên ở ngang mắt cá chân, rồi đến nơi đầu gối. Trong lòng trống rỗng, cặp mắt đỏ quạch, nữ tử gã ôm trong lòng sao nhẹ hẫng, mường tượng cô đã hoá thành một làn gió nhẹ, gã không cách chi nắm níu, không cách chi giữ rịt lại được.
Chớp mắt, nước biển dâng đến ngang eo lưng, vị mằn mặn của nước biển vụt thấm đậm hơn lên, bỗng Lục Tiệm cảm giác nơi đầu vai bị ai đó bíu chặt vào, bị người ta hốt hoảng túm giật, thủ pháp cũng như cách dùng sức rất khéo léo, đã bất ngờ kéo gã lui về sau hai bước.
Lục Tiệm còn chưa cử động thân mình, trên mặt đã hiện thoáng một vẻ đau gắt như da thịt đang bị thiêu đốt. gã vừa nhìn rõ người ấy, đã tức tối hỏi:
- Cốc Chẩn, sao ngươi đánh ta?
Trên mặt đầy nét giận dữ, Cốc Chẩn lại tung ra một quyền nữa đập vào gò má gã, thét to:
- Đệ phải đánh cái thứ hồ đồ nhà huynh!
Lục Tiệm rúng động toàn thân, ngẩn ngẩn ngơ ngơ, bỗng gã há to miệng, gào khóc, rít giọng:
- Ta hồ đồ thì đã sao! A Tình sắp phải chết, cô ấy đang chết kia!
Cơn giận sấm sét của Cốc Chẩn đến như thế, một nửa là vì bực tức, một nưả vì quá lo sợ, vừa rồi, chỉ cần gã đến muộn một khoảnh khắc, là Lục Tiệm thế nào cũng đã ôm Diêu Tình vĩnh viễn trầm mình nơi đáy biển. Gã ban sơ quá sức giận dữ, đã tính to tiếng chửi mắng Lục Tiệm một chập, nhưng khi nhìn thấy Lục Tiệm oà khóc, cơn giận cành hông bỗng hoá thành lòng thương hại, gã bèn lặng thinh, giật lấy Diêu Tình, co cẳng chạy vào bờ.
Đang cơn ngơ ngơ ngẩn ngẩn, Lục Tiệm hốt nhiên bị cướp mất Diêu Tình, trong lòng gã vụt phát rét, nhưng nhờ đó cũng làm gã tỉnh trí một chút, bất giác gã la lớn:
- Ngươi chạy đi đâu thế?
Cốc Chẩn cũng chẳng thèm lý tới gã, cứ chạy ào ào. Lục Tiệm lo lắng, theo sát sau lưng gã, cả hai người trước kẻ sau chạy như sao xẹt, phút chốc đã về đến chỗ đài quan sát thiên tượng. mặc kệ Lục Tiệm la hét, Cốc Chẩn vẫn không trả lời, gã bung người lên, biến dạng vào sau một tảng loạn thạch.
Bấy giờ, Lục Tiệm đã hoàn toàn tỉnh táo, thấy sự lạ, gã cũng phóng mình tới, khi vừa trông thấy cửa vào mật đạo, gã không cần biết bên trong có gì quái lạ hay không, cũng đưa người vượt qua, mật đạo đó đi về phía dưới, từ gót chân loáng thoáng một thứ tiếng động bủn rủn cuả tâm ý, gã chạy được hơn hai chục trượng, bỗng nghe bên tai tiếng ì ầm liên miên không dứt, giống tiếng dã thú gầm rú, lại có phần giống tiếng giận dữ của mưa gió sấm sét, có khi nghe như tiếng thở hít, tiếng ngáy của một con quái vật khổng lồ đang ngủ. Nghe âm thanh quái lạ đó, thần trí gã có hơi núng, đúng lúc ấy, âm thanh im bặt, bốn bề tĩnh lặng, nghe rõ cả tiếng thở của mình. Yên lặng chẳng được lâu, âm thanh lại trỗi dậy, càng đi tới trước, âm lượng càng lớn, nghe kinh tâm động phách, lần đâu tiên họ Lục nhà gã được gặp, gã chưa khi nào thấy một tiếng đọng thái thậm như lần này.
