[1] Trích trong bài thơ Trúc chi từ kỳ thập của Lưu Vũ Tích (772 – 842). (ND)
Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Hết lần này đến lần
khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy như vậy mới là bình thường.
Bên dưới Hiên Viên sơn vẫn tưng bừng hỷ khí nhưng tình hình trên núi lại vô cùng căng thẳng. Thiếu Hạo, Thanh Dương, Xi Vưu, Hậu Thổ trước sau đều
nhận được một tin giống nhau.
Hà Đồ Lạc Thư xuất hiện tại Ngu uyên.
Theo truyền thuyết, Hà Đồ Lạc Thư là địa đồ do Bàn Cổ đại đế tạo ra, không
chỉ ghi lại hình thế núi sông khắp đại hoang mà còn chép cả những thay
đổi khí hậu ở từng địa phương, nếu có được bức địa đồ đó, chẳng những
nắm được địa lý các nơi mà còn có thể lợi dụng đặc điểm khí hậu để bày
trận, là bảo bối binh gia hằng tranh đoạt.
Sau khi Bàn Cổ đại đế qua đời, Hà Đồ Lạc Thư cũng biến mất, nghe đồn Bàn Cổ đại đế đã giấu nó vào một quả trứng ngọc, giao cho gà vàng trông coi, gà vàng liền biến
thành một ngọn núi. Mấy vạn năm nay, vô số kẻ trong Thần tộc đã đạp nát
núi non trên đại hoang để tìm Hà Đồ Lạc Thư nhưng chẳng thấy tăm tích,
vậy mà hôm nay lại có trinh thám của Thần tộc trông thấy gà vàng trong
truyền thuyết xuất hiện gần Ngu uyên.
Đừng nói Thiếu Hạo, Thanh
Dương, Hậu Thổ thảy đều biến sắc mà ngay cả kẻ luôn hờ hững trước mọi
việc là Xi Vưu cũng chuẩn bị khởi hành đến Ngu uyên.
Tỉnh lại, A Hành phát hiện mình đang nằm trong Chỉ Nguyệt điện, nơi ở của Tam phi
Đồng Ngư thị, còn phụ vương khoác áo bào đen đang ngồi lặng bên song,
vầng trăng vằng vặc nửa ẩn nửa hiện sau làn mây như chiếc lưỡi câu ngọc
ngà móc vào khung cửa, tựa hồ chính vầng trăng đã kéo cửa sổ mở ra.
Phụ vương nàng ngắm trăng đến ngơ ngẩn xuất thần như đang nhớ lại chuyện gì đó xa xưa lắm, vẻ dịu dàng hoang mang khôn tả còn đọng trên gương mặt
chưa phai nét tuấn tú.
Chưa bao giờ thấy phụ vương kỳ lạ như thế này, A Hành chỉ biết nín thở, âm thầm quan sát.
Chợt Hoàng đế nhìn ánh trăng cả cười, vẻ ôn nhu lập tức biến mất: “Tỉnh rồi thì lại đây”.
A Hành vội lại gần quỳ xuống bên gối ông, “Sao phụ vương còn chưa ngủ?”
Hoàng đế cười nhìn nàng, “Thiếu Hạo đối tốt với con chứ?”
A Hành cúi đầu, “Tốt lắm, thưa phụ vương!”
“Ta đang mong được bế cháu ngoại đấy nhé!”
A Hành lí nhí, “Con biết, nhưng chuyện này không gấp được đâu ạ.”
“Các con đều thuộc dòng dõi Thần tộc chính thống, Thiếu Hạo linh lực cao
cường, hai đứa lại ân ái mặn nồng như thế, theo lý mà nói…” Hoàng đế cau mày. “Lẽ nào còn có ẩn tình? Nhân lúc còn đang ở nhà chưa về bên ấy, để thầy thuốc khám thử xem sao.”
Một luồng hơi lạnh buốt chạy dọc
từ chân lên khiến A Hành nhũn cả người, lát sau mới nhận ra phụ vương
đang hoài nghi Thiếu Hạo lén giở thủ đoạn chứ không phải ngờ vực mình.
Hoàng Đế lại nói: “Phải rồi! Vừa nãy nhận được tin báo nói Hà Đồ Lạc Thư đã
xuất hiện tại Ngu uyên. Con cũng biết đấy, Tây Lăng tộc của mẹ con tuy
không dành được thiên hạ nhưng vẫn có địa vị ngang ngửa với Thần Nông và Cao Tân, đều là trọng thần dưới trướng Bàn Cổ đại đế. Mẹ con từng kể
với ta rằng trong tộc có truyền thuyết nói Hà Đồ Lạc Thư không chỉ là
một tấm địa đồ mà còn ẩn giấu bí mật trọng đại sánh ngang với Bàn Cổ
khai thiên lập địa, ta nghĩ đây cũng là nguyên nhân khiến Thần Nông và
Cao Tân huy động nhân lực rầm rộ như vậy, tuy ta chẳng tin mấy chuyện vu vơ đó nhưng quyết không thể để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay hai phe kia
được.”
“Mấy vạn năm nay, có biết bao tin đồn nhảm về Hà Đồ Lạc Thư rồi, chắc gì lần này đã là thật?”
“Bất kể thật hay giả chúng ta cũng nhất định phải tranh lấy, nếu để Thần
Nông tộc dành được nó thì ngày tàn của Hiên Viên đã cận kề rồi đó. Thanh Dương đã dẫn thủ hạ tới Ngu uyên, nhưng Thiếu Hạo, Yến Long, Trung Dung của Cao Tân, Xi Vưu, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ của Thần Nông cũng
lũ lượt đổ về đó, để một mình Thanh Dương đi ta không yên tâm, muốn cử
Xương Ý tới giúp đỡ.”
