[1] Trích trong Kinh Thi, bài Kích cổ. (ND)
Ngẩng đầu nhìn
tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hóa như cũ, hoa có cười chê
người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt
nước.
Gần mười người đàn bà xúm xít quanh một cái nong lớn, trong nong là mười mấy nắm tằm giống màu sắc khác nhau, A Hành lần lượt nhặt từng loại lên giảng giải.
“Những giống tằm phổ biến nhất ở đại hoang là tằm dâu, tằm tạc, tằm thầu dầu, tằm sắn, tằm dâu ngựa, tằm long não, tằm dẻ, tằm xư, tằm ô cựu, tằm liễu, tằm hổ phách… Đa phần
chỉ cần nghe tên là biết thức ăn chủ yếu của giống tằm đó là gì. Các
giống tằm khác nhau cũng có công dụng khác nhau, ví như tằm thầu dầu
không ươm được tơ nhưng có thể kéo lụa sống, còn loại màu vàng kim này
là tằm hổ phách, chuyên ăn lá cây kim, tơ dai mà lóng lánh như hổ phách, có điều sản lượng rất thấp nên chỉ dùng dệt vải vóc thượng đẳng thôi…”
Đám đàn bà nhặt tằm giống lên vừa phân biệt thật kỹ, vừa rì rầm trao đổi.
A Hành bước tới manh chiếu trúc trải cạnh đó, khoanh chân ngồi xuống sàng lọc những giống tằm láo nháo mà người làng thu thập được, đương lúc
trời nóng bức, nàng lại hao tâm tổn sức phân loại nên chẳng mấy chốc đã
đổ mồ hôi đầy đầu. A Hành đưa tay quệt mồ hôi trán, đang định kiếm miếng nước uống chợt thấy một cốc nước đưa tới trước mặt.
Ngỡ rằng ai đó trong số đàn bà kia đem đến cho mình, nàng thuận tay đón lấy uống
một hơi cạn sạch rồi cười nói: “Cảm ơn.” Nghiêng người đưa trả chiếc cốc mới nhận ra là Thiếu Hạo.
Y đang ngồi xổm một bên tò mò nhìn nàng lựa tằm giống, còn đám người trong sân chẳng biết đã tản đi tự lúc nào.
“Chàng tới khi nào vậy? Sao chẳng gọi thiếp?” A Hành hết sức bất ngờ.
“Hôm nay trong triều chẳng có việc gì nên ta ra mấy thôn làng bên ngoài đi
dạo nghe nói nhà nào nhà nấy đều có thể tới nhận tằm giống miễn phí, vừa khéo tiện đường, ta liền tới thăm nàng, thấy nàng đang giảng giải cho
mấy phụ nữ kia có vẻ rất thú vị, ta bèn đứng ngoài lắng tai nghe, thật
chẳng ngờ con tằm giống bé xíu mà cũng chứa nhiều kiến thức đến thế.”
A Hành nhoẻn cười, cúi xuống tiếp tục sàng lọc.
Thiếu Hạo hỏi: “Nàng lấy đâu ra nhiều tiền thế?”
“Chàng quên những thứ phụ vương và vương hậu thưởng cho thiếp rồi sao? Những
vật dụng chuyên dùng trong vương thất thiếp đều sai Bán Hạ cất đi, còn
các thứ khác chất đống trong kho cũng chỉ tổ bám bụi, chi bằng đem ra
mướn người thu thập những loại tằm láo nháo về gây nên tằm giống.”
“Hèn chi dân tình mười dặm tám làng quanh đây đều hết lời ca ngợi phụ vương, té ra là vì chuyện này.”
“Thiếp dùng những thứ phụ vương ban thưởng nên đương nhiên ân trạch này thuộc về phụ vương rồi.”
Thiếu Hạo khẽ nói: “Cảm ơn nàng.”
A Hành thấy sắc mặt Thiếu Hạo u ám, tựa hồ vừa xảy ra chuyện gì đó không
vui, nhưng y đã không nói, nàng cũng chẳng tiện gặng hỏi, bèn trỏ mấy
con tằm giống trước mặt bảo, “Chàng giúp thiếp lựa giống tằm đi, cứ dùng linh lực kiểm tra, nếu thấy trứng tằm tốt, nở đều thì giữ lại, nếu thấy không tốt tức là không thể gây giống được, thì để thả lại ra đồng
hoang.”
Thiếu Hạo khoanh chân ngồi xuống cạnh A Hành, bắt đầu
sàng lọc. Y sẵn có linh lực cao cường nên tằm giống vừa qua tay đã tự
động chia thành hai loại, chẳng hề mất công nhọc sức. Ỷ lại Thiếu Hạo, A Hành trốn việc không làm nữa, chỉ ngồi một bên vừa hóng mát vừa xem y
làm.
Thiếu Hạo lại hỏi nàng: “Hôn lễ của Xương Ý đã định vào mùa xuân sang năm, Thanh Dương phái sứ giả tới xin phép phụ vương để sang
năm đón nàng về Hiên Viên dự lễ cưới Xương Ý đó.”
A Hành mừng rỡ, “Thế phụ vương nói sao?”
“Phụ vương nhận lời rồi, còn bảo ta về cùng với nàng để bái kiến nhạc phụ nhạc mẫu.”
Nghĩ tới hôn lễ của Tứ ca, lại nghĩ tới việc mình được về nhà, A Hành vô
cùng vui sướng, nheo nheo mắt ngắm vầng dương rực rỡ trên đầu ngọn cây.
Hai người làm thinh chẳng ai nói gì nên nghe rất rõ những âm thanh trong
làng đưa lại, nào là tiếng trâu kéo cày, tiếng trẻ con đùa giỡn đuổi
nhau… A Hành lại chạnh lòng nhớ tới Cửu Lê, giờ đang là tiết hoa đào nở
rộ trong núi Cửu Lê, Mễ Đóa và Kim Đan đã con đàn cháu đống rồi chăng?
Họ vẫn ca vang khúc sơn ca tỏ lòng mình với đối phương trong bóng hoàng
hôn loang rực mặt sông kia chứ?
Thiếu Hạo cất tiếng hỏi: “Nàng đang nghĩ gì thế?”
A Hành khẽ đáp: “Nếu vĩnh viễn không có chiến tranh, cứ bình yên thế này mãi thì hay quá.”
Thiếu Hạo dịu giọng an ủi, “Sẽ như thế, nhất định sẽ như thế mà.”
A Hành vờ bình thản hỏi: “Gần đây phía Thần Nông sao rồi?”
Thật ra điều nàng muốn biết là Xi Vưu dạo này ra sao. Từ khi gả tới Cao Tân, hết bị thám tử của Tuấn Đế dòm ngó lại bị thị nữ do Hoàng Đế phái tới
vây quanh, A Hành gần như bị cách ly với thế giới, chẳng nhận được chút
tin tức nào từ bên ngoài.
“Thú vị lắm.”
“Sao cơ?”
“Nhân lúc Chúc Dung bận đi đánh ải Đồng Nhĩ, Xi Vưu đã tạo dựng một đội quân, thoạt đầu chỉ có mấy chục người, toàn là đàn ông Cửu Lê tộc, Xi Vưu bèn đăng bảng chiêu mộ dũng sĩ trên khắp Thần Nông, bất kể xuất thân sang
hèn, địa vị cao thấp, chỉ trong mấy tháng đã tuyển được năm trăm người.
Chúc Dung ngồi không vững ở ải Đồng Nhĩ nhưng Du Võng lại sai hắn giữ
ải, ngoài miệng nói là để thưởng cho hắn, bảo vệ chiến công của hắn,
thực tế là ngăn không cho hắn quay về cản trở việc của Xi Vưu, hiện giờ
Chúc Dung đang khốn đốn mà chẳng biết kêu ai.”
A Hành không nhịn được cười: “Thật chẳng khác nào đem Chúc Dung đày ra biên ải, chiêu
hiểm thế này không giống chủ ý của Du Võng, ắt là ý của Xi Vưu đây.”