Cứ như thế, động một lúc, tĩnh một lúc, thay nhau diễn ra trong khi gã đi được trăm bước. Mé trước đường bỗng hiện ra một ánh sáng xanh xanh nhàn nhạt. Bước dấn thêm mấy bước nữa, Lục Tiệm hốt nhiên thấy vách tường chung quanh hoá trong suốt, mé ngoài sóng nước gờn gợn, từng đàn cá tung tăng bơi lội. Lúc ấy, Lục Tiệm mới ngạc nhiên nhận ra rằng gã đang ở sâu dưới đáy biển, kinh dị đến khó tin, âm thanh quái dị kia vẫn không ngưng, mỗi bận nó vang lên, bốn bên tường vách như bị rung động theo, lũ cá dường như cũng bị một cỗ đại lực thu hút, chúng biến mất dạng, cho đến khi yên tịnh, mới xuất hiện trở lại. tưởng chừng như chúng bị một dòng chảy nào đó đưa đẩy, kiểu cách giống các cây rong biển, có tiếng động thì rạp mình xuống, lúc im ắng thì lại vươn thẳng lên như cũ. Bỗng chốc, bóng tối ập tới, Lục Tiệm cảm giác có một bóng hình khổng lồ lướt ngang trên đầu, gã ngẩng trông lên, chẳng khỏi ngạc nhiên khi thấy đó là một con mực ma cực to, các vòi xúc tu vươn ra, cái miệng rộng mở đóng bất định, Lục Tiệm thấy nó đang định bơi vào gần, bỗng không dè âm thanh quái dị lại cất lên, trong nuớc biển nảy sinh một luồng đại lực vô hình, đẩy bắn con mực ma mất dạng, không rõ nó bị đưa về đâu.
Đứng giưã cung điện thuỷ tinh đó, Lục Tiệm nhất thời ngẩn ngơ, dừng bước một lúc, gã vụt nhớ ra mục tiêu xuống đây, bèn ổn định thần trí, xốc cao tinh thần, rảo bước tiến ra trước. Đi chưa được mười trượng, đàng trước vụt tối sầm, mờ mờ mịt mịt trông không rõ năm đầu ngón của bàn tay, duy âm thanh kỳ quái kia mỗi lúc một to, tựa hồ cơn giận lôi đình của thần sấm, hai bên thông đạo toàn là nham thạch, giá lạnh thấu xương, cứng rắn tựa sắt thép. Lại đi thêm gần trăm bước nữa, gã thấy mé trước lấp loá một chút ánh sáng. Lục Tiệm bất giác gia tăng cước lực, qua thêm dăm ba bước nữa, dẫn đến một chỗ đại sảnh rộng rãi. Diêu Tình nằm ngang trên sàn, không rõ cô còn sống hay đã chết Trong tay Cốc Chẩn là viên "Trường Minh châu", toả ánh sáng ra hơn trượng, bên ngoài vùng ánh sáng đó thì tối như hũ nút, không trông rõ được gì.
Sau một thoáng lặng yên, Lục Tiệm hỏi:
- Đây là chỗ ấy, phải không?
Cốc Chẩn đáp:
- Đúng!
Lục Tiệm hỏi:
- Đây cũng là Tiềm Long ư?
Cốc Chẩn thở ra một hơi dài:
- Tiềm Long là Đan Điền của đại hải, chỗ này đúng là Đan Điền của Tiềm Long.
Lục Tiệm ngạc nhiên:
- Sao ngươi biết?
Cốc Chẩn giơ cao hạt minh châu, nó choá sáng, cho thấy bên ngoài mười trượng, một cái ao nước hình tròn, với một vách ngăn ở giưã chia nó làm hai như hình thái cực, mực nuớc mỗi bên chợt cao, chợt thấp, khi sôi sùng sục, lúc kết băng giá, vào lúc âm thanh quái dị trỗi dậy, mớn nước bên tả dâng cao, bên hữu hạ thấp, bên trái đóng băng, bên phải sôi sục, khi tĩnh lặng, thì xảy ngược lại, cứ thế mà lặp đi lặp lại, liên tục không ngừng nghỉ, hơi nước bốc mù mịt, dưới ánh sáng viên minh châu, cảnh tượng hiển hiện rõ ràng.