A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, nếu phụ
vương thật sự muốn cử Tứ ca đi, sao còn giữ nàng lại Chỉ Nguyệt điện,
dùng Tỉnh Tửu thạch làm nàng tỉnh rượu làm gì?
“Xin phụ vương cử con đi thay, đêm nay là tân hôn của Tứ ca, là đêm tân hôn đầu tiên và cũng là duy nhất của Tứ ca mà.”
Thấy Hoàng Đế yên lặng nhìn mình, A Hành quỳ xuống thưa: “Tuy linh lực của
con không bằng Tứ ca nhưng con và Thiếu Hạo là vợ chồng, hơn nữa chuyện
này đến cuối cùng là đấu trí chứ đâu phải là đấu dũng.”
Nghe
nàng trình bày, Hoàng Đế cũng gật đầu ưng thuận, “Con nhớ lấy, nếu chúng ta không dành được thì thà hủy nó đi, quyết không để rơi vào tay kẻ
khác.”
A Hành đập đầu thi lễ rồi đứng dậy toan đi.
“Hành nhi.”
A Hành nghe tiếng ngoảnh lại, Hoàng Đế liền đứng dậy, đặt hai tay lên vai nàng, “An nguy của cả Hiên Viên đều đặt lên vai con đó.”
Trước uy thế của phụ vương, A Hành cơ hồ nghẹt thở, chỉ biết gật đầu.
Đợi Hoàng Đế buông tay, nàng vội cúi đầu lui ra, đột nhiên, nàng ngẩng lên
trông thấy Đồng Ngư thị đang đứng gần đó, cặp mắt sáng rực hệt như mắt
mèo chòng chọc dán vào nàng.
A Hành giật thót mình, sực nhớ ra
Đồng Ngư thị vừa mất con trai, nàng cũng lờ mờ hiểu được đôi phần, bèn
bước lại hành lễ với bà ta, nhưng Đồng Ngư thị chẳng nói chẳng rằng, chỉ nghiến răng nghiến lợi nhìn nàng chằm chằm khiến A Hành lạnh cả người,
vội cáo từ lui ra.
Giọng bà ta âm u vẳng lại sau lưng nàng: “Các người đừng vội đắc ý, ta nhất định phải khiến con đàn bà lòng dạ rắn
rết Tây Lăng Luy nếm đủ mùi đau khổ!”
A Hành giận sôi gan, quay phắt lại.
Đồng Ngư thị chỉ mặt nàng cười sằng sặc: “Đại ca ngươi hại chết Huy nhi, nó
đã muốn thiêu sống Huy nhi từ lâu rồi, nó hận Huy nhi thiêu chết Vân…”
Vừa nói đến đó Di Bành đã xông đến bịt miệng bà ta lại rồi quay qua cười
xòa với nàng: “Mẹ ta bị kích động quá mức nên ăn nói linh tinh, muội
đừng chấp nhé.”
“Cửu ca.” A Hành nguôi giận tươi cười tiến đế nhưng Di Bành đã kéo mẹ mình lùi lại, ánh mắt đầy cảnh giác.
Thấy vậy nàng khựng lại, lòng buồn mênh mang, Di Bành và nàng chỉ hơn kém
nhau vài tuổi, lại học chung một thầy, thuở nhỏ vẫn ngày ngày chơi đùa
cùng nhau, thân mật khăng khít, vậy mà sau này lớn lên, chẳng hiểu sao
càng lúc càng xa lạ.
“Cửu ca, muội về đây.” Nàng gượng cười, rảo bước ra khỏi điện.
Ra khỏi Chỉ Nguyệt điện, A Hành liền kêu A Tệ bay thẳng tới Ngu uyên.
Gương mặt Đồng Ngư thị cứ chập chờn trong đầu nàng, lẽ nào Tam ca thật sự bị
Đại ca hại chết ư? Sao lại thế? Vì Tam ca cản trở việc Đại ca kế thừa
vương vị chăng?
Đột nhiên nàng giật thót mình, phụ vương thường ở lại Chỉ Nguyệt điện, lẽ nào không nghe thấy những lời linh tinh của bà
ta? Nàng không muốn nghĩ xấu cho phụ vương, nhưng phụ vương trước dùng
Tứ ca buộc nàng phải xung phong đi Ngu uyên, sau đó Đồng Ngư thị lại
xuất hiện đúng lúc như thế khiến nàng không khỏi liên tưởng liệu đây có
phải một lời cảnh cáo của phụ vương chăng? Cảnh cáo nếu nàng không đạt
được Hà Đồ Lạc Thư thì mẹ nàng sẽ bị đẩy vào hiểm cảnh?
A Hành chợt thấy lạnh từ trong lạnh ra, cả người run lẩy bẩy, bèn rạp mình ôm chặt lấy A Tệ.
A Tệ cũng cảm nhận được, liền ngoảnh lại cọ cọ vào má nàng như an ủi.
Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, nằm ở đầu cuối đại hoang, vùng cực Tây hoang
vu không một bóng người, cũng là một trong năm thánh địa lớn từ thời
thượng cổ, nhưng người trên đại hoang không ai hiểu vì sao nó lại được
tôn làm thánh địa sánh ngang với Thang cốc nơi mặt trời mọc lên, Quy khư nơi đầu nguồn con nước, Ngọc sơn nơi ngọc linh quy tụ và Nam Bắc minh
nơi hai cực hợp lại làm một. Ngu uyên sở hữu nguồn sức mạnh có thể nhấn
chìm mọi thứ, chẳng sinh vật nào sống nổi ở đó, gọi là thánh địa, chi
bằng gọi là ma vực còn đúng hơn, bởi vậy dần dà người đại hoang bèn gọi
Ngu uyên là ma vực.
Lúc A Hành tới nơi là chính Ngọ, cũng là
thời điểm sức mạnh của Ngu uyên suy yếu nhất trong ngày, khói đen vần vũ trên vùng trời Ngu uyên cơ hồ đã nhạt đi nhiều, nhưng chẳng có thần
tiên hay yêu quái nào dám xông vào làn khói cuồn cuộn đó.