Vẻ mặt Thiếu Hạo nặng nề như chất chứa trùng trùng tâm sự, hồi lâu y mới
nói khẽ: “Vừa nãy ta bị phụ vương quở mắng trên đại điện.”
“Sao thế?”
“Nói ra thì dài dòng lắm, một lời không hết được.”
“Chàng cứ thong thả kể đi, thiếp rảnh rỗi mà.”
“Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc thượng cổ, duy trì dòng dõi rất khắt
khe, mấy vạn năm nay để giữ gìn lợi ích cho tộc mình, họ nghiêm cấm
những kẻ không cùng đẳng cấp kết hôn với nhau. Viêm Đế đời trước muốn
cưới Viêm Hậu xuất thân thấp kém cũng chật vật muôn vàn, sau cùng phải
nói thác rằng Viêm Hậu thuộc chi thứ của Xích Thủy thị mới có thể miễn
cưỡng kết hôn. Bởi đã nếm mùi đau khổ nên suốt thời gian tại vị, Viêm Đế luôn nỗ lực phá bỏ quy định khắt khe về dòng dõi, có điều muốn cải cách một tập tục đã mấy vạn năm nhất định phải máu chảy đầu rơi, mà Viêm Đế
lại là người nhân hậu, không nỡ lòng nào, bởi thế dù ông ta cố gắng đến
mấy đi chăng nữa cũng chỉ thay đổi được bề ngoài chứ không sao chạm tới
gốc rễ. Nhưng Xi Vưu thì khác, để đạt được mục đích, hắn chẳng ngại gì
thây phơi đầy nội, dưới tay hắn, ắt hẳn Thần Nông sẽ thay da đổi thịt.
Hiên Viên vốn khác hẳn hai nước chúng ta, nên khỏi cần nhắc tới.”
“Phải, Hiên Viên không giống với hai nước kia.” Giọng điệu A Hành toát lên vẻ
kiêu ngạo, “Thiếp phát hiện phụ nữ Cao Tân khi bình phẩm về đàn ông
chẳng thèm đếm xỉa gì tới phẩm cách tài hoa của họ mà đầu tiên phải quan tâm tới dòng dõi huyết thống trước đã, như thế chỉ những kẻ con nhà
dòng dõi, mang huyết thống cao quý mới đáng để kết hôn vậy, những lời đó thoạt nghe chỉ là chuyện vãn khuê phòng, nhưng lại phản ánh rất nhiều
điều. Người Hiên Viên bọn thiếp tuy không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi
hai đại Thần tộc, nhưng phụ vương thiếp từng nói: “Thần tiên, con người
hay yêu quái trừ chủng tộc bất đồng còn lại đều bình đẳng, chẳng có gì
là cao quý hay đê tiện cả, thật hoang đường hết sức.” Dù là người hay
yêu quái, sự sang hèn của bản thân chỉ phụ thuộc vào chính những hành
động của mình mà thôi. Ở Hiên Viên, bất kể chàng thuộc Thần tộc, Nhân
tộc hay Yêu tộc, bất kể chàng sinh ra trong nhà quyền quý hay nghèo hèn, chỉ cần có tài, chàng sẽ được mọi người kính trọng.”
Thiếu Hạo
nói: “Đến giờ Cao Tân vẫn chìm trong niềm tự mãn của một Thần tộc thượng cổ chứ nào chịu nhìn nhận sự cổ hủ của mình, ngay phụ vương cũng đâu có nhận ra Thần Nông đang chuyển mình mạnh mẽ, họ chỉ coi chuyện tranh đấu giữa Chúc Dung và Xi Vưu như một cuộc chiến giành quyền lực mà thôi.
Hôm nay trên triều ta tâu rằng cuộc tranh đấu giữa Xi Vưu và Chúc Dung
thật ra là cuộc xung đột giữa hai giai tầng rồi thử đề xuất một vài cải
cách nhưng phụ vương rất không vui, nói lễ nghi tôn ti là gốc để lập
quốc, vậy mà ta lại dám nói càn đòi thay đổi.”
Những chuyện này A Hành chẳng làm sao tháo gỡ giùm y được, nàng đành lựa lời khuyên giải:
“Chàng cứ từ từ, có những chuyện không thể nóng vội được đâu.”
Thiếu Hạo thở dài: “Chỉ mong có thể khuyên phụ vương để ngài dần hiểu ra
thôi! Nếu Cao Tân cứ khư khư bảo thủ thế này thì sớm muộn sẽ mất nước.
Có lúc ta cũng thực ngưỡng mộ Xi Vưu, hắn muốn gì làm nấy, chẳng ngại gì cả.”
A Hành lặng thinh, đăm đắm trông vời xa xăm.
Lựa
giống tằm xong, Thiếu Hạo quay sang hành lễ với A Hành, “Vương tử phi
nương nương, ta làm xong rồi, chúng ta về nhà được chưa?”
A Hành cười đáp: “Về thôi.”
Cùng Thiếu Hạo cưỡi Huyền điểu quay về, thầm nghĩ tới đám cưới sắp tới của
Tứ ca, A Hành sực nhớ ra phải chuẩn bị quà gặp mặt cho chị dâu tương
lai.
Thấy nàng lặng yên không nói, Thiếu Hạo bèn hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”
“Thiếp đang nghĩ xem nên tặng quà gì cho Tứ tẩu.”
“Nàng đã nghe ngóng xem Tứ tẩu thích gì chưa?”
“Thiếp chẳng biết gì hết, tại cái tính của Tứ ca đó! Hỏi mười câu huynh ấy chỉ đáp nửa câu, thiếp lải nhải bên tai huynh ấy cả ngày chỉ moi được mỗi
chuyện chị ấy là con nhà vọng tộc ở đó, họ Trọc Sơn.”
“Thần Nông có Cửu Lê, Hiên Viên có Nhược Thủy, đều là những vùng dân tình thuần
phác mà dũng mãnh, chỉ nể trọng những kẻ anh hùng kiêu dũng, Tứ tẩu này
của nàng chẳng những xuất thân từ vọng tộc Trọc Sơn thị mà còn là nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy nữa đó.”
“Hả? Tứ ca định cưới
nữ tộc trưởng Nhược Thủy?” A Hành trợn tròn mắt, “Thiếp cứ ngỡ Tứ ca sẽ
cưới một cô gái dịu dàng hiền thục kia, ai dè huynh ấy lại thích nữ
trung hào kiệt!”
Thiếu Hạo bật cười, “Nàng định tặng gì cho nữ anh hùng nào?”
A Hành nghĩ ngợi một thoáng, chợt sáng mắt lên, nghiêng đầu nhìn THiếu
Hạo cười ranh mãnh: “Xưa nay anh hùng chuộng danh khí! Món quà thích hợp nhất phải làm phiền Thiếu Hạo điện hạ vang danh thiên hạ về nghề rèn
rồi, có điều nghe nói xưa nay y không rèn binh khí, chẳng hiểu y có chịu ra tay giúp đỡ hay chăng?”
“Không phải y không chịu, nhưng…”
A Hành hồi hộp hỏi: “Nhưng sao?”
Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời, làm bộ nghĩ ngợi một hồi, “Cũng chẳng có nhưng gì cả, năm xưa lấy không bí quyết nấu Thư tửu của nàng, xem như là trả
lễ vậy! Có điều hơi gấp gáp, thời gian một năm thì chỉ rèn được chủy thủ tùy thân thôi.”
A Hành thở phào nhẹ nhõm, nàng xúc động lắc lắc cánh tay Thiếu Hạo, mừng rỡ hơn cả khi y làm lợi cho mình: “Cảm ơn
chàng, cảm ơn chàng, cảm ơn…”
Thiếu Hạo cười, “Huynh muội nàng y hệt nhau, lúc nào cũng chỉ chăm chăm muốn dâng cho đối phương những thứ tốt nhất trên đời.”
A Hành chẳng hề phủ nhận mà còn nhoẻn cười gật đầu, “Tứ ca là ca ca tốt nhất trên đời đó.”
