Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đi đến bên chiếc bàn gần đó, đưa bút lên viết phương thuốc chữa trị, sau đó đưa cho Triệu Tam bảo gã đi sang thôn Giáp ở bên cạnh mà cắt thuốc. Triệu Tam đỡ lấy đơn thuốc rồi đưa tay vào trong người moi ra một túi tiền, gã mở ra liền sau đó cung kính dâng lên cho Đỗ Văn Hạo vài lạng bạc nói “Bẩm Ngự Y đại lão gia! Tiểu nhân cũng chỉ có từng này tiền để trả cho đại lão gia, mong đại lão gia và tiểu thư thu nạp lấy ạ!”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn tưa tay ra đẩy cánh tay của Triệu Tam về, mỉm cười nói “Lúc nãy là do muội muội của ta có đùa cợt quá lời! Nguyên tắc của ta là nhà nào có tiền thì sẽ thu nhiều, nhà nào khó khăn thì ta thu ít, còn những người nghèo khổ thì thôi, ta miễn phí cho! Xem tình hình kinh tế của gia đình ngươi thì cũng thuộc vào hạng nghèo khổ, vậy nên tiền chẩn đoán này ta miễn phí cho ngươi, cái này coi như là những nhà có tiền trả cho ngươi là được rồi! Không hề có chuyện ơn nghĩa gì ở đây cả! Thôi ngươi mau mau đi cắt thuốc cho mẫu thân của ngươi dùng đi! Chúng ta cũng phải đi rồi!”
Triệu Tam cùng với người vợ của mình nghe vậy liền cúi đầu tạ ơn luôn miệng, sau đó mới đứng dậy tiễn Đỗ Văn Hạo cùng với Kha Nghiêu và Lý Phố ra khỏi nhà của mình.
Vừa ra đến bên ngoài thì Lý Phố đã quay sang Đỗ Văn Hạo nói “Đỗ đại ca! Lúc nãy tại hạ cùng mấy người khác đã dò hỏi thêm rồi, cách cái thôn này một đoạn không xa có một ngôi chùa có tên Báo Quốc Tự, là nơi dựng ngay cổng lên trên núi Nga Mi, hay là chúng ta cùng đến đó ngồi chờ mấy vị phu nhân tới rồi đi lên núi luôn một thể”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mỉm cười gật đầu nói “Được! Như thế cũng tiện!”
Sau đó, Đỗ Văn Hạo cùng với Kha Nghiêu leo vào trong xe ngựa, còn Lý Phố phụ trách đánh xe. Trên đường đi, Kha Nghiêu vẫn đang suy ngẫm về tình hình bệnh án vừa rồi, nàng vẫn còn khá nhiều thắc mắc, nên sau khi lên xe Kha Nghiêu không ngừng đưa câu hỏi cho Đỗ Văn Hạo “Đỗ đại ca! Khi nãy đại ca nói cho muội biết về đạo lý của Hàn Chứng và Nhiệt Chứng, muội cũng đã hiểu hơn một chút, nhưng về chuyện dùng thuốc thì huynh có thể giảng giải kỹ hơn cho muội nghe được không Tại sao vị đại phu chữa trị lúc trước lại dùng thuốc Phụ Tử Lý Trung Thang lại không đúng bệnh Và huynh đã kê phương thuốc gì cho mẫu thân của Triệu Tam vậy”
Đỗ Văn Hạo nói “Phụ Tử Lý Trung Thang là một vị thuốc có tính ôn, trong đó có những vị cực kỳ nóng, và ôn dùng để trợ Tâm Dương, thuốc này còn có vị trung ôn giúp tì vị tăng dương khí, hạ ôn giúp thận tăng dương, đây đều là những vị thuốc hồi dương chữa nghịch khí. Ngoài ra vị thuốc này còn có gừng khô, đây là một vị thuốc vô cùng nóng, mà bà cụ của Triệu Tam lại là Nhiệt Chứng, tính hỏa trong người rất vượng, có những lúc thân thể của bà cụ nóng như lò lửa, giờ lại bị uống thêm bài thuốc có đặc tính nóng như thế này, thì chẳng khác gì đổ thêm dầu vào lửa! Chính vì bị nóng như vậy mà đầu óc mới quay cuồng bất tỉnh như vậy!”