Liệt
Dương sẵn tính nóng nảy chẳng đợi A Hành lên tiếng đã xông thẳng vào màn khói đen, lập tức khói đen quấn quanh mình nó kéo xuống, nhìn bên dưới
cũng chỉ thấy mịt mù khói đen, chẳng trông rõ vật gì, càng xuống dưới,
khói đen càng dày đặc như một thứ dầu đen kịt, Liệt Dương hơi sờ sợ vội
lật mình bay vút lên, đỗ xuống vai A Hành.
A Hành nhìn qua con
lạch không mọc nổi một ngọn cỏ, mắt trông về phía Tây chỉ thấy khói đen
cuồn cuộn ngút mắt trào lên như sóng, lại tựa như mặt biển đen mênh mông chẳng thấy bến bờ, chẳng ai biết nó rộng bao nhiêu, cũng chẳng ai biết
nó sâu chừng nào.
Nàng quay sang hỏi Chu Du: “Mọi chuyện thế nào rồi? Có phải là Hà Đồ Lạc Thư thật không đó?”
“Điện hạ đã dùng linh lực tra xét rồi, có vẻ lần này là thật đó.” Ả chỉ tay
về phía vách núi ngoài cùng của Ngu uyên. Lúc này đây phân nửa vách núi
vẫn chìm trong màn khói đen, chỉ có phân nửa lộ ra dưới ánh mặt trời,
nửa đen nửa vàng, càng toát lên vẻ đẹp đầy quỷ dị.
“Nghe nói gà
vàng chui vào sơn động, điện hạ đã đuổi theo hơn một canh giờ rồi.” Chu
Du ngẩng đầu nhìn vầng dương đã bắt đầu ngả về Tây, thấp thỏm: “Mặt trời càng ngả về Tây thì sức mạnh nhấn chìm vạn vật của Ngu uyên càng mạnh
lên, sau cùng còn hút luôn cả mặt trời vào, thần lực mạnh thế nào cũng
không thoát nổi.”
Nàng liền giao A Tệ và Liệt Dương lại cho Chu
Du, “Ngươi trông nom chúng giùm ta, đừng để chúng xông vào đó. Ta đi xem Đại ca thế nào.”
“Vương cơ phải cẩn thận đó! Nhớ ra khỏi Ngu uyên trước khi mặt trời lặn nhé!”
A Hành quăng tơ Thiên Tằm bám vào vách núi rồi xông thẳng vào cửa động.
Bên trong tối đen như mực, chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì, A Hành cầm mộc khúc mê cốc[2] soi đường, thận trọng tiến vào.
[2] Mê cốc: một loài thực vật được nhắc tới trong phần Nam Sơn kinh của Sơn Hải kinh, có thể phát sáng soi đường, đề phòng bị lạc. Theo Sơn Hải
kinh chép lại: “Núi Chiêu Diêu có một loài cây, hình dạng như kẻ, màu
đen, phát sáng, tên gọi mê cốc, đeo vào sẽ không bị lạc đường.”
Đi một lúc ước chừng một tuần trà, nàng trông thấy Thanh Dương. Y đang
ngồi xếp bằng trên mặt đất, mặt tái nhợt, vạt áo lấm tấm máu, hiển nhiên đã bị trọng thương.
Trông thấy A Hành, y đùng đùng nổi giận, “Sao muội lại đến đây?”
“Huynh đến được, sao muội lại không thể?” Nàng tiến lại xem xét vết thương của y, “Là âm thương, Yến Long đả thương huynh sao?”
Nói rồi nàng dúi cho Đại ca một viên đan dược, “Thuốc này không trị được thương, nhưng có thể giúp huynh điều hòa nội tức.”
Thanh Dương chẳng buồn hỏi lại, nhận lấy uống ngay, “Nói chính xác là Yến
Long và Thiếu Hạo cùng đả thương ta, sáng hôm qua tỷ thí với Thiếu Hạo
đã bị thương nên hôm nay Yến Long mới thừa nước đục thả câu.”
“Phát hiện Hà Đồ Lạc Thư chưa?”
“Chỉ cần tìm thấy gà vàng, moi trứng ngọc trong bụng nó ra là được, tìm được gà vàng không khó, cái khó là làm sao đối phó được với đám cao thủ Thần tộc cũng đang lăm le giành Hà Đồ Lạc Thư kia.”
“Chúng đâu cả rồi?”
Thiếu Hạo đang bị Hậu Thổ cầm chân, y cũng đã thụ thương, hơn nữa thổ linh
của Hậu Thổ lại khắc chế thủy linh của Thiếu Hạo, nếu như bình thường
thì chẳng có gì đáng ngại, nhưng Ngu uyên là nơi vạn linh giai không, có mỗi thổ linh nên linh lực của Thiếu Hạo khó mà thi triển được, chỉ có
thể đánh ngang tay với Hậu Thổ thôi. Chúc Dung và Cộng Công đụng phải
Yến Long, đôi bên cũng đang giao tranh ác liệt. Trung Dung và Xi Vưu
đuổi theo gà vàng cả rồi. Ta vừa tiến vào sơn động chưa bao lâu đã bị
Yến Long đánh lén nên định tránh sang một bên, để chúng quần nhau chán
đi đã.”
Cảm nhận được tình hình mới qua lưới tơ tằm giăng sẵn,
Thanh Dương chợt rùng mình, “Xi Vưu đả thương Chúc Dung, bắt được gà
vàng rồi…” Cả sơn động nhoáng lên một luồng sáng xanh biếc dịu dàng,
chẳng cần Thanh Dương phải nói, A Hành cũng đoán ra, “Xi Vưu giành được
Hà Đồ Lạc Thư rồi.”