“Thế còn Thanh Dương?”
A Hành tắt hẳn nụ cười, khẽ nói: “Đại ca giống phụ vương, đều lấy đại cuộc làm trọng.”
Thiếu Hạo định nói gì đó nhưng sau cùng chỉ gượng cười làm thinh.
Tối đến A Hành ngồi ở giường, tấm áo đỏ rực đã gập vuông vắn đặt trên đầu
gối. Nàng vừa vuốt ve tấm áo vừa nhớ lại năm xưa trên Thần Nông sơn, Xi
Vưu bắt nàng hứa rằng mồng tám tháng Tư hàng năm sẽ gặp nhau dưới cội
hoa đào, nàng đã nói với hắn, miễn là năm nào hắn cũng mặc áo nàng may
thì nàng sẽ tới gặp. Trong lời nói đã có ý hẹn ước cả đời, Xi Vưu hiểu ý nàng nên mừng rỡ khôn cùng .
Lúc sắp thành hôn với Thiếu Hạo,
bên cạnh nàng luôn có thị nữ giám sát, còn chỗ Xi Vưu hắn cũng trùng
trùng nguy cơ, bởi thế nàng không dám báo tin cho hắn, lỡ bị phát hiện
chẳng những sẽ liên lụy tới mẹ và Tứ ca mà còn có thể đẩy Xi Vưu vào
đường cùng nữa.
Có lẽ giờ đây nàng và Thiếu Hạo thành hôn đã
lâu, lại thêm tin tức bay về đều khiến Hoàng Đế yên lòng nên ông dần nới lỏng vòng kiềm tỏa, đám thị nữ cũng quen với việc nàng bận bịu chạy đi
chạy lại, chẳng còn cảnh giác như xưa.
Sáng mai nàng định tới
thôn trại Nhân tộc xem tằm, chắc có thể tìm cơ hội sai A Tệ lén đem áo
rời khỏi Cao Tân, đưa đến cho Xi Vưu, trông thấy áo, ắt Xi Vưu sẽ hiểu
nàng muốn nói gì. Dù xui xẻo rơi vào tay kẻ xấu đi nữa, chúng cũng chỉ
thấy một manh áo mà thôi.
Hai ngày sau, A Hành dâng thư lên Tuấn Đế xin tới miền Bắc cực Cao Tân dạy dân chăn tằm dệt lụa, vì đường sá
xa xôi nên không thể ngày đi tối về Ngũ Thần sơn được.
Thời gian này, Tuấn Đế luôn để ý mọi hành vi của Hiên Viên Bạt trong dân gian,
đương nhiên cũng nghe thấy hết những lời tán tụng của muôn dân đối với
mình, so với một Thiếu Hạo thâm trầm tinh minh, ông còn thích nàng dâu
khéo trồng hoa nhổ cỏ, bình phẩm thư họa này hơn, liền vui vẻ chuẩn y
ngay.
Đám thị vệ và thị nữ Cao Tân tộc theo Hiên Viên Bạt đi đi
lại lại vô số làng mạc, chưa từng có điều gì sơ suất, chỉ thấy vương tử
phi hết lòng lo toan cho trăm họ Cao Tân, đương nhiên cũng dần lơi lỏng
cảnh giác.
Chập tối, A Hành tạo ra một người gỗ thế vai mình đi
ngủ thật sớm. Còn bản thân nàng lại cùng A Tệ lẻn tới Cửu Lê, ngôi làng
này rất gần Thần Nông quốc, trăng vừa lên đến ngọn cây, nàng đã tới nơi.
Hoa đào trên sườn núi rực rỡ đua tươi, ánh lửa trong sơn cốc sáng lòa cả
mắt. Thanh niên thiếu nữ đều quây quần dưới gốc đào, bên đống lửa, cao
giọng hát những khúc tình ca say lòng người.
A Hành đứng dưới cội đào lặng lẽ đợi.
Đợi mãi đến khi trăng tà bóng ngả vẫn chưa thấy Xi Vưu tới.
A Hành ôm lấy A Tệ hỏi nhỏ: “A Tệ, mày đem áo đưa cho hắn rồi chứ?”
“Gừ…” A Tệ gật đầu lia lịa, nhớn nhác ngóng trông.
Thấy vậy A Hành xoa đầu nó an ủi, “Đừng nôn nóng, hắn sẽ tới mà.” Nhưng thực tế lòng nàng còn chênh chao nôn nóng hơn ai hết.
Tựa vào A Tệ, A Hành vừa lẳng lặng nghe đám thanh niên thiếu nữ hát sơn ca, vừa đợi Xi Vưu.
Ngọn lửa dần lụi tắt, khúc ca dần bặt tiếng, chỉ có ngàn cội hoa đào trong sơn cốc vẫn rực rỡ huy hoàng, âm thầm mà nở rộ.
Xi Vưu vẫn không thấy tới.
A Hành ôm lấy A Tệ, lòng đau như xé. Cao Tân cung đình quy củ ngặt nghèo, lần này để tới gặp Xi Vưu, nàng đã phải chuẩn bị từ hơn nửa năm trước,
mượn cớ dạy muôn dân trồng dâu nuôi tằm xin Tuấn Đế đồng ý cho nàng xuất cung, rồi lại giữ bổn phận từng ly từng tí nhằm đổi được lòng tin của
Tuấn Đế, vất vả cả nửa năm mới đổi được tự do một đêm, vậy mà Xi Vưu lại một lần nữa thất hẹn.
Nàng đã chuẩn bị bao điều để nói với hắn, nỗi bất lực của nàng, cơn giận của nàng, cơn giận vì năm ngoái hắn đã
thất hẹn, giận vì hắn không chịu tin nàng, và mà hết thảy dự định ngọt
ngào đều uổng phí, bao lời gan ruột chẳng biết thổ lộ cùng ai.
Lại là bi thương, lại là phẫn nộ, nước mắt cứ thế lã chã rơi.
Đột nhiên Liệt Dương hoan hỉ kêu quang quác, A Tệ vừa mừng rối rít vừa nhảy cẫng lên. A Hành ngẩng đầu trông, liền thấy một bóng áo đỏ trong mây
đang phấp phới bay đến. Nàng vội nín khóc nhoẻn miệng cười, vừa cuống
quýt lau nước mắt vừa sửa lại búi tóc, quần áo, còn thấp thỏm hỏi A Tệ:
“Thế này đã được chưa? Có rối không?”
Cánh đại bàng xẹt ngang
trời như sao băng rồi đâm bổ xuống, nàng hồi hộp đứng lặng, A Tệ mừng rỡ nhào đến, toan nhảy xổ vào lòng Xi Vưu như mọi bận, đột nhiên nó khựng
lại, hoang mang nhìn đại bàng.
Trên lưng đại bàng chẳng có một
ai, nó chỉ lượn quanh cội đào một vòng, thả manh áo đỏ ngậm trong miệng
xuống rồi đập cánh bay vút đi.
“Hu…u…u…” A Tệ kêu lên ai oán, bối rối vòng đi vòng lại quanh tấm áo.
Mặt A Hành trắng bệch, nàng đã hứa chỉ cần hắn hàng năm đều mặc tấm áo này, nàng sẽ tới gặp hắn, lần này nàng cố ý đưa áo tới nhưng hắn lại sai đại bàng ngậm hồng bào quăng xuống dưới cội hoa đào, tỏ rõ rằng hắn sẽ
không bao giờ mặc nữa.
A Hành loạng choạng chạy tới nhặt tấm áo lên, thất thần ôm vào lòng, đờ đẫn.
Cánh đào rơi lả tả như mưa, chẳng mấy chốc, đầu nàng, vai nàng đỏ rực những hoa.
Nghe Liệt Dương kêu lên quang quác, A Hành mới sực tỉnh, nhìn dáng vẻ lo
lắng của A Tệ và Liệt Dương, oan giận và bi thương đan xen dâng ngập
lòng, nàng liệng phắt tấm áo xuống đất ngươi đã chẳng cần, ta còn cần
làm chi!