“Ồ! Vậy là muội đã hiểu rồi! Vậy sao huynh lại bắt muội phun nước vào người bà cụ là có ý gì thế” Kha Nghiêu trợn tròn mắt hỏi.
“Ta để cho muội ngậm rượu phun vào ngực bà cụ chứ không phải phun nước! Muội đừng nhầm lẫn như vậy! Dùng lông ngỗng quẹt nước có mật ong và dùng gương áp vào như vậy là ta muốn bà cụ nôn ra ngoài được, đây là phương pháp giải tỏa nhiệt trong người cơ bản nhất, chỉ cần nôn ra được thì những khí nhiệt trong người đang bị phong bế cũng theo đường miệng nôn ra ngoài, sau khi nôn xong thì thần trí bà cụ cũng đã tỉnh lại, muội cũng thấy rồi đấy, tuy là sức khỏe còn yếu, nhưng ít ra bà cụ không còn bị hôn mê như trước nữa!”
Trong lúc hai người đang mải mê bàn tán thì cỗ xe đã đi đến Báo Quốc Tự.
Lý Phố vốn định phái người đi thông báo cho chủ trì của Báo Quốc Tự cùng với các tăng lữ trong chùa ra nghênh đón, nhưng bị Đỗ Văn Hạo ngăn lại. Hắn giờ đây chỉ muốn mình là một hương khách bình thường đến đây để thăm quan ngắm cảnh, không muốn vì quyền thế của mình mà bắt ép, làm phiền người khác. Chính vì thế mà hắn một mực bảo mọi người không được tiết lộ thân phận thật sự của hắn ra ngoài, để tránh những phiền toái không cần thiết làm mất nhã hứng ngắm cảnh của hắn
Khi cỗ xe ngựa vừa mới đến chân của Báo Quốc Tự, thì Đỗ Văn Hạo đã nhanh chân xuống xe trước tiên, rồi sau đó hắn bước vào bên trong tự.
Ngôi chùa Báo Quốc Tự này so với các ngôi chùa tại kinh thành thì không thể nào sánh bằng được, kể cả nguy cơ bề thế, lẫn khí phái của nó đều không phải là một ngôi chùa lớn. Hòa thượng nơi đây cũng chỉ có tầm hơn chục người, nhưng nói cho cùng thì đây cũng là một cổ tự ở dưới chân núi Nga Mi nổi tiếng. Chính vì thế mà các quy tắc của nhà chùa cũng vô cùng nghiêm khắc, ngoại trừ các tăng lữ được phân nhiệm vụ đón tiếp khách ra, thì các vị tăng lữ khác buộc phải tụng kinh ở trong đại điện, bọn họ hoàn toàn khác với các tăng lữ ở những ngôi chùa hạ cấp ở nơi khác, cứ thấy có hương khách đến phúng viếng là ai nấy đều bu lấy nịnh nọt, xin ít tiền hương khói.
Tăng lữ tiếp đón Đỗ Văn Hạo trông thấy hắn có đem theo tùy tùng, thì cũng hiểu ngay hắn cũng là người có gia thế, có tiền của. Nhưng sau khi tiếp xúc với hắn thì lại thấy hắn vô cùng thân thiện, dễ gần. Sau khi tăng lữ tiếp đón Đỗ Văn Hạo vào trong đại điện bái chào tượng phật Như Lai xong, thì Đỗ Văn Hạo liền rút trong người ra một tấm ngân phiếu mười lạng cho vào trong hòm công đức ở đây, động tác của hắn vô cùng thuần thục, và hào phóng.