Thanh Dương lập tức đứng dậy, “Thiếu Hạo đột nhiên biến mất trong thổ trận của Hậu Thổ, ắt hẳn là đuổi theo Xi Vưu rồi.”
A Hành kéo y lại, “Đại ca, để muội đi.”
Thanh Dương đưa mắt nhìn nàng, A Hành gấp gáp nói: “Hiện giờ chúng ta đuổi
theo cũng chẳng kịp nữa rồi, chi bằng cứ đón lõng trên đường rút lui của chúng, huynh ở trong tối, muội ở ngoài sáng. Huynh ra cửa động đợi
muội, lấy nhàn cự mệt, để muội đi dụ địch, đến lúc đó hai ta kẻ trong
tối người ngoài sáng cùng phối hợp, nhất định sẽ có cơ hội đoạt lấy Hà
Đồ Lạc Thư.”
Thanh Dương hành sự quả quyết, liền gật đầu, lẩn vào trong bóng tối.
A Hành vận linh lực lên tay, thận trọng tiến vào.
Vào sâu trong động, nàng mới thật sự cảm nhận được sự đáng sợ của Ngu uyên, mỗi bước đi, linh lực lại vơi đi một chút, hơn nữa, mặt trời càng ngả
xuống gần Ngu uyên, mức độ tiêu hao càng tăng dần.
Đột nhiên,
một lưỡi thổ đao từ dưới đất chỉa lên, nàng vừa tránh khỏi đã thấy vách
động đâm ra tua tủa thổ kiếm, cứ chặt gãy lại thấy cái mới mọc lên, bốn
bề đều là đất, những lưỡi kiếm cứ đâm ra liên miên không dứt.
Vách động sau lưng nàng như hóa thành một cánh cung, bắn ra từng loạt từng
loạt thổ kiếm dày đặc như mưa, A Hành tránh né đến phờ cả người, chợt
thấy một thanh thổ kiếm từ đằng trước đâm thẳng tới, nàng tự biết không
sao tránh nổi, đành hét toáng lên, giương mắt trơ trơ nhìn thanh kiếm
đâm vào ngực mình.
Hậu Thổ ẩn thân giữa đám đất đá nghe nàng hét vội thu kiếm lại, thanh kiếm dừng sựng trước ngực nàng, gã cũng theo đó mà hiện thân, ngạc nhiên gọi: “Bạt tỷ tỷ? Sao tỷ lại ở đây?”
A
Hành còn chưa kịp hoàn hồn, nàng không sao tưởng tượng được gã Hậu Thổ
tuấn tú nhã nhặn trước mặt chính là kẻ bừng bừng sát khí, suýt lấy mạng
mình vừa nãy. Nàng bên khom lưng thi lễ: Đa tạ Tướng quân nương tay.”
Hậu Thổ vội đỡ lấy nàng, vừa thất vọng vừa hoảng hốt hỏi: “Nếu nói cảm tạ
thì đệ cảm tạ tỷ tỷ mới phải, tỷ vẫn chưa nhớ ra đệ ư?”
A Hành
giơ mê cốc soi vào mặt gã, nhìn thật kỹ. Thuở nhỏ nàng có tới Thần Nông
một lần, nếu từng gặp gã thì hẳn là từ hồi đó, tiếc rằng chuyện xưa nàng đã quên gần hết, chỉ nhớ có lần mình đánh cho mấy tên vương tôn công tử vỡ đầu chảy máu, để xoa dịu cơn giận của họ, Đại ca phạt nàng phải bưng tảng đá nặng trịch đứng suốt đêm, nhưng tại sao lại đánh nhau nhỉ? À,
hình như là bởi chúng ăn hiếp một đứa bé, tuy đứa nhỏ đó là hậu duệ
vương tộc nhưng mẹ nó lại là người thuộc Yêu tộc, thân phận thấp kém nên luôn bị những đứa trẻ khác khinh miệt. Đứa nhỏ đó có đôi mắt nai dịu
dàng vô hạn, tròng mắt nâu ngơ ngác, lông mi dài thật dài, lại rất mau
nước mắt, mỗi khi bị đám trẻ kia làm nhục, nó chẳng hề phản kháng kêu
la, chỉ rúc mình trong xó âm thầm khóc. Lúc nàng bị phạt đứng, nó lén
lút tới thăm, còn hỏi nhỏ: “Có nặng không?”
Nàng lắc đầu cười
còn nó lại bật khóc nức nở như thể chính mình bị phạt vậy, thoạt đầu
nàng dịu giọng dỗ dành, nhưng càng dỗ nó càng khóc tợn, nước mắt lã chã
như mưa, y hệt con gái, khiến nàng phát bực, bèn mắng cho mấy câu. Thằng nhỏ bị nàng mắng chỉ biết ngây ra nhìn nàng đến quên cả khóc.
A Hành nhìn vào mắt Hậu Thổ, lắp bắp, “Đệ… đệ là… đứa bé mau nước mắt đó ư?”
Vị anh hùng nổi danh khắp thiên hạ như Hậu Thổ không ngờ lại đỏ bừng mặt,
“Là đệ đây, có điều mấy trăm năm nay đệ không khóc nữa. Đệ còn nhớ tỷ tỷ từng mắng rằng nam tử hán chỉ đổ máu chứ không rơi lệ mà!”
A Hành ngượng ngùng cười, buông lời cảm khái: “Giờ đệ đã trở thành nam tử hán chân chính rồi!”
Hậu Thổ vẫn bịn rịn chưa muốn đi khỏi, nhưng nơi này chẳng phải chỗ ôn lại
chuyện xưa, đành nói: “Tỷ tỷ mau đi đi, thể chất của tỷ là mộc linh, mà
Ngu uyên lại là nơi cây cỏ không mọc nổi, mặt trời càng ngả về Tây thì
linh khí của tỷ sẽ càng bị khắc chế nhiều hơn, sau cùng e rằng chẳng còn sức mà rời khỏi đây nữa đâu.”