Trông cảnh kỳ dị đó, Lục Tiệm thất kinh, hỏi:
- Là gì vậy?
Cốc Chẩn tiến vài bước đến gần, soi rõ dòng chữ khắc bên ven bờ ao, có ba chữ triện "Âm Dương trì", mé dưới viết thảo trên bốn hàng, mười hai chữ: "Trì thủy kiệt, Tiềm Long tử, trì thủy hoạt, vạn vật địch" (Khi cạn nước trong ao, Tiềm Long sẽ chết, khi ao còn nuớc sinh động, Tiềm Long còn là đối địch của khắp vạn vật).
Cốc Chẩn giải thích:
- Theo mấy chữ này, cái ao "Âm Dương trì" đây là then chốt của Tiềm Long, một khi ao cạn nước, cái món Tiềm Long cũng sẽ thành vật bỏ đi, nhưng nguyên lý bên trong thì đệ thật không rõ!
Lục Tiệm đạo:
- Tiềm Long là nằm dưới đáy biển?
Cốc Chẩn đáp:
- Dường như vậy!
Lục Tiệm hỏi:
- Tại sao không thấy có nước biển thâm nhập vào đây?
- Đệ cũng không biết - Cốc Chẩn bĩu môi một cái - Chuyện huynh hỏi, có khi giải đáp nằm ở trong chỗ đó!
Gã di chuyển hạt châu, soi tỏ, tại một xó xa xa, thấy một cái rương sắt, dài sáu xích, cao bốn xích, trên mặt có then chốt bằng sắt, nhưng không thấy ống khoá. Con tim Lục Tiệm bỗng đập mạnh, gã tiến nhanh đến, gỡ then, mở rộng nắp rương.
Cốc Chẩn chạy đến trước một bước, ánh sáng viên minh châu toả rọi một thanh trường kiếm, lưỡi kiếm khá dài, đặt nằm trong một hộp đá xanh, dài cỡ năm xích, dưới thanh kiếm có sắp xếp nhiều sách vở, do rương sắt đóng kín, không khí bên trong rương bị phong toả, tuy đã quá lâu, nhưng sách vở và kiếm vẫn được bảo trì cực tốt.
Mấy ngón tay run run, Lục Tiệm nhấc nó lên, cảm giác nó nặng nề khác thường, gã kiểm tra sơ các sách vở, thấy ngoài sách toán, còn lại toàn là sách y khoa, lật qua dăm quyển, bỗng nhìn thấy một tập, bìa ghi ba chữ thảo "Tương Vong tập".
Lục Tiệm mừng muốn phát điên, la lớn:
- Ở đây này!
Cốc Chẩn cũng chỉ hừ một tiếng, Lục Tiệm nghe được, có cảm giác vừa bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt, gã quày lại nhìn, thấy Cốc Chẩn mặt nặng chình chịch, thần sắc lạnh nhạt. Lục Tiệm bất giác rầu rĩ hỏi:
- Cốc Chẩn, ngươi hãy còn bực mình ta đấy à?
Cốc Chẩn cười nhạt:
- Huynh là "Đại tình thánh", đệ đã dám ngăn cản huynh tự tận vì tình, nghĩ lại thấy mình lỗi lầm còn chưa chữa xong, có đâu dám bực tức huynh!
Mặt mày ửng đỏ đến mang tai, Lục Tiệm nói:
- Ta... Ta vừa rồi quá sức hồ đồ, không gặp ngươi, thật tự ta không có một chủ đích nào hết!
Cốc Chẩn lườm gã, bỗng tai quái vung tay tống cho gã một quyền, cười, mắng:
- Bỏ đi! Hành động đó của huynh thiệt dễ ghét... nhưng cũng đáng thương, đệ mà còn đôi co cùng huynh chuyện đó, thấy chẳng đáng công sức!
Lục Tiệm cười xoà, gã cúi đầu đọc sách, các trang ghi chép dầy đặc những chữ nhỏ xíu, xem qua vài trang, Lục Tiệm không hiểu được gì cho thấu đáo, gã càng lộ vẻ hoảng hốt, nhưng không dám nói năng câu nào.
Cốc Chẩn cười gã:
- Huynh đọc kiểu đó, có mà tìm ba ngày cũng chẳng thấy được gì!