Tăng lữ được phân nhiệm vụ đón khách kia cũng là người tinh mắt, đã nhận ra được mặt tờ ngân phiếu mười lạng bạng được bỏ vào hòm công đức rất nhẹ nhàng, bất giác cảm thấy rung động cõi lòng. Phải biết rằng, mười lạng thời nhà Tống tương đương với một vạn nhân dân tệ (khoảng tầm hơn ba mươi triệu VNĐ), chính vì vậy mà tăng lữ này biết ngay Đỗ Văn Hạo là một hương khách có tiền, đối với những nơi thâm sơn cổ tự như chùa Báo Quốc Tự này, thì những hương khách như Đỗ Văn Hạo không phải là nhiều, hắn hào phóng quyên góp một số tiền lớn như vậy, cũng là lần đầu tiên tăng lữ này được chứng kiến thấy.
Cho dù các nhà tu hành coi tiền như cỏ rác, thế nhưng bọn họ nói cho cùng vẫn phải lo lắng chuyện cơm ăn, áo mặc hàng ngày, ngoài ra còn phải bỏ tiền trùng tu lại những nơi hư hỏng trong chùa, sau đó lại còn phải lo tiền hương khói cho các vị Bồ Tát, và phật trong chùa, chính vì thế mà mặc dù coi tiền như cỏ rác, nhưng đôi khi họ vẫn phải cần đến cỏ rác để nuôi sống chính bản thân mình và nhà chùa. Chính vì vậy mà tăng lữ tiếp khách sau khi thấy Đỗ Văn Hạo hào phóng như vậy, bèn vội đưa hắn đến một gian phòng riêng, dâng trà tiếp đãi vô cùng cẩn thận, rồi sau đó liền cho người đi mời lão Phương Trượng đến nói chuyện.
Lão Phương Trượng này cũng là một lão tăng có phong độ, mặc dù lão biết Đỗ Văn Hạo vừa quyên góp một khoản tiền khá lớn, cũng có thể coi là một lượng tiền trợ cấp không nhỏ cho nhà chùa, nhưng nét mặt tiếp đón của vị lão Phương Trượng này vẫn vô cùng bình thản, ngồi tiếp trà nói chuyện với Đỗ Văn Hạo.
Kha Nghiêu là một người ghét cay ghét đắng cái kiểu uống trà nói chuyện một cách đạm bạc, vô vị như kiểu lão Phương Trượng tiếp trà với Đỗ Văn Hạo, do vậy nàng cũng không muốn ngồi nghe cùng với Đỗ Văn Hạo, mà tự mình bỏ ra ngoài đi thăm thú cảnh chùa nơi đây, Lý Phố thấy vậy bèn vội phái hai người hộ vệ đi theo bảo hộ Kha Nghiêu liền ngay lập tức.
Trong phòng lúc này, Đỗ Văn Hạo và vị lão Phương Trượng kia vẫn đang nói chuyện về những vấn đề về Phật học. Trong thời hiện đại thì những phim ảnh, sách báo nói về Phật học khá nhiều, cho dù Đỗ Văn Hạo vẫn chưa hề nghiên cứu qua về nó, nhưng hắn thỉnh thoảng vẫn lợi dụng thời gian rảnh rỗi, mà đem những thứ có liên quan đến Phật học ra đọc, ra xem. Chính vì vậy mà khi nói chuyện với lão Phương Trượng lúc này Đỗ Văn Hạo cũng nói được thêm mấy câu, hơn nữa những câu nói của hắn cũng chứa đựng nhiều ý nghĩa vô cùng sâu sắc, khó dò.