Nhưng tình cảm đã trao đi nào phải muốn quăng là quăng được, dù giận hắn oán hắn, hắn vẫn mãi ở trong tim nàng.
Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hoa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan
theo bọt nước.
A Hành phẫn nộ đập một chưởng vào thân cây, lập
tức hoa đào trên cành rào rào rụng xuống như mưa, ngón tay nàng vẫn sờ
thấy vô số chữ “Xi Vưu” vạch lên thân cây năm ngoái, nếu hắn thấy những
chữ này, lẽ nào chẳng hiểu cho lòng nàng, tiếc rằng ngay cả đến đây, hắn cũng không buồn đến nữa.
Nàng rút trâm ngọc, vạch bên cạnh mấy
trăm chữ Xi Vưu kia một câu hoi đầy căm giận, “Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?” Chưa viết hết câu, ngọc trâm đã gãy đôi. A Hành cưỡi lên lưng A Tệ, chẳng nói chẳng rằng, chỉ vỗ vỗ vào người nó, A Tệ hiểu ý nàng,
lặng lẽ bay về Cao Tân.
Bấy giờ Xi Vưu đang đứng chơi vơi trên
sườn dốc chót vót gần Cửu Lê, tựa hồ chỉ cần một cơn gió là rớt xuống.
Hắn không khoác áo ngoài mà chỉ vận áo lót, rõ ràng vừa cởi ra chưa lâu.
Khe núi dưới chân hắn lô chô đá nhọn, um tùm cây cối, lại thêm một dòng
suối róc rách men theo sườn núi hai bên, quãng rộng quãng hẹp, nước suối lúc xiết lúc chậm, sau cùng tụ lại thành đầm nước trong leo lẻo. Đang
giữa mùa hoa đào nở rộ, đôi bên khe núi đỏ rực những hoa, dưới ánh trăng bát ngát hệt ráng chiều, như gấm lụa, đẹp tựa cõi mơ, gió vừa thổi qua, muôn ngàn cánh hoa đã lả tả đổ xuống sơn cốc, phất phơ như tuyết.
Xi Vưu lặng lẽ ngắm nhìn cảnh tượng dưới chân, hồi lâu chẳng hề động đậy.
Đột nhiên hắn như bừng tỉnh giấc mộng, vội ngoảnh đầu trông về phía Cửu Lê, thảng thốt. Nàng đến rồi ư? Nàng đang đợi hắn ư? Nàng ân ái mặn nồng
với Thiếu Hạo như thế, sao còn vất vả giữ lời hẹn hoa đào gì nữa chứ?
Phân vân do dự một hồi, Xi Vưu cao giọng gọi: “Tiêu Dao!”
Đại bàng vừa đỗ xuống hắn đã vội vàng nhảy ngay lên, bay vụt về phía Cửu Lê.
Ánh trăng tịch mịch rọi xuống khe núi rực sắc đào, gió đêm lành lạnh, dưới
cội đào nào thấy bóng ai, chỉ còn một manh áo đỏ tươi như máu bị quăng
dưới đất, cánh hoa rụng phủ dày, hiển nhiên nằm dưới đất đã lâu, xem ra
từ lúc Tiêu Dao quăng xuống cũng chẳng ai động tới.
Xi Vưu nhặt áo lên, ngước nhìn tàng hao cười nhạt, mấy lần nhấc tay định ném đi nhưng lại chẳng đành lòng.
Lát sau hắn ngửa mặt cười dài, nhảy lên lưng đại bàng bỏ đi thẳng.
Tháng Tư năm sau, khi sắc đào nhuộm đỏ khắp núi rừng, A Hành và Thiếu Hạo cùng về Hiên Viên dự hôn lễ của Xương Ý.
Trước khi kết hôn, A Hành hầu như chẳng có cảm giác gì với ba chữ Hiên Viên
tộc, nhưng từ sau đám cưới, dù đi tới đâu, mọi người nhìn vào nàng, nhận xét đầu tiên là người của Hiên Viên tộc, vì xuất thân Hiên Viên, có
những kẻ thuộc Thần tộc coi thường nàng, cũng có những kẻ Yêu tộc kính
trọng nàng, bấy giờ nàng mới thực sự hiểu ra ý nghĩa mà một dòng họ đại
diện.
Nàng đã rời nhà rồi lại quay về vô số lần, nhưng trước giờ chưa bao giờ mừng rỡ vì được về nhà thế này.
A Hành vừa vào đến lãnh thổ Hiên Viên, nàng đã tươi cười reo lên: “Về tới nhà rồi!”
Thấy nàng tươi tỉnh, A Tệ và Liệt Dương cũng vui lây, A Tệ vừa bay vừa kêu
líu ríu rất êm tai, khiến Huyền điểu tọa kỵ của Thiếu Hạo phải hoan hỷ
cất tiếng hót theo.
Thiếu Hạo rớt lại sau mấy trượng, âm thầm
nhìn theo A Hành đang hào hứng hoa chân múa tay. Từ ngày gả tới Cao Tân, nàng luôn dè dặt thận trọng, từng cử chỉ hành vi lời ăn tiếng nói đều
nhất nhất tuân theo nghi lễ Cao Tân, chưa từng được thoải mái tự do như
hiện giờ.
A Tệ càng bay càng nhanh, thẳng một mạch đến Hiên Viên sơn, còn sớm hơn bọn họ dự tính nửa ngày.
A Hành định cho cả nhà một bất ngờ, ai dè Thanh Dương tựa hồ cảm giác
thấy bọn họ về đến, đã đứng trước điện chờ sẵn. Trái lại, đám cung nữa
quét tước trước điện kinh ngạc khôn xiết, vội chạy như bay vào trong bẩm báo: “Vương cơ về rồi! Vương cơ về rồi!”
Thiếu Hạo vừa bước xuống tọa kỵ, đã lên tiếng ghẹo Thanh Dương: “Mấy chục năm không gặp, nom tiểu đệ Thanh Dương vẫn như xưa.”
Thanh Dương thản nhiên cười: “Ở đây là Hiên Viên sơn, ngươi lại là con rể đến chơi, phải đổi cách xưng hô, gọi ta là Đại ca.”
Thiếu Hạo liếc A Hành cười nói: “Đợi chừng nào ngươi thắng được ta rồi tính!”
Thanh Dương đáp ngay: “Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày!” Nói rồi chỉ vào rừng dâu, làm động tác mời.
“Được!” Thiếu Hạo thẳng thắn nhận lời, theo Thanh Dương về rừng dâu.
Chu Du hấp tấp đuổi theo, càu nhàu, “Hai vị công tử đã đánh suốt ngàn năm
nay rồi, cứ gì mỗi lần gặp lại lôi nhau ra phân thắng bại chứ!”
Thiếu Hạo ngoảnh lại nhìn Chu Du, “Ngươi cứ chê khúc gỗ này ngu ngốc, nhưng ta thấy khá đấy chứ.”
Thanh Dương thoáng nét cười, “Ngốc lắm, rèn giũa mấy trăm năm vẫn ngốc đến kinh ngạc.”
Chu Du tức điên mà không dám lên tiếng, đành siết chặt tay lầm bầm: “Nô tì nghe thấy đấy, nô tỳ nghe thấy đấy…”
Thanh Dương và Thiếu Hạo vừa cười nói vừa giăng cấm chế. Bàn tay Thanh Dương
trắng xóa những tuyết, từng đóa băng mẫu đơn ngưng kết quanh mình, cả
rừng dâu bỗng trở nên lạnh buốt. Thiếu Hạo cười cười đứng đó, vạt áo
không gió mà bay, nước từ dưới đất phụt lên quanh người, từng đóa hoa
nước bắn tung như những bông lan nở rộ.
Chu Du can ngăn không nổi đành quay sang cầu viện A Hành, “Vương cơ nói giùm một câu đi.”
Trông thấy mẹ và Tứ ca, A Hành lè lưỡi với Chu Du tỏ vẻ lực bất tòng tâm rồi chạy vụt về phía Luy Tổ, nhào vào lòng bà, “Mẹ!”