A Hành cười tán thành: “Vậy ta đi đây, à phải, đệ có gặp Thiếu Hạo không?”
Hậu Thổ ngượng ngập đáp: “Bọn đệ vừa giao thủ khi nãy, Thiếu Hạo thật không hổ là Thiếu Hạo, nơi này toàn thổ linh, y hình như lại đang bị thương,
vậy mà đệ vẫn chỉ đấu ngang tay với y, có điều…”
“Sao cơ?”
Hậu Thổ áy náy nói: “Có điều về sau y nôn nóng xông ra khỏi thổ kiếm trận
của đệ nên bị thương nhẹ. Nếu tỷ tỷ tới tìm y thì mau đi đi, giờ y bị
thương nên lại thêm thương, nấn ná ở đây không tiện đâu.”
“Đa tạ đệ.”
Hậu Thổ vội nói: “Tỷ tỷ đừng khách khí với đệ như thế. Đệ nói rồi mà, kẻ
nên cảm tạ là đệ mới phải. Có lẽ chuyện xưa đối với tỷ chẳng đáng gì
nhưng đối với một đứa nhỏ bơ vơ cô độc, tự ti yếu đuối như đệ thì…” Hậu
Thổ nghẹn lời, ánh mắt sẫm lại, lát sau mới bình tĩnh nói tiếp: “Nhờ có
tỷ mà đứa nhỏ ngày xưa mới có thể trở thành Hậu Thổ hôm nay.”
A
Hành biết từng câu chữ của gã đều xuất phát tự đáy lòng, bèn hào sảng
nói: “Được! Từ nay về sau ta sẽ coi đệ như đệ đệ mình, không khách khí
nữa.”
Hậu Thổ mừng rỡ nhoẻn cười.
Nhớ đến Xi Vưu cùng
Thiếu Hạo, nàng lại càng sợ họ vì Hà Đồ Lạc Thư mà giao tranh, vội nhớn
nhác toan đi, Hậu Thổ thấy vậy bèn trao cho nàng một quả cầu bằng đất
vàng, “Nơi đây ngoài thổ linh thì vạn linh giai không, món pháp bảo này
do đệ luyện ra, chỉ cần tỷ nắm nó trong tay, đi đến bất cứ nơi nào có
đất cũng có thể ẩn thân, hòa mình vào đất, lúc nguy cấp quăng nó ra còn
có thể điều khiển thổ linh trong vòng ba trượng xung quanh, nhưng không
kéo dài được lâu đâu.”
A Hành toan mở miệng cảm ơn nhưng rồi lại lè lưỡi cười cười nhận lấy quả cầu gã đưa.
Mặc Hậu Thổ ba lần bảy lượt dặn dò nàng rời khỏi Ngu uyên cho mau, A Hành
vẫn chạy thẳng vào trong, có điều càng lúc nàng càng thấy áp lực đè nặng lên mình như thể bị một bàn tay khổng lồ trì kéo xuống vậy.
Ngửi mùi máu tanh thoang thoảng trong không khí, nàng ngỡ Xi Vưu và Thiếu
Hạo đã giao tranh với nhau, vội cuống cuồng chạy đến, tim cơ hồ nhảy
thót ra khỏi lồng ngực, chẳng biết rốt cuộc là ai bị thương.
Lần theo mùi máu, nàng tìm tới nơi giao đấu nhưng chẳng gặp Xi Vưu, chỉ
thấy Yến Long và Thiếu Hạo. A Hành nắm pháp bảo của Hậu Thổ trong tay,
nín thở dán mình sau vách động âm thầm nghe ngóng.
Thiếu Hạo
ngồi xếp bằng trên mặt đất, bao quanh là một bong bóng nước màu lam
khổng lồ, Yến Long ôm đàn đi vòng quanh Thiếu Hạo, vừa đi vừa gảy, không nghe thấy tiếng đàn nhưng hễ y gảy là bong bóng nước quanh Thiếu Hạo
lại co vào một chút, chẳng khác nào một trái tim đang khổ sở vùng vẫy.
Chẳng hiểu Thiếu Hạo bị thương ở đâu, chỉ thấy bạch bào trên người y vấy đầy máu.
Yến Long càng cười càng đắc ý, khí thế gảy đàn cũng càng lúc càng tiêu sái
tự nhiên. Bóng nước bao quanh Thiếu Hạo càng lúc càng co lại.
Thiếu Hạo cất tiếng: “Ngươi thật không biết nặng nhẹ! Dù muốn giết ta cũng
không nên đánh lén lúc ta giao thủ với Xi Vưu! Để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào
tay Xi Vưu, ngươi có từng nghĩ tới hậu quả chưa?”
Yến Long cười
đáp: “Đừng lo, ta xử lý ngươi xong sẽ hỏi đến hắn. Hà Đồ Lạc Thư đương
nhiên khó tìm, nhưng cơ hội để giết ngươi còn khó kiếm hơn, ta đợi hơn
hai ngàn năm mới có ngày hôm nay đó. Hai tên đần độn Chúc Dung và Cộng
Công tưởng rằng dựa vào năng lực của chúng mà cầm chân được ta ư, ha ha, ta chẳng qua chỉ vờ giết thời gian với chúng, để hai kẻ lợi hại thực sự là Hậu Thổ và Xi Vưu lại cho ngươi, sẵn tiện tiêu hao linh lực của
ngươi thôi, chỉ tiếc ngươi quá vô dụng, đệ nhất cao thủ Thần tộc quái gì mà lại bị Hậu Thổ và Xi Vưu đả thương đến nông nỗi này.”
Vết máu trên áo Thiếu Hạo càng lúc càng nhiều, bong bóng nước cũng mỏng dần đi, thu nhỏ lại.