Lão Phương Trượng dĩ nhiên làm sao mà biết được Đỗ Văn Hạo là người đến từ tương lai, ở cái thời mà cái gì cũng trở nên vô hình, không gì còn là bí mật nữa, ngay cả những thứ cao siêu, khó hiểu như Phật học trong thời hiện đại chỉ cần Google lên một cái là có biêu nhiêu thứ để tham khảo. Chính vì vậy mà khi nói chuyện với Đỗ Văn Hạo, lão Phương Trượng cứ nghĩ rằng hắn là một người tự nhiên ngộ Phật, bất giác vô cùng khâm phục khả năng hiểu biết của hắn, lão cũng không ngờ rằng một công tử nhà giàu như Đỗ Văn Hạo lại có Phật tính cao đến như vậy, chính vì thế mà khi nói chuyện với hắn lão vô cùng cao hứng, cười nói luôn miệng, nếp nhăn cũng từ đó mà ngày càng hiện ra rõ hẳn lên.
Đang lúc một già một trẻ nói chuyện tâm đầu ý hợp, thì Lý Phố tiến vào bên trong cúi người nói “Bẩm thiếu gia! Các vị phu nhân hôm nay có việc, nên không đến được đây thưởng ngoạn với thiếu gia! Hôm nay có lẽ là.....”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cảm thấy kinh ngạc lên tiếng hỏi lại “Có chuyện gì vậy”
Lý Phố nghe vậy bèn tiến gần đến bên Đỗ Văn Hạo, rồi ghé miệng vào tai hắn thấp giọng nói “Khi chúng ta vừa mới rời thành được không lâu, thì bên ngoại thành có đưa đến một sản phụ sắp lâm bồn, chính vì vậy mà có lẽ hôm nay các vị phu nhân phải làm bà đỡ cho ca sinh nở này, đây cũng là dịp để cho các vị phu nhân có một hiện trường đỡ đẻ để làm mẫu cho các học viên Nữ Y khác được học hỏi thực chiến, hay là chúng ta quay về trong thành xem tình hình thế nào”
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì lắc đầu không đồng ý, sau đó hắn liền quay sang lão Phương Trượng nói “Đại sư! Tại hạ muốn mượn ngủ ở qua đêm ở đây một tối, không biết có tiện cho nhà chùa hay không”
Lão Phương Trượng nghe xong bèn niệm a di đà phật, sau đó mỉm cười nói “Không có vấn đề gì cả! Bổn tự phòng trống rất nhiều, có thể dung nạp được cả đoàn người của thí chủ, không có gì đáng ngại cả!”
“Vậy thì tốt quá rồi!” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ đáp, sau đó hắn quay sang Lý Phố nói “Nơi đây phong cảnh hữu tình, thâm sơn cổ tự, lại vô cùng thanh tĩnh, bây giờ mà quay về thì e rằng chúng ta cũng chẳng giúp được gì cho mấy vị phu nhân của ta. Thôi thì không bằng ở lại nơi đây thưởng ngoạn một phen, ngươi mau phái hai người quay về thông báo cho mấy vị phu nhân của ta biết, bọn họ cứ việc an tâm mà làm công tác đỡ đẻ của mình đi, sau khi xong rồi thì đến đây cũng không muộn, ta sẽ chờ bọn họ ở đây!”
Lý Phố nghe xong bèn cúi người vâng dạ, sau đó liền quay người lui ra ngoài làm theo phân phó của Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo và lão Phương Trượng lúc này cũng đã đàm đạo được hơn nửa ngày trời, Kha Nghiêu cũng đã du ngoạn chán chê, mỏi mệt. Sau khi nàng quay về thì đã được tăng lữ dẫn đến căn phòng đã được sắp sẵn cho nàng, đó là một căn phòng bằng trúc khá đơn giản, trong đó có một tấm phản được kê làm giường, chăn gối đầy đủ, tất cả mọi thứ đều được dọn dẹp vô cùng sạch sẽ.
Đỗ Văn Hạo cũng vô cùng ưng ý với nơi nghỉ của mình.
Khi mọi người được phân phó phòng ốc xong đâu đấy, thì được một tiểu sa di tiến vào thông báo cơm chay đã được chuẩn bị đàng hoàng, lão Phương Trượng còn đích thân đến mời Đỗ Văn Hạo và Kha Nghiêu đến phòng ăn để dùng bữa.