Luy Tổ tươi cười ôm lấy nàng, A Hành tựa vào lòng mẹ, soi Xương Ý từ trên
xuống dưới, “Trông Tứ ca ra dáng chú rể ghê, chúc mừng huynh!”
Nhìn Xương Ý đỏ mặt tía tai, A Hành phá lên cười khanh khách, đang định ghẹo thêm thì Luy Tổ đã vỗ vỗ lưng nàng, “Hôm nay là ngày lành của Tứ ca
con, đừng bắt nạt nó nữa.”
A Hành nũng nịu, “Mẹ thiên vị quá, Tứ ca đã có Tứ tẩu chiều chuộng rồi mà mẹ vẫn thiên vị huynh ấy!”
Xương ý lườm nàng, “Lẽ nào Thiếu Hạo không chiều muội? Mọi người nghe được bao nhiêu chuyện về hai người rồi đó.”
A Hành gục mặt vào vai mẹ, gương mặt tắt hẳn nụ cười nhưng giọng nói vẫn nhí nhảnh, “Mẹ, Tứ ca bắt nạt con, mẹ giúp con với!”
Đột nhiên, những bông tuyết trắng xóa như lông ngỗng âm thầm trút xuống khiến Xương Ý ngơ ngác ngẩng lên.
A Hành trỏ vào rừng dâu, “Đại ca đang giao đấu với Thiếu Hạo, hy vọng cả hai đừng ai bị thương quá nặng.”
Luy Tổ mỉm cười đưa tay hứng tuyết, đoạn quay sang dặn thị nữ theo sau:
“Tuyết rơi đúng lúc lắm, đợi lát nữa các ngươi đi hái ít dâu lạnh đi.”
Chu Du lẩm bẩm than, “Thật không biết là muốn thắng Thiếu Hạo hay muốn mượn lý do chính đáng để làm tuyết rơi nữa.”
Thiếu Hạo cùng Thanh Dương ra khỏi rừng dâu, sắc mặt Thiếu Hạo tái nhợt, khóe môi Thanh Dương ứa máu, hiển nhiên cả hai đều bị thương không nhẹ.
Chu Du cuống quýt móc đơn dược trong người ra đưa cho Thanh Dương nhưng y
chỉ xua tay lạnh lùng, “Tục Mệnh đan của ngươi chẳng có tác dụng gì với
ta đâu, cứ giữ lại cho mình đi!”
Xương Ý liền trêu: “Xem ra vẫn
là Thiếu Hạo ca ca… à, Thiếu Hạo muội phu thắng rồi!” Hiếm lắm mới có
khi chòng ghẹo bắt nạt được Thiếu Hạo, Xương Ý chưa nói dứt câu đã cười
phá lên.
Thiếu Hạo nghe nói cười cười, chẳng thừa nhận cũng
chẳng phủ nhận, tiến lên mấy bước quỳ xuống trước mặt Luy Tổ hành đại
lễ, đổi giọng gọi bà là mẫu hậu.
Luy Tổ nhận ba lạy của y rồi ra hiệu cho Xương Ý đỡ y dậy.
Xương Ý nói với Thiếu Hạo: “Hồi nhỏ lần đầu tiên gọi Thiếu Hạo ca ca, ta đã
ước giá mà Thiếu Hạo là ca ca của mình thật, ngờ đâu hôm nay chúng ta
lại thành người một nhà thật rồi!”
Thiếu Hạo vẫn tươi cười như thường, nhưng ánh mắt thoáng vẻ hoảng hốt.
Luy Tổ một tay dắt A Hành, một tay dắt Xương Ý bước vào tẩm điện, Thanh Dương và Thiếu Hạo sánh vai đi sau.
A Hành cùng Xương Ý vẫn chứng nào tật nấy, vừa đi vừa nói, vừa nói vừa
cười, râm ran cả lên. Xương Ý đấu võ mồm không lại A Hành còn định quay
lại kêu Thiếu Hạo đòi phân xử.
Thiếu Hạo chỉ cười không nói gì,
nụ cười từ khóe môi lan dần lên ánh mắt. Cung đình Cao Tân lễ giáo
nghiêm ngặt, y không có mẹ, cũng chẳng có huynh đệ ruột rà, trong trí
nhớ, từ nhỏ y đã phải để ý lời ăn tiếng nói từng chút một, luôn luôn đề
phòng để khỏi bị người ta hãm hại, xưa nay chưa bao giờ làm con của một
người mẹ, cũng chưa bao giờ làm huynh trưởng của các em. Y cứ ngỡ rằng
vương tộc chính là như vậy, nhưng lần này y mới cảm nhận được, thì ra
anh chị em với nhau có thể thoải mái nói cười, thuận hòa vui vẻ thế này
đây.
Đến giữa Ngọ, nghe kẻ hầu vào bẩm đoàn đưa dâu đã tiếp cận
Hiên Viên sơn, Xương Ý cuống quýt lên, chân tay như thừa thãi cả, vừa
đội mũ mặc áo vừa luôn miệng hỏi Thiếu Hạo, “Hôm đó lúc đón A Hành về,
đệ nói những gì?” Chẳng đợi Thiếu Hạo trả lời, y lại nói tiếp: “Hôm đó
hai người suôn sẻ hết mọi bề, lỡ hôm nay có sự cố gì, ta phải làm sao
đây?”
A Hành và Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nhau, Thiếu Hạo mỉm cười
làm thinh còn A Hành cười đáp: “Tứ ca yên tâm đi, nếu huynh không xử lý
được thì Tứ tẩu sẽ xử lý!”
Xương Ý lườm A Hành rồi ngẩng lên
trời lẩm nhẩm cầu khẩn: “Lạy trời cho mọi bề suôn sẻ, mọi bề suôn sẻ!”
Khấn xong vẫn chần chừ bất động, lại quay sang Thanh Dương, “Đại ca,
huynh cùng xuống núi với đệ nhé?” Gương mặt y đầy vẻ nài nỉ, tội nghiệp
vô cùng, hệt như hồi nhỏ mỗi khi có chuyện gì rắc rối lại đi tìm Đại ca
nhờ vả.
Thanh Dương chịu hết nổi bèn đẩy thẳng Xương Ý vào xe
mây, sốt ruột mắng, “Đệ đi rước dâu chứ đâu phải đi đánh lộn, ta đi theo làm gì? Mau đi nghênh đón cô dâu đi!”
Xương Ý vẫn bấu chặt tay áo Thanh Dương, căng thẳng nài nỉ: “Đại ca, huynh đợi đã, đệ còn muốn hỏi…”
“Hỏi cái gì mà hỏi? Ta đã lấy vợ đâu mà biết!” Thanh Dương giật tay ra, một
chưởng quét qua lưng chim loan kéo xe mây, chim loan liền hót vang bay
thẳng xuống núi.
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Xe mây tròng trành nghiêng ngả rồi biến mất giữa biển mây, tiếng gọi của
Xương Ý vẫn văng vẳng lại: “Đại ca, Đại ca…” Thanh Dương bực bội cau
mày.
A Hành cười lăn cười bò với Thiếu Hạo: “Trong mắt Tứ ca,
Đại ca cái gì cũng biết, cái gì cũng giỏi, việc gì cũng phải tìm Đại
ca.”
Thiếu Hạo cười cười không đáp. Trên danh nghĩa, y có hơn
hai mươi người em trai, nhưng chẳng đứa nào coi y là Đại ca cả, y chỉ là hòn đá ngáng đường chúng bước lên vương vị mà thôi. Nhìn Thanh Dương
bực bội như vậy, nhưng kỳ thực trong lòng hắn rất sung sướng. Cả hai đều hiểu, ở vị trí của mình không thể tin tưởng bất kỳ ai, cũng chẳng có ai dám tin tưởng hai người bọn họ, có được một người toàn tâm toàn ý tin
cậy là chuyện chỉ có thể gặp chứ chẳng thể cầu.