Gã giật quyển sách, xem qua phần tổng mục, quả nhiên có một chương viết về "Đại cương về Nội Thương", lật đến trang "Đại cương - Nội thương", xem phần liệt kê, thấy có một mục bàn về "Mạch hủy".
Tìm đến trang ấy, Cốc Chẩn lướt qua vài dòng, gã bỗng lẩm nhẩm đọc:
- Cao thủ không tự giác mức độ nội lực của minh, hiếu thắng sính cường, sử dụng chân lực ẩu tả, sẽ chẳng tránh khỏi hoạ bị tổn thương kinh mạch, nội tạng hư hỏng, tệ hại nữa là có thể bị huỷ hoại hết trăm mạch, làm ngũ tạng trống rỗng, cho dù dùng linh chi, nhân sâm lâu đời cũng không thể nào phục hồi kinh mạch, cho dù là người mang nội công cao siêu, cũng vô lực tự chữa, ngay cả có bậc thày thuốc thánh thủ hết sức điều trị, người bệnh sau không quá dăm tháng đau đớn cùng cực, lúc tinh cạn khí kiệt, sẽ chết vì hư nhược. Thấy chuyện này, mới hiểu, bạo vũ là chết chắc, cho nên, vạn sự, hãy giảm bớt tranh cạnh. Kẻ nào sính cường chính là kẻ yếu... Kẻ nào làm vẻ yếu kém, chính là kẻ mạnh đấy. Muốn giải trừ cái ách nạn này, chẳng gì hay bằng tự đề phòng trước, tự mình chẳng tranh đấu cùng người, đấy mới là chân lý!
Đọc ngang đấy, Cốc Chẩn bất giác cười rộ, tự nhủ "Từng nghe nói vị Hoa tổ sư đó thật có tâm tư vô cùng từ ái, sáng suốt, mình thấy rõ, không lúc nào bà không quên răn dạy hậu thế."
Lục Tiệm quá bứt rứt lo lắng, bèn hỏi:
- Chỉ vậy thôi ư?
Cốc Chẩn vui vẻ bảo:
- Đừng nôn nóng! Hãy còn nữa đây!
Rồi gã đọc tiếp:
- Bệnh này hiểm nghèo, y học không có cách chữa, nhưng tập sách này là bàn luận theo óc tưởng tượng, không nói về cách chữa trị đã từng thực hiện! Trời sinh sự tinh tế cơ thể con người thật ảo diệu vô cùng, nhưng hiểu biết về nó thì lại rất thô thiển, chưa được quá một phần trong muôn một, tỉ như, người ta, ngoài kinh mạch ngũ tạng, lại còn có ba mươi mốt ẩn mạch, cực kỳ tinh vi, cực kỳ áo diệu, chưa ai có hiểu biết sâu rộng về chúng. Thế nhưng, những ẩn mạch đó, tự chúng là một tập hợp, tinh khí chuyển dịch liên miên, không giống hiển mạch, nói ra có vẻ nghịch lý, khi hiển mạch bị hư hỏng, ta có thể dùng những ẩn mạch ấy thay thế, kiểu như khi sông hồ bị khô kiệt, cây cỏ héo úa, ta có thể dùng nước ở những mạch chảy ngầm dưới đất tưới táp giúp thảo mộc tươi tốt trở lại, chuyển sự chết trở về đất sống...
Cốc Chẩn đang đọc râm ran ngang đấy, gã bỗng nín bặt, đưa mắt liếc qua, thì thấy sắc diện Lục Tiệm tái mét, ánh mắt vô thần! Cốc Chẩn bất giác thở hắt ra, rầu rầu nói:-
- Không sao ngờ nổi, cách chữa trị nói trong "Tương vong tập" lại là cách tu luyện kiếp lực?
Lục Tiệm khẽ sựng sờ, gã run giọng:
- Thế thì... Thế thì không có cách nào khác sao?
Cốc Chẩn liếc sơ qua, rồi lắc lắc mái đầu:
- Phần sau là viết về cách tu luyện do Hoa tổ sư suy nghĩ ra, bà còn chua thêm một câu, thảng hoặc có người bệnh nguy ngập, có thể dùng "Hoạt tham lộ" (nước sâm duy trì sự sống) cất ở trong "băng nhãn" (mắt băng) bên đáy hồ bên tả duy trì kiếp sống bệnh nhân thêm được dăm ngày.