Yến Long vừa cười vừa lắc đầu, thưởng thức cảnh tượng Thiếu Hạo bất lực
tránh né. Từ lúc sinh ra, Thiếu Hạo vẫn luôn là kẻ địch của y. Từ nhỏ
đến lớn, y làm gì cũng bị đem ra so sánh với Thiếu Hạo, dù nỗ lực cỡ
nào, làm tốt tới đâu, chỉ cần thua kém Thiếu Hạo thì đều thành công cốc. Từ nhỏ tới lớn, y cũng được coi là thiên tư siêu quần, thông tuệ xuất
chúng, năng nổ giỏi giang, nhưng hễ đụng phải Thiếu Hạo là lại thất bại, đến nỗi y lấy làm thắc mắc, ông trời đã sinh ra Thiếu Hạo, sao còn sinh ra y? Lẽ nào y chỉ dùng để làm nền cho Thiếu Hạo thôi ư?
Đây là lần đầu tiên y trông thấy hy vọng thắng lợi, miễn là Thiếu Hạo không
còn, y sẽ có thể trở thành Yến Long chứ không phải là Nhị vương tử Cao
Tân thua kém Thiếu Hạo về mọi mặt nữa.
Yến Long dụng lực gảy liên tiếp ba lần khiến bóng nước choang một tiếng vỡ tan tành, Thiếu Hạo đổ gục xuống, máu từ tai rỉ ra.
Yến Long phá lên cười, bước lại gần Thiếu Hạo, nghe Thiếu Hạo thều thào
nói: “Đừng lãng phí linh lực với ta nữa, ta không còn sức rời khỏi Ngu
uyên đâu, ngươi mau đi đoạt lại Hà Đồ Lạc Thư đi.”
Yến Long tàn
nhẫn bồi thêm cho Thiếu Hạo mấy cú đá, “Đừng làm bộ làm tịch như Cao Tân là của riêng ngươi nữa, lẽ nào chỉ mình ngươi biết lo cho dân cho nước
còn ta thì không ư? Từ nay trở đi, ta chính là Đại vương tử của Cao Tân, việc của Cao Tân sẽ do ta lo liệu.”
Nói rồi y vận linh lực trên tay, toan hạ một chưởng lấy mạng Thiếu Hạo, đột nhiên Hậu Thổ từ đâu
cười ha hả xông ra, lập tức hang động vặn vẹo biến hình, thổ đao từ dưới đất chỉa lên, khói bụi mù mịt khắp nơi, chẳng nhìn thấy gì hết.
Ngu uyên là lãnh địa của thổ linh, tại đây, thần lực của Hậu Thổ có thể
tăng gấp bội, Yến Long lại không giỏi cận chiến, y giật thót mình, vội
chăm chú tránh né thổ kiếm thổ đao, đồng thời cao giọng: “Hà Đồ Lạc Thư
rơi vào tay Xi Vưu rồi.”
Giọng Hậu Thổ từ đâu đó vẳng lại, nghe chữ được chữ mất, “Thật không?”
Yến Long cười nhạt, “Ta gạt ngươi làm gì?”
“Vậy được, cáo từ!”
Chỉ lát sau khói bụi mịt mù đều tan đi, để lại mặt đất trống trơn, xem ra
Thiếu Hạo nhân lúc hỗn loạn đã chuồn mất. Yến Long điên tiết bèn ngưng
tụ linh lực toan đuổi theo, chợt y khựng lại nghĩ thầm, chẳng rõ vừa nãy Hậu Thổ nhìn trộm được bao nhiêu, lỡ như Tuấn Đế biết y ra tay giết
Thiếu Hạo thì dù có lòng thiên vị, phụ vương cũng sẽ trừng phạt y thật
nặng.
Sức mạnh của Ngu uyên càng lúc càng tăng, không thể nấn ná ở đây thêm nữa, Thiếu Hạo bị thương nặng như vậy ắt chẳng thể rời khỏi
nơi này, chi bằng để Ngu uyên kết liễu Thiếu Hạo, sau này dù Hậu Thổ nói gì đi nữa y cũng có thể hùng hồn bẩm lại với phụ vương rằng Thiếu Hạo
bị Hậu Thổ và Xi Vưu vây đánh, không may bị thương nặng, linh lực cạn
kiệt, không kịp thoát khỏi Ngu uyên nên bỏ mạng, vậy là kín kẽ như áo
trời chẳng thấy đường may.
Yến Long đắn đo một hồi rồi vội vã chạy thẳng ra ngoài.
Đợi y khuất dạng, Thiếu Hạo và A Hành nấp gần đó mới dám thở phào nhẹ nhõm.
“Cảm ơn nàng.” Thiếu Hạo không vướng bụi trần lúc xưa, giờ chẳng những bê
bết máu me mà còn lấm lem mặt mũi, nhưng khí độ ung dung vẫn y hệt thuở
nào.
“Cần gì khách khí thế? Muốn cảm tạ thì phải cảm tạ chàng
hàng ngày tận tình dạy dỗ thiếp. Nếu chàng không kể với thiếp rằng phụ
vương hiền từ nhân hậu thì thiếp cũng chẳng dám tin đóng giả Hậu Thổ lại có thể dọa Yến Long sợ không dám đuổi theo đâu.”
Thiếu Hạo lại
hỏi: “Trụ Nhan hoa của nàng có thể thay đổi dung mạo, nhưng sao nàng lại khống chế được thổ linh khiến cho Yến Long tin nàng là Hậu Thổ?”
“Nói ra thì dài dòng lắm, dù sao lần này cũng phải cảm ơn Hậu Thổ.” A Hành
cõng Thiếu Hạo dậy. “Chúng ta mau rời khỏi đây thôi, sức mạnh của Ngu
uyên càng lúc càng tăng kìa.”
Vừa nãy nàng một thân một mình
xông ra đã tiêu hao kha khá sức lực, giờ đây lại cõng theo Thiếu Hạo nên tốc độ càng lúc càng chậm.