Đợi đoàn xe rước dâu của Xương Ý đi xa, Thanh Dương, Thiếu Hạo và A Hành mới thong thả xuống núi.
Thấy hai bên đường là hai hàng cây cao vút, thân đỏ sẫm, lá xanh biếc, A Hành tò mò hỏi: “Cây gì thế này?”
Chu Du đắc ý cười khoe: “Trừ giống phù tang ở Thang cốc[2], trên đại hoang
còn ba loại thần mộc khác là nhược mộc, tầm mộc và kiến mộc. Đây chính
là nhược mộc nổi tiếng khắp nơi. Nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không thể ra hoa, nhưng nô tỳ đã khiến bọn chúng nở hoa vào hôm nay đó.”
[2] Thang cốc hay còn gọi là Dương cốc, theo truyền thuyết là nơi mặt trời
mọc. Theo Sơn Hải kinh, ở Thang cốc có loài cây phù tang, là như lá dâu, còn gọi là phù mộc. (ND)
Dọc hai bên đường bọn họ đi qua, nhược mộc nở hoa rực rỡ từ chân núi lên tận đỉnh, từng đóa từng đóa hoa to
bằng miệng chén đỏ chói, nhuộm thắm cả đất trời.
A Hành ngây ra trước sắc đỏ rạng rỡ ấy, dưới biển hoa đở thắm kia, nàng nhìn thấy nổi lên một bóng áo đỏ rực còn chói mắt hơn.
Đặt cạnh vóc dáng cao lớn, khoác tấm áo đỏ rực như máu của Xi Vưu, những
cây nhược mộc chót vót đều nhạt nhòa hẳn đi. Hắn chăm chú nhìn A Hành,
vẻ mặt lạnh lùng xa cách nhưng cặp mắt lại rực lên nóng bỏng, bao ánh
nhìn là bấy nhiêu khổ đau và khát vọng. A Hành cũng ngơ ngẩn nhìn hắn,
nghe đau đớn quặn lên trong lòng.
Xe mây đỗ lại, Thanh Dương và
Thiếu Hạo bước tới trước mặt Xi Vưu nói lời cảm tạ bọn họ không quản
đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ. A Hành sững sờ nhận ra đây chẳng
phải là ảo ảnh, Xi Vưu quả thật đang đứng dưới gốc nhược mộc.
Chẳng ngờ lần này lại gặp Xi Vưu ở đây, A Hành hoảng hốt, không dám nhìn về
phía hắn, cũng chẳng dám tiến lại, đành vờ chăm chú ngắm nhược mộc hoa.
Thấy Thanh Dương gọi nàng qua bên đó, A Hành biết mình trốn không nổi, đành cố định thần, tươi cười bước tới trước mặt bọn họ.
Có đông đủ mọi người, Vân Tang không muốn vồn vã với A Hành nên chỉ trao
đổi xã giao mấy câu, giữ đúng lễ tiết vương tộc gặp nhau. A Hành cũng
biết Vân Tang nhiều mối lo âu, giờ đây nàng mới dần dà hiểu được giữa
vương tộc với nhau có bao nhiêu phức tạp. Chẳng phải Đại ca nàng và
Thiếu Hạo trước mặt mọi người vẫn khách sáo xã giao với nhau đó thôi,
nghĩ vậy, nàng cũng bày ra một nụ cười giả tạo che mắt quan khách.
Nào ngờ gã Hậu Thổ lạ hoắc vừa gặp A Hành đã tỏ vẻ thân thiết vô cùng, khác hẳn thái độ nhã nhặn kín đáo thường ngày, còn kéo cả Mộc Cận tới hành
lễ với A Hành, luôn miệng gọi “vương tử phi”, trái lại, Xi Vưu chỉ hờ
hững vái một cái: “Vương cơ dạo này ổn chứ?”
Mộc Cận ngỡ Xi Vưu
không hiểu lễ nghi nên lỡ lời, bèn nhắc khẽ: “Nữ tử đã thành hôn sẽ xưng hô theo vai vế bên chồng, phải gọi là vương tử phi.”
Thanh
Dương và Thiếu Hạo hình như đều không nghe thấy gì, A Hành rung động, lo âu cùng vui mừng dâng ngập cả lòng, nỗi oán hận đã vơi đi quá nửa, liền đáp: “Mọi chuyện ổn cả.”
Xi Vưu cười hỏi tiếp: “Chẳng biết
những lúc vương cơ ân ái mặn nồng cùng Thiếu Hạo, có khi nào chạnh lòng
nhớ tới người xưa chăng?”
Mọi người nghe nói đều tái mặt, may
sao đúng lúc đó đoàn đưa dâu Nhược Thủy đến nơi, hỷ nhạc rộ lên rộn rã,
át cả câu hỏi của Xi Vưu.
Hai ả thị nữ vén rèm xe, nữ tử áo đỏ
rực ngồi ngay ngắn bên trong, dung mạo thanh tú, mày mắt đoan trang, áo
cưới nàng vận cũng chiết eo hẹp tay hệt như phục trang cưỡi ngựa bắn
cung, càng làm nổi bật vẻ hiên ngang hào sảng.
Hỷ nương đặt một
đầu dải lụa hồng vào tay tân nương, đầu kia do Xương Ý cầm, ra hiệu cho
tân nương đi theo Xương Ý. Chỉ cần xuống khỏi xe đưa dâu theo Xương Ý
lên xe loan, nàng đã trở thành con dâu của Hiên Viên.
Nào ngờ
tân nương nắm lấy dải lụa nhưng chẳng hề bước xuống, trái lại còn đứng
lên càng xe, ngạo nghễ đưa mắt nhìn chúng nhân bên dưới. Bị khí thế của
nàng chấn nhiếp, tiếng nói cười xôn xao chợt ngưng bặt.
Xương Ý
đang căng thẳng lo lắng nên vẫn chưa phát hiện ra, chỉ nắm chặt lấy dải
lụa hồng cắm cúi đi, đột nhiên dải lụa căng ra khiến y suýt chút ngã lăn quay, bèn quay phắt lại, trông thấy tân nương đang ngạo nghễ đứng trên
xe, toàn thân hỷ phục rực rỡ lóa mắt.
Trọc Sơn Xương Phó giơ tay làm hiệu, lập tức đoàn đưa dâu phía sau ngưng tấu nhạc, cả đám người
dũng mãnh như hổ báo đều ngẩng đầu ưỡn ngực, đứng thẳng tắp nghiêm
trang.
Đoàn rước dâu của Hiên Viên thấy đối phương như vậy cũng
từ từ ngưng tấu nhạc, một trời rộn rã tiếng kèn sáo chợt trở nên tĩnh
lặng trang nghiêm lạ thường.
Trọc Sơn Xương Phó cao giọng: “Hôm
nay, Trọc Sơn Xương Phó của Nhược Thủy tộc ta được gả cho Hiên Viên
Xương Ý của Hiên Viên tộc, cảm ơn các vị chẳng quản đường sá xa xôi tới
tham dự hôn lễ, xin các vị làm chứng cho chúng ta.”
Khách khứa khắp nơi đều dồn mắt về phía Trọc Sơn Xương Phó, không đoán ra nàng định làm gì.
Xương Phó nhìn thẳng vào mắt Xương Ý, “Nữ nhi Nhược Thủy tộc bọn thiếp suốt
đời chung thủy với một chồng, đời này kiếp này thiếp nguyện theo chàng
đến răng long đầu bạc, chàng có bằng lòng cả đời chỉ có mình thiếp là vợ không?”
Thế này là muốn Xương Ý thề không nạp phi trước bàn dân thiên hạ, Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, định bước ra lên tiếng nhưng A
Hành đã níu lấy tay y, ánh mắt lộ vẻ khẩn cầu: “Đại ca!”
Thanh
Dương giật mạnh tay A Hành ra, bước tới trước mặt Xương Phó định lên
tiếng, nào ngờ Xương Ý đã định thần lại, chẳng chút do dự đáp ngay: “Ta
bằng lòng!”