Gã vừa nói, vừa rảo bước đến bên mé tả ao "Âm Dương trì", nước trong đó đang sôi, Cốc Chẩn đặt quyển sách xuống, vận bát kình hộ thân, gã thò tay xuống chỗ nước sôi, bàn tay lần mò, quả nhiên dò thấy một hốc đá lớn cỡ vài tấc tay, nói cũng lạ, mặt nước bên trên sôi ầm ầm, nóng khôn tả, bên trong hốc đá lại lạnh ngắt như giá băng. khiến Cốc Chẩn bất giác nghĩ thầm "Trong mỗi con cá của Thái Cực đồ, con âm phải có mắt dương, con bên dương phải có mắt âm, trong âm có dương, trong dương hàm chứa âm, toàn âm một mình thì không sống sót, toàn là dương thì không bền lâu. Cái ao "Âm Dương trì" này cứ liên tục hết đầy lại vơi, đúng là tuân theo quy luật ấy chăng? Chưa kể, vạn vật đều có sự biến hoá kỳ lạ, vậy mà càng biến đổi thì lại càng bất biến, vậy thì, hai bên ao này khi nóng sôi sục, khi kết băng giá, cái ao bên tả thì có âm nhãn, trong đó nhất định ngàn năm không khi nao nóng, còn bên hữu có dương nhãn, không chừng luôn luôn chẳng khi nào lạnh!
Trong lúc gã suy ngẫm, nước ao bên tả vụt chuyển sang lạnh, trong đầu Cốc Chẩn biết rằng chẳng mấy chốc nữa, nước ao bên ấy sẽ đóng thành băng, muốn lấy món đồ cất trong hốc đá thì phải nhanh tay, quả nhiên gã mò được trong hốc một cái hộp bằng bạc, bèn lấy ra, đem đặt bên bờ ao, nhìn sơ qua, thấy bên trong hộp có chứa một bình bằng ngọc, sờ vào thấy lạnh ngắt. Cốc Chẩn gỡ bỏ nút niêm phong, lập tức từ bình ngọc bốc lên một mùi thơm ngát, Cốc Chẩn mừng rơn, đem bình đưa cho Lục Tiệm. Lục Tiệm nâng Diêu Tình dậy, rót thứ nước trong bình vào miệng cô.
Tính mạng Diêu Tình mong manh như tơ, sinh cơ đã dứt cạn, món thuốc "Hoạt Tham lộ" này dẫu là linh dược, nhưng đã để quá hai trăm năm, chẳng biết có còn giữ được công dụng nữa không, hai người Lục, Cốc chả có gì bảo đảm, họ chỉ đành chăm chú nhìn không chớp mắt vào gương mặt Diêu Tình, chẳng mấy chốc, thấy thân thể cô ấm dần lại, vầng trán giãn ra, hô hấp dần dà nhẹ nhàng ổn định, không còn thoi thóp bất định như vừa rồi. Quá sức mừng rỡ, Lục Tiệm níu chặt vào tay Cốc Chẩn, xúc động nói:
- Cốc Chẩn... Ta... ta thực không biết phải cám ơn ngươi như thế nào cho đủ!
Cốc Chẩn vui vẻ bảo:
- Cám ơn đệ làm quái gì? Muốn cảm ơn, huynh hãy cảm ơn Hoa tổ sư, tấm lòng bà tràn trề nhân hậu, hết sức mẫn cảm.
Lục Tiệm đáp:
- Dĩ nhiên phải cảm ơn Hoa tổ sư rồi, thế nhưng nếu không có ngươi tìm ra chốn này, thì làm sao đã có thể xoay chuyển được tình thế...
Gã bỗng hiện nét đau khổ trên mặt, rầu rĩ nói:
- Thế nhưng theo sách nói, linh dược này chỉ có thể duy trì tính mạng được dăm ngày, không trừ tuyệt tận gốc rễ cơn bệnh, muốn trừ cho tuyệt thì phải...
Nói ngang đấy, gã nhíu tít hàng chân mày, bặm môi. đầy vẻ khổ não.