Đi mãi đi mãi vẫn chưa ra được khỏi
động, trong khi đó áp lực cứ ngày một tăng thêm, chân nàng nặng trịch
như sắp dính vào mặt đất, lại thêm sức nặng của Thiếu Hạo trên lưng, mỗi lần cất bước, A Hành đều phải vận hết linh lực.
Thấy nàng càng đi càng chậm, Thiếu Hạo hiểu ngay rằng nàng không đủ linh lực, giỏi lắm cũng chỉ có thể tự mình rời khỏi mà thôi.
“A Hành, bỏ ta xuống, nhân lúc mặt trời chưa lặn hẳn nàng mau đi đi, thà thoát được một người còn hơn cả hai cùng chết.”
Trong lòng A Hành đang giằng xé kịch liệt, nàng đâu phải không hiểu đạo lý mà Thiếu Hạo nói. Vừa khó nhọc lê bước vừa cân nhắc thiệt hơn, chợt nhớ
tới mẹ và Tứ ca, nàng đột nhiên khựng lại mà nhủ thầm, mình không thể
chết được.
Thiếu Hạo thấy là hiểu, liền nhúc ngắc toan tuột xuống.
A Hành đặt y ngồi tựa vào tường, cúi gằm mặt không dám nhìn vào mắt y: “Xin lỗi chàng.”
Thiếu Hạo cười, “Khỏi cần xin lỗi, nếu đổi lại là ta hẳn đã không mạo hiểm ra tay cứu người trước mặt Yến Long rồi, nàng mau đi đi!”
A Hành nghiến răng, vận linh lực chạy vụt ra ngoài.
Nàng cắm đầu cắm cổ chạy trong đêm tối, nhưng chạy thế nào cũng không thoát
được bóng đêm. Nụ cười của Thiếu Hạo còn rành rành trước mắt nàng, cứ
chạy thêm một bước, gương mặt ấy lại rõ thêm một phần, tất cả tháng ngày từ khi quen biết tới nay đều biến thành muôn mặt nụ cười, cười hờ hững, cười vui vẻ, cười khanh khách… Lần đầu tiên nàng nhận ra rằng, bất kể
lúc nào, Thiếu Hạo cũng mỉm cười. Kể cả khi nãy y cũng vẫn tươi cười.
Nàng dừng phắt lại, nghiến răng chạy ngược trở về.
Bốn bề tối đen như mực, lại im phăng phắc, Thiếu Hạo đang nhắm mắt chờ chết đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân chậm chạp mà nặng nhọc, nhưng y
chẳng buồn mở mắt ra.
Mãi tới khi tiếng bước chân dừng trước mặt mình, y mới từ từ mở mắt, đăm đăm nhìn A Hành, chẳng nói một lời.
A Hành cũng chẳng nói chẳng rằng dụng lực cõng y lên, thân thể Thiếu Hạo
dưới lực hút của Ngu uyên đã nặng tựa ngàn cân, nàng chỉ có thể lê từng
bước từng bước một.
Thiếu Hạo lặng thinh, hai tay rũ trên vai A Hành.
A Hành vừa thở hổn hển vừa bấu víu vào những mẩu đá gồ lên trong động, dùng sức dịch chuyển về phía trước.
Nhiệt độ trong động càng lúc càng tăng, lực hút cũng mỗi lúc một mạnh, A Hành cơ hồ không nhích nổi một bước nhưng vẫn nghiến chặt răng, bám vào mẩu
đá lết tới trước, hai tay xước xát hết cả.
Hai người lê lết bằng tốc độ của ốc sên, nhích được một chút là phải trả giá bằng bao nhiêu máu chảy.
Bỗng Thiếu Hạo gắng gượng giơ tay lên bám lấy mẩu đá, gắng hết sức nhích
thân thể mình và A Hành lên phía trước, máu của hai người hòa lẫn vào
nhau trên vách động.
Đi thêm được chừng mười trượng thì A Hành
không nhấc nổi chân lên nữa, nàng ra sức đá chân ra nhưng bàn chân cứ
dính chặt lấy mặt đất, như thể mọc lên từ đó vậy.
Nàng gắng gượng nhấc, gắng sức nhấc, gắng hết sức nhấc chân lên…
Thân hình nàng ngả ngả nghiêng nghiêng rồi ngả phịch xuống đất, kéo theo cả Thiếu Hạo.
A Hành vùng vẫy toan bò dậy nhưng cả người nàng đã dính chặt vào mặt đất, không sao dậy nổi, Thiếu Hạo bên cạnh dường như đoán trước được kết quả này, chỉ một mực nằm im, chẳng buồn nhúc nhích.
A Hành nằm đè
lên cánh tay Thiếu Hạo cười khúc khích, “Thiếp ngốc thật đấy! Chẳng cứu
được chàng mà chính mình còn chết chùm theo, sao khi nãy chàng không
khuyên thiếp thêm mấy câu nữa hả? Cứ tỏ vẻ một lòng muốn chết, không cần thiếp nhiều chuyện có phải đỡ không?”
Thiếu Hạo nhắm nghiền mắt làm thinh, lát sau mới lên tiếng: “Vì ta cũng sợ chết lắm.”
Khi nãy sau khi A Hành đi khỏi, y chẳng hề thấy sợ hãi, chỉ ngồi yên bình
tĩnh cảm nhận sức mạnh của Ngu uyên đang tăng lên từng chút một, cũng
từng chút từng chút nuốt lấy mình. Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ
bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y
đều là như vậy. Y từng coi phụ vương là chỗ dựa vững chắc nhất nhưng lại quên khuấy rằng phụ vương là phụ vương duy nhất của y, nhưng y không
phải con trai duy nhất của phụ vương, y từng ngỡ rằng vú già thương mình nhất, nhưng suốt mấy trăm năm ngày nào bà ta cũng bỏ độc vào đồ ăn của
y, từng cho rằng có thể tin tưởng muội muội nhưng cô ta lại đem hết thảy lời ăn tiếng nói của y mách với Tuấn Hậu không sót một chữ, từng tưởng
rằng… Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân
bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy vậy mới
là bình thường.