Tiếng xôn xao rộ lên khắp nơi, Thanh Dương giận tím mặt, trừng mắt nhìn Xương Ý, ánh mắt vô cùng phức tạp.
Xương Phó lại hỏi tiếp: “Tương lai thiếp trở thành tộc trưởng Nhược Thủy,
người trong tộc sẽ liều mình chiến đấu đến người cuối cùng vì thiếp,
thiếp cũng phải bảo vệ bọn họ đến hơi thở cuối cùng, nếu lấy thiếp,
chàng phải cùng thiếp bảo vệ cho nhược mộc của Nhược Thủy năm năm đều nở hoa, chàng có bằng lòng không?”
Xương Ý mỉm cười bình thản đáp: “Ta chỉ biết rằng từ nay về sau ta là phu quân của nàng, ta sẽ dùng
tính mạng mình để bảo vệ cho nàng.”
Xương Phó nhoẻn miệng cười
tươi tắn, hạnh phúc càng khiến nhan sắc của nàng thêm rạng rỡ, còn đẹp
hơn cả những đóa nhược mộc hoa đỏ thắm rợp trời kia. Nàng nắm chặt dải
lụa hồng bước xuống xe, chạy vụt tới trước mặt Xương Ý, tươi cười tuyên
bố với tộc nhân: “Từ nay về sau, Xương Phó sẽ chung họa phúc, cùng sống
chết với Xương Ý.”
Sau lưng nàng, tất cả phụ nữ Nhược Thủy đều
rộ lên hoan hô vang trời dậy đất. Còn Hiên Viên tộc bên này thì ngượng
ngùng im lặng, mọi người đều nhìn về phía Thanh Dương, chẳng biết nên
phản ứng ra sao.
Thấy A Hành tươi cười cất tiếng hoan hô, Chu Du liếc trộm Thanh Dương đang tái mặt vì giận rồi cũng ra sức vỗ tay, vừa
vỗ tay vừa hoan hô theo A Hành, Hiên Viên tộc thấy vương cơ như vậy mới
rộ lên hoan hô cười nói, chẳng chút e dè.
Nam nhi Nhược Thủy
thổi kèn, nữ nhi rung chuông Nhược Mộc Hoa, vừa ca hát vừa nhảy múa, lại khiêng ra từng vò lớn rượu ngon, rót cho mỗi vị khách một bát thật lớn. Mọi người cũng vui lây cùng những nàng con gái Nhược Thủy chân thành
thẳng thắn, tất cả nghi lễ ban đầu loạn hết lên, đành hùa theo bọn họ
nâng chén chúc mừng.
Xương Ý dắt Xương Phó lại trước mặt Thanh
Dương và A Hành, giới thiệu: “Đây là Đại ca ta, đây là tiểu muội của ta, còn đây là muội phu Thiếu Hạo.”
Vừa nãy trước bao nhiêu khách
khứa đại hoang, Xương Phó hào sảng hiên ngang, dõng dạc thẳng thắn
nhường ấy, vậy mà lúc này lại đỏ mặt thẹn thùng, hồi hộp hành lễ chào
hỏi Thanh Dương, như sợ Thanh Dương ghét bỏ mình.
Thật lòng A
Hành rất thích vị Tứ tẩu này, vội rút ngay lễ vật đã chuẩn bị sẵn, hai
tay đưa cho Xương Phó, “Tẩu tẩu, thanh chủy thủ này là muội và Thiếu Hạo rèn cho tẩu đấy.” A Hành vẽ kiểu, Thiếu Hạo dùng sắt Hàn sơn, nước
Thang cốc, lửa mặt trời, rèn suốt một năm mới xong.
“Là binh khí do Cao Tân Thiếu Hạo rèn ư?” Đây quả là món quà mà mọi kẻ học võ đều
khao khát, Xương Phó không nén nổi kinh ngạc, liền nhận lấy xem thật kỹ. Chuôi và vỏ đều bằng gỗ phù tang, bên trên khắc hoa văn nhược mộc hoa,
Xương Phó từ từ rút chủy thủ ra, thấy lưỡi dao lấp loáng như nước, soi
gương được. Nàng thích thú không rời tay, vội cảm ơn A Hành và Thiếu
Hạo.
Để đáp lễ, nàng tháo chiếc vòng bằng nhược mộc trên tay
xuống, đeo vào tay A Hành, “Chiếc vòng này chỉ làm bằng gỗ thường, nhưng có khắc lời thề của nhi nữ Nhược Thủy chúng ta trên đó, bất kể lúc nào
muội có gặp khó khăn, nhi nữ Nhược Thủy chúng ta sẽ đeo cung tên che
chắn cho muội.”
A Hành ung dung hành lễ, “Đa tạ tẩu tẩu.”
Xương Ý đăm đăm nhìn thê tử, ánh mắt ngập tràn niềm vui cùng hạnh phúc khiến Xương Phó đỏ mặt cúi đầu, chẳng dám ngẩng lên.
Thấy tình cảnh đó, Thanh Dương chỉ biết than thầm, bất lực bảo Xương Ý:
“Nghi lễ loạn hết lên rồi, thôi hai người lên núi luôn đi, phụ vương và
mẫu hậu đang ở Triêu Vân điện chờ bọn đệ tới dập đầu hành lễ đó.”
Chu Du vội gọi xe ngọc lại.
A Hành tiễn hai người lên xe rồi ngơ ngẩn trông theo, cỗ xe đã khuất sau làn mây mà vẫn chưa định thần lại được.
Bên tai chợt vang lên tiếng Xi Vưu, “Cô rõ những ân ân ái ái như của bọn họ lắm nhỉ? Duyên mới đã là châu là ngọc, tình xưa chỉ là mắt cá, còn đoái hoài tới làm gì, sai A Tệ đến đưa áo làm chi?”
A Hành giật thót người, vội lách mình né ra mấy bước mới kịp trấn tĩnh quay lại đáp: “Ta cùng Thiếu Hạo tình đầu ý hợp, đầm ấm hạnh phúc, chẳng hiểu Đại tướng
quân đang nói gì nữa.”
Căm hận và bất lực ngập đầy trong mắt Xi
Vưu, hắn đau đớn thốt, “Cô không hiểu ta coi cô là gì thật ư? Cô đúng là đồ ong bướm lả lơi, nhu nhược hèn nhát, ích kỷ tàn nhẫn, vậy mà ta vẫn
không sao quên nổi.”
Thấy Thanh Dương và Thiếu Hạo đều đang nhìn mình, A Hành sầm mặt, “Có lẽ trước đây ta đã làm gì đó khiến Đại tướng
quân hiểu lầm, nhưng giờ ta đã là vương tử phi của Cao Tân, xin ngài hãy tự trọng.” Dứt lời, nàng đi thẳng về phía Thiếu Hạo, đứng bên cạnh y,
bấy giờ Thanh Dương mới dời mắt đi nơi khác.
Xi Vưu phá lên cười ha hả, vừa cười vừa bưng bát rượu lên tu ừng ực uống cạn.
A Hành nghe lòng lạnh buốt, đành ráng giữ nụ cười trên môi, đờ đẫn nhìn thẳng phía trước.
Thiếu nữ Nhược Thủy bưng vò rượu tới chúc mừng, Thiếu Hạo liền đưa A Hành một bát, “Nhược tửu của Nhược Thủy rất có phong vị riêng, nàng nếm thử
xem.”
A Hành mỉm cười bưng lên uống, chỉ thấy đắng chát trong miệng, “Ừm, ngon lắm.”
Hậu Thổ bưng hai bát rượu tiến lại, A Hành ngỡ gã định kính rượu trò chuyện với Thiếu Hạo nên khéo léo tránh đi, nào ngờ gã bước tới đưa một bát
cho nàng, chăm chú nhìn nàng cười cười không nói, A Hành đành ngượng
nghịu cười đáp lễ, “Đa tạ Tướng quân” rồi ngửa cổ dốc cạn bát rượu.