Nhà ăn nơi đây vô cùng đơn giản, chỉ là hai chiếc bàn dài và hai hàng ghế bằng gỗ dài mà thôi. Trên bàn lúc này có bầy mấy đĩa rau cải, mấy đĩa đậu phụ, mấy bát cơm xù xì xấu xí, và cộng thêm mấy đĩa dưa muối.
Ở đó là mười mấy vị hòa thượng đã đứng thẳng tắp chờ đợi, chờ khi đoàn người Đỗ Văn Hạo bước vào, thì tất cả bọn họ đều đồng loạt cúi người thi lễ vô cùng cung kính.
Bên cạnh cửa sổ phòng ăn lúc này đã được đặt thêm một chiếc bàn tròn, chờ cho lão Phương Trượng đưa tay ra ý, thì Đỗ Văn Hạo và Kha Nghiêu được dẫn đến bên chiếc bàn tròn đó, còn Lý Phố và mấy tên hộ vệ khác thì được ngồi ở bên chiếc bàn dài bên cạnh, những vị tăng lữ sau khi trông thấy khách khứa đã an tọa xong thì cũng lục đục ngồi xuống theo.
Kha Nghiêu lúc này cũng đã đói meo cả bụng, chính vì vậy mà mặc dù rau cải, đậu phụ không có chút dầu hào, hay dầu ăn nấu cùng, nhưng nàng vẫn ăn rất ngon lành.
Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đang định đưa bát lên ăn cơm, thì hắn trông thấy một vị lão tăng có hành động chậm trễ, nét mặt vô cùng đau đớn, khổ sở. Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì bèn lưu ý thấy vị lão tăng cũng chỉ mặc một chiếc áo lót như áo may ô, bụng trướng lên, da trắng nhợt, trông bị phù nề vô cùng ghê gớm.
Đỗ Văn Hạo lúc này bèn lên tiếng hỏi lão Phương Trượng “Thưa Phương Trượng! Vị đại sư này có phải là đang có bệnh không ạ”
“Đúng vậy!” Lão Phương Trượng đáp “Tên hiệu của vị đại sư đó là Minh Không! Minh Không đại sư đã bị phù nề mấy tháng nay rồi, uống nhiều thuốc chữa trị mãi mà vẫn chẳng thấy có tiến triển gì tốt cả!”
Minh Không hòa thượng lúc này thấy lão Phương Trượng đang nói chuyện về mình với Đỗ Văn Hạo, nên cũng đành miễn cưỡng quay sang bên Đỗ Văn Hạo nở một nụ cười vô cùng đau khổ, khó coi.
Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói “Tại hạ thực ra cũng am hiểu một chút về y thuật! Hãy để tại hạ xem cho vị đại sư này một lúc!”
Lão Phương Trượng nghe vậy thì thầm cảm thấy kinh hãi, lão liền đưa mắt lên dò xét Đỗ Văn Hạo một hồi rồi nói “Thí chủ! Thí chủ am hiểu về y thuật thật sao”
Kha Nghiêu nghe vậy thì bụm miệng cười phì ra một cái, suýt chút nữa thì phun cả miếng cơm đang nhai trong miệng ra ngoài, quay sang nhìn lão Phương Trượng nói “Đại sư! Đỗ đại ca của tiểu nữ không chỉ am hiểu về y thuật đơn giản như vậy thôi đâu! Huynh ấy còn là....”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì thầm kinh hãi, hắn liền đưa chân lên dẫm vào chân của Kha Nghiêu một cái rõ đau, không cho nàng kịp thốt hết câu nói của mình. Kha Nghiêu bị hắn dẫm một cú đau điếng, nhưng cũng hiểu tình thế của mình, nên ngậm luôn miệng lại, cúi đầu cặm cụi ăn tiếp.