Cốc Chẩn âm thầm gượng một nét cười, gã hiểu rõ, đối với việc luyện nô, Lục Tiệm mang một vết thương lòng cực lớn, với gã, chuyện tối kỵ nhất đời là phải đem người gã thương yêu nhất luyện thành kiếp nô! Trước giờ, gã chưa khi nào có ý niệm đó trong đầu, bây giờ càng quyết không dám nghĩ tới.
Lục Tiệm lặng yên một lúc, gã ngẩng đầu hỏi:
- Cốc Chẩn, sao ngươi không nói năng gì hết vậy?
Cốc Chẩn đáp:
- Việc đó là chuyện của hai người, đệ nói năng gì được đây? Nếu phải làm kiếp chủ cho đại mỹ nhân, ngoài huynh ra, đừng nghĩ có thể tìm được người thứ hai trong thiên hạ. Cho dù là thế, mình còn phải xem chủ ý của đại mỹ nhân ra sao, nếu cô ấy thà chết không làm kiếp nô, huynh sẽ hành xử thế nào?
Lục Tiệm bất giác run người, gã cứ nghĩ tìm được "Tương Vong tập" là giải quyết được tất cả vấn nạn, đâu có ngờ y thư lại đề xuất cái nan đề còn khó khăn hơn trước nhiều, đưa người ta đến mâu thuẫn cùng cực.
Cốc Chẩn nhăn mày nhíu mi, gã cầm sách lên, đưa ngón tay lật, đọc qua thêm dăm ba trang trong "Tương Vong tập" nữa, rồi gã buồn bã nói:
- Thì ra là vậy!
Lục Tiệm vội hỏi:
- Là sao?
Cốc Chẩn đáp:
- Đọc qua phần dẫn ở đầu sách, những gì ở đây là Hoa tổ sư lúc về già viết nên, lúc ấy, bà ở cách xa Trung thổ, bà bị tách xa khỏi họ hàng thân thích, mà không một cơ hội đoàn tụ, đúng theo câu nói của Trang Tử, "Đẫ không thể đem sức mọn ra giúp rập được người vào lúc họ đang cần được giúp, thì chỉ đành tìm quên lãng chốn giang hồ". Đọc trong sách này, toàn là những gì về y học bà nghiền ngẫm được trong lúc tuổi già, tỷ như chuyện đem thay óc, thay tim, hoán chuyển kinh mạch, tẩy rửa tuỷ sống, cũng là những gì bà đã không thể điều trị trong quãng đời trước kia, đến lúc phải sống cách xa nhân loại, bà mới tưởng tượng ra, đề nghị phương thức điều trị mà không sao kiểm chứng bằng thực nghiệm. Tất nhiên toàn là những suy tưởng của bà, thực khó mà lấy đó làm chuyện có cơ sở đích xác. Tư Cầm tiên sanh đã đốt rụi sách này, có khi ông muốn tránh lưu truyền hậu thế những ý tưởng dễ đưa đến suy nghĩ sai lầm.
Lục Tiệm không dằn được, gã hỏi:
- Thế nhưng chuyện tu luyện ẩn mạch đích xác có thật, chuyện luyện nô, Hoa tổ sư cùng Tư Cầm tiên sinh đều không nghĩ tới, nhưng chúng là sự thật.
Gã còn chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng kêu yếu ớt của Diêu Tình
- Lục Tiệm!
Lục Tiệm nhô mình ra, Diêu Tình gắng mở mắt, khi cô thấy gương mặt Lục Tiệm, cô thầm thì:
- Ngươi... ngươi đừng làm chuyện ngờ nghệch, đừng có đi theo ta!
Nói xong, không chờ gã trả lời, cô đã nhắm nghiền đôi mắt, chìm vào hôn mê.
Lục Tiệm chăm chăm nhìn vào Diêu Tình, gã ngơ ngẩn một lúc, tròng mắt đỏ quạch, gã thở ra một hơi dài, rầu rầu nói:
- Cốc Chẩn, lòng ta hiện rất khó chịu, ta dẫu không chết theo cô ấy, cũng không có cách nào khác đứng nhìn cô ấy chết đi!
Cốc Chẩn đưa mắt liếc gã, hỏi:
- Huynh đã lấy quyết định rồi ư?