Ánh mắt Hậu Thổ không giấu nổi thất vọng, “Vương tử phi không nhận ra tôi ư?”
A Hành sững người, mấy năm nay, Hậu Thổ nổi danh ngang với Xi Vưu, đều là anh tài mới nổi xuất sắc nhất Thần Nông tộc gần đây, đương nhiên nàng
đã nghe tiếng từ lâu nhưng mới chỉ gặp mặt một lần duy nhất lúc cùng Xi
Vưu lên Thần Nông sơn tìm Viêm Đế xin thuốc giải, đúng lúc gã phụng mệnh trấn giữ Thần Nông sơn. Lần đó nàng lại dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo nên nói đúng ra A Hành đã gặp Hậu Thổ nhưng Hậu Thổ chưa từng gặp A Hành. Có điều, vẻ thất vọng hằn rõ trong mắt gã khiến A Hành hơi cảm
động, toan hỏi rõ tại sao thì Xích điểu đã đậu xuống vai Hậu Thổ, thả
tấm thẻ ngọc nho nhỏ vào tay gã, Hậu Thổ liền nghiêm mặt, nhìn A Hành
định nói gì đó nhưng lại thôi, sau cùng chỉ hành lễ rồi vội vã đi khỏi.
Lòng A Hành trăm mối ngổn ngang, lại chẳng bụng dạ nào mà nghĩ ngợi nhiều,
bèn tìm một góc yên tĩnh, ừng ực nốc Nhược tửu như uống nước.
Vân Tang lặng lẽ tới gần nhưng thấy Chu Du đứng hầu bên A Hành, nàng chỉ
cười nói mấy lời khách sáo rồi quay mình định đi, nào ngờ A Hành bỗng
níu lại, “Không sao đâu, Chu Du là thị nữ của Đại ca muội, có thể tin
được.” Đoạn quay sang nửa năn nỉ, nửa ra lệnh cho Chu Du: “Tỷ tỷ tốt
bụng ơi, muội muốn nói riêng với Vân Tang mấy câu, tỷ canh chừng giùm
bọn muội với.”
Trước khi đi, Thanh Dương chỉ dặn Chu Du chông
trừng A Hành, không được để A Hành cùng Xi Vưu gặp riêng nhau chứ không
dặn không cho A Hành cùng Vân Tang nói chuyện riêng, nên Chu Du mau mắn
nhận lời, bước sang một bên canh chừng.
Vân Tang ngồi xuống cạnh A Hành, chăm chú nhìn nàng, “Nghe nói muội cùng Thiếu Hạo ân ái mặn nồng, keo sơn khăng khít?”
A Hành gượng cười, ngửa cổ ừng ực dốc cạn bát rượu.
Vân Tang hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết thở dài, “Xương Phó thật đáng ngưỡng
mộ! Có thể tự do thoải mái, muốn yêu thì yêu, không chịu chung chồng
cùng kẻ khác liền buộc Tứ ca muội lập lời thề trước mặt mọi người. Tứ ca muội cũng rất chân thành, biết rõ phụ vương muội sẽ nổi giận, vậy mà
vẫn lập lời thề không chút do dự.”
A Hành liếc nàng, “Tỷ cần gì
phải ngưỡng mộ người khác? Viêm Đế Du Võng là em trai tỷ, đâu thể ép
buộc được tỷ, nếu tỷ chịu hạ giá[3] thì Nặc Nại cũng chẳng ngần ngại lập lời thề, suốt đời suốt kiếp ở bên tỷ.”
[3] Hạ giá: chỉ việc
công chúa (trong tác phẩm này là “vương cơ”) kết hôn với người có địa vị thấp hơn mình, ví như tướng quân, quan lại…
“Nha đầu chết tiệt, ăn nói càng lúc càng không ra thể thống gì cả.” Vân Tang đỏ bừng mặt,
trong vẻ ngượng ngùng lại toát lên bao ngọt ngào êm dịu không lời.
Trông bộ dạng Vân Tang, A Hành bật cười, xem ra lần trước Nặc Nại lên Thần
Nông sơn cũng chẳng uổng công, mọi hiềm khích giữa đôi bên đã hóa giải
cả rồi, “Chừng nào đến tỷ và Nặc Nại?”
“Chừng nào cái gì?” Vân Tang giả vờ không hiểu.
“Chừng nào thành hôn đó! Tỷ là Trưởng vương cơ của Thần Nông, hạ giá lấy Nặc
Nại cũng có phần thiệt thòi, có điều đèn nhà ai nhà nấy rạng, cần gì
quan tâm kẻ khác nói gì, chỉ cần Nặc Nại kiên trì nhẫn nại, nhất định
Thiếu Hạo sẽ giúp y.”
Vân Tang gật đầu, “Nặc Nại chẳng nhẫn nại
thận trọng được thế đâu, y chưa từng coi ta là vương cơ, chỉ cần ta đồng ý, y sẽ chính thức lên đỉnh Tử Kim cầu hôn.”
“Vậy tại sao…”
“Du Võng là đệ đệ ngoan của ta, chuyện gì nó cũng nghĩ cho ta, lẽ nào ta có thể ích kỷ không nghĩ cho nó ư? Tính tình Du Võng muội biết rồi đấy,
ngai vị này nó ngồi chật vật vô cùng, bọn Chúc Dung lúc nào cũng chòng
chọc nhìn vào nó, hiện giờ Xi Vưu chưa đủ lông đủ cánh, chỉ có ta mới
miễn cưỡng trấn áp được chúng đôi phần, nếu bây giờ ta thành hôn, lại gả cho một tướng quân ngoại tộc thì sẽ rất bất lợi cho Du Võng, nên ta
đành nói Nặc Nại đợi ta hai trăm năm. Hai trăm năm nữa, Xi Vưu đủ khả
năng nắm giữ quân đội Thần Nông, có hắn phụ tá Du Võng, ta mới có thể
yên tâm xuất giá.” Vân Tang cười, đoạn thở phào nhẹ nhõm, “Lúc đó ta
cũng có thể thật sự từ bỏ thân phận Trưởng vương cơ, làm một người phụ
nữ bình thường, kiến thức nông cạn, bụng dạ hẹp hòi, chỉ lo toan về gạo
dầu mắm muối, ngày ngày nấu canh bồi bổ cho chồng.”
A Hành vui
vẻ nói, “Chúc mừng tỷ tỷ! Bao năm nay tỷ đã phải nghĩ cho cha, cho muội
muội đệ đệ, cũng đến lúc nên nghĩ cho chính mình rồi.”
Vâng Tang cười hỏi lại: “Thế còn muội? Từ nhỏ muội đã ngang ngược quật cường, ta
chẳng tin muội chịu nghe phụ vương muội sắp xếp đâu.”
“Muội tự
có tính toán của mình.” A Hành rót hai bát rượu, đưa một bát cho Vân
Tang, “Tỷ thấy hôm nay Tứ ca muội hạnh phúc nhường nào rồi đấy, thuở
nhỏ, bất kể chuyện gì Tứ ca cũng nhường nhịn muội, bảo vệ cho muội, bây
giờ muội cũng nên nhường Tứ ca, bảo vệ Tứ ca để Tứ ca có thể yên ổn ở
bên người Tứ ca thật lòng yêu thương. Chỉ cần mẹ và Tứ ca được bình yên, dù có thiệt thòi đến mấy muội cũng vẫn vui vẻ.”
Vân Tang lắc
đầu cảm thán, “A Hành, muội lớn thật rồi!” Nhưng tự đáy lòng, Vân Tang
lại mong mỏi A Hành có thể mãi mãi như khi trước xiết bao.
“Cạn!” A Hành chạm bát với Vân Tang, Vân Tang vốn không thích uống rượu nhưng
hôm nay bất luận ra sao, nàng cũng phải uống cùng A Hành.
Hai
người cứ thế chuốc hết bát này sang bát khác, chẳng bao lâu Vân Tang đã
say lăn ra không biết trời trăng gì, để lại một mình A Hành tự rót tự
uống, mãi đến lúc mê man mất hết ý thức.