Đỗ Văn Hạo liền mỉm cười nói “Tại hạ cũng chỉ am hiểu chút ít mà thôi! Minh Không đại sư! Mời đại sư ngồi sang bên này một lúc, tại hạ sẽ xem bệnh giùm cho đại sư!”
Minh Không nghe vậy cũng không vội vã nghe theo lời của Đỗ Văn Hạo mà đứng dậy, ông ta chỉ đưa mắt sang nhìn lão Phương Trượng một cái ra ý. Lão Phương Trượng cũng rất lo lắng cho bệnh tình của Minh Không, nên cũng đã tìm rất nhiều đại phu đến khám chữa bệnh cho ông ta, nhưng kết quả lại vô cùng bi quan, cho đến tận bây giờ mà căn bệnh của Minh Không vẫn càng ngày càng nặng. Trong mắt của lão Phương Trượng thì Đỗ Văn Hạo chẳng qua là một thiếu gia nhà giàu, cho dù có am hiểu về y thuật thì cũng chỉ là thuộc dạng hiểu biết vớ vẩn, trông hắn non trẻ thế này cho dù có học qua về y, thì cũng chỉ thuộc dạng ngựa non háu đá, bệnh của Minh Không đến ngay cả mấy lão Trung Y già cũng chưa khám chữa được, nữa là một người non choẹt như hắn. Nhưng mà, lão Phương Trượng cũng thấy Đỗ Văn Hạo thực ra cũng chỉ vì hảo tâm mà đòi xem bệnh cho Minh Không, người ta lại vừa quyên góp một số tiền lớn như vậy, nên cũng không tiện từ chối, chính vì thế mà sau khi trông thấy Minh Không liếc mắt ra ý, thì lão Phương Trượng cũng gật đầu đồng ý cho ông ta đứng dậy ra chỗ Đỗ Văn Hạo cho hắn khám chữa bệnh.
Đỗ Văn Hạo sau khi thấy Minh Không ngồi xuống bên cạnh mình thì liền yêu cầu ông ta giơ chân của mình lên, sau đó hắn liền đưa ngón tay cái của mình ra đưa lên ấn một cái, khi hắn bỏ tay ra thì trông thấy có một vết lõm rất sâu, phải một lúc lâu sau mới trở lại nguyên hình dạng cũ. Đỗ Văn Hạo lại bảo Minh Không cho hắn chẩn đoán lưỡi của ông ta, sau khi lên tiếng hỏi về các hiện tượng xong, Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng hỏi Minh Không “Đại sư! Trước khi bị phù nề to như vậy thì đại sư đã dùng các loại thuốc gì rồi”
Minh Không nghe vậy bèn cúi người đáp “Bát Chính Tán, Hổ Phách Tán, và còn cả Ngũ Tử Ngũ Bì cái gì gì nữa đấy!”
“Có hiệu quả gì không” Đỗ Văn Hạo hỏi.
“Chẳng có hiệu quả nào cả! Bần tăng vẫn cứ ngày càng phù ra, tiểu tiện đầm đìa, vô cùng khó chịu!” Minh Không nhăn nhó đáp.
Đỗ Văn Hạo nghe xong thì lắc lắc đầu tiếc rẻ nói “Dùng thuốc không đúng bệnh! Thì dĩ nhiên sẽ làm cho người bệnh càng lúc càng khó chịu! Chả trách!”
Minh Không nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì ngạc nhiên nói “Thí chủ! Bệnh này của bần tăng lẽ nào không phải là phù nề hay sao”
“Đúng là phù nề, ngoài ra bệnh này còn gọi là phù nước nữa, mà nguyên nhân dẫn đến phù nước thì có rất nhiều, bệnh chứng cũng khác, chính vì thế mà kê đơn thuốc cũng không giống nhau, bệnh phù nước này của đại sư chính là Bì Nước!”
“Bì Nước ư” Minh Không hòa thượng nghe xong cũng không thể hiểu nổi bệnh này có nghĩa là gì nữa.
“Ừm! Trong Kim Nặc Yếu Lược có nói ‘Bì Nước kỳ mạch diệc phù, ngoại chứng phù chủng, an chi mạt chỉ, bất ác phong, kỳ phúc như cổ, bất khát!’ (Tạm dịch Bệnh Bì Nước thì mạch phù, biểu hiện bên ngoài là phù nề, ấn vào thì mất hẳn dấu của ngón tay, không sợ gió, bụng dễ trương to như trống, nhưng lại không cảm thấy khát) Điều này hoàn toàn đúng so với bệnh tình của đại sư, cũng được gọi là Bì Nước!”
Kha Nghiêu lúc này trong miệng vẫn còn đang nhai ngấu nghiến, nói “Đỗ đại ca! Thế nào thì được gọi là Bì Nước vậy”
Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn mỉm cười nói “Trong Chu Bệnh Nguyên Hầu Luận có viết ‘Thận hư trạch thủy vọng hành, lưu ích vu bì phu, cố kim thân thể diện mục tất thũng, an chi mạt chỉ nhi vô hạn dã. Phúc như cố nhi bất mãn. Diệc bất khát, tứ chi trọng nhi bất ác phong thị dã. Mạch phù giả, danh duyệt Bì Nước dã!’ ( Tạm dịch Thận hư thì dễ có nước lộng hành, chính vì thế mà nước sẽ biểu hiện trên bên ngoài bề mặt da bên ngoài, làm cho thân thể trở nên phù nề, ấn vào thì có cảm giác như bị mất ngón tay, bụng chướng to, nhưng không khát. Tứ chi nặng mà không sợ gió, mạch phù, cái này có tên gọi là Bì Nước!) Đơn giản mà nói đó chính là Phổi, Thận, Tì bị mất khả năng vận chuyển nước trong cơ thể, hoặc là vận chuyển thất thường làm cho nước bị tràn ngập ra bên ngoài, tạo ra hiện tượng phù nước như vậy!”
Đỗ Văn Hạo nói xong những câu này làm cho lão Phương Trượng cùng với Minh Không hòa thượng mắt chữ o mồm chữ a, kinh ngạc không biết sao tả xiết. Hai người lão tăng cao tuổi như vậy mà nghe cũng phải xuất thần, thì những vị tăng giả khác cũng đều ngưng đũa, ai nấy cũng đều chăm chú nghe lời giải thích của Đỗ Văn Hạo.
Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục nói “Chứng Bì Nước của Minh Không hòa thượng là do khí trong phổi bị ách tắc, dẫn đến khí ở trong tì bị hư, không thể vận chuyển bình thường, chính vì thế nên mới làm cho nước dịch bị ngừng hoạt động, khiến nước trong cơ thể bị ứ đọng, đây chính là thực chứng nhưng lại hư ở bên trong. Nước khi mà không được lưu thông thành ra ứ đọng, tạo nên bị phù nề, khi phù nề không được tiêu trừ thì sẽ làm cho chính khí bị mất, chính vì vậy khi chữa bệnh này, trước tiên phải xử lý Thượng Tiêu trước, để trị chứng ứ đọng, sau đó mới bồi bổ Trung Tiêu để khôi phục, cứ thế kết hợp cả hai cách chữa trị như vậy, thì bệnh mới có thể thuyên giảm được!”
Trong lý luận của Trung Y thì cho rằng Phổi, Tì, Thận đều có khả năng vận chuyển nước dịch trong cơ thể, trong đó thì Phổi là thượng nguồn của nguồn nước, Thận là hạ nguồn của nguồn nước, còn tì thì là ở giữa hai nơi để phân phối lưu thông nước đi khắp các vị trí quan trọng trong cơ thể người. Một khi Phổi, Tì, Thận hoạt động vận chuyển nước trở nên thất thường, thì sẽ làm cho nguồn nước trong cơ thể bị ứ đọng, tạo ra tắc nghẽn sẽ tạo ra đờm, hoặc làm cơ thể bị phù nề.