Vậy mà khi nghe tiếng chân A Hành trở lại, sự
bình thản của y chợt vỡ vụn, tim bỗng đập liên hồi, như đang âm thầm
khát khao một điều gì đó. Đối mặt với mười vạn đại quân Thần Nông, y vẫn có thể cười nói như thường, nhưng trong khoảnh khắc đó, y thậm chí còn
chẳng có can đảm mở mắt ra nhìn nữa.
A Hành thở dài, “Thiếp cũng sợ chết.” Nhớ tới Xi Vưu, nàng thật không cam tâm bỏ mạng ở đây!
Thiếu Hạo lặng thinh không nói, chỉ chăm chăm nhìn vào bóng đêm, lạ thay, tuy hiện giờ lực hút lớn đến nỗi không sao ngồi dậy nổi nhưng y lại chẳng
hề có cảm giác bị màn đêm nhấn chìm như lúc trước, có lẽ không phải y sợ chết, mà sợ phải chết đi trong cô độc. Bóng tối của Ngu uyên thật ra
không đáng sợ, cái đáng sợ là bóng đêm thăm thẳm khi bị hết thảy mọi
người ruồng bỏ.
Thiếu Hạo đột ngột lên tiếng, “A Hành, nếu như,
ta chỉ nói là nếu thôi nhé, nếu có kiếp sau, ta không còn là Cao Tân
Thiếu Hạo, nàng cũng chẳng còn là Hiên Viên Bạt nữa, bất kể nàng trở
thành người như thế nào, ta cũng muốn được làm chồng nàng, suốt đời
không xa rời.”
A Hành khẽ cười, “Kiếp này trói buộc nhau chưa đủ hay sao mà còn muốn dằng dai sang tận kiếp sau? Nếu thật sự có kiếp
sau, thiếp chỉ muốn sống thanh thanh bạch bạch một đời.”
Thiếu Hạo bật cười theo, “Nàng nói phải lắm.”
“A Hành, A Hành…”
Tiếng gọi lo âu chẳng biết từ đâu truyền tới, văng vẳng trong sơn động tối om.
A Hành cùng Thiếu Hạo dỏng tai nghe ngóng một thoáng, đoạn nàng la toáng lên: “Đại ca, muội ở đây, muội ở đây này!”
A Hành run giọng mừng rỡ bảo Thiếu Hạo: “Đại ca tới tìm thiếp! Đại ca
thiếp tới tìm thiếp, chúng ta được cứu rồi! Hai ta không chết đâu!”
Thiếu Hạo chỉ chăm chú nhìn nàng, cười không nói.
Bị sức mạnh của Ngu uyên quấy nhiễu, Thanh Dương lại chịu thêm một vết
thương. Y vận linh lực không tìm được A Hành, chỉ có thể lần theo tiếng
đáp của nàng mà tìm đến, trông thấy cả Thiếu Hạo trọng thương nằm dưới
đất, y hết sức bất ngờ, nhất thời cứ yên lặng nhìn cả hai, vẻ mặt nặng
nề, hồi lâu không lên tiếng.
A Hành hiểu ngay rằng Đại ca thân
mang trọng thương, lực hút của Ngu uyên lại quá mạnh, y chỉ có thể cứu
một trong hai người mà thôi.
Thiếu Hạo hờ hững cười, “Đừng lề mề nữa đi, ta chỉ hận rằng chúng ta vẫn chưa phân thắng bại.”
Thấy Thanh Dương bế A Hành lên, Thiếu Hạo cũng ngừng lời, mỉm cười nhắm nghiền mắt lại.
Thanh Dương nhìn y lần cuối rồi rảo bước chạy như bay ra ngoài. A Hành ôm lấy cổ Đại ca, mở to mắt nhìn lại phía sau, thấy bóng áo trắng của Thiếu
Hạo càng lúc càng nhỏ dần, tựa hồ đang từ từ bị bóng tối nhấn chìm. Nàng gục đầu vào cổ Đại ca, nước mắt tuôn lã chã. Lần cuối cùng đưa mắt nhìn nàng, Thiếu Hạo còn mỉm cười như thể an ủi nàng, không sao đâu! Nhưng
rõ ràng y đã nói y sợ chết kia mà!
Gương mặt Thanh Dương sắt lại như đá, chỉ chăm chăm cắm cúi chạy thẳng ra ngoài, nhưng hai bên thái
dương cứ phập phồng liên hồi, gân xanh cũng nổi đầy cả hai tay.
“Quác quác, quác quác.”
A Hành ngẩng phắt lên gọi lớn, “Liệt Dương, A Tệ!”
Trong tiếng quang quác điếc tai, Liệt Dương nhào đến đậu trên tay A Hành, A
Tệ theo sau, luôn miệng kêu “kiu kíu”, mừng rỡ nhìn nàng. Chẳng hiều
chúng gặp phải chuyện gì mà con xác xơ lông lá, con kia sém cả bộ lông,
dường như đã giao tranh với ai đó.
Thanh Dương kinh ngạc nhìn
hai con vật trước mặt. Thú vật có linh cảm vô cùng nhạy bén, thường
thường còn linh mẫn hơn cả những tay cao thủ Thần tộc linh lực cao
cường, bởi thế khi mặt trời vừa ngả xuống gần Ngu uyên, tất cả tọa kỵ
đều lui lại phía sau, tránh xa khỏi đó. Không phải chúng không trung
thành với chủ nhân mà đó chính là bản năng sinh tồn của muông thú, vậy
mà hai con vật này lại dám xông vào tìm A Hành, vượt qua cả nỗi sợ bản
năng.
Trông thấy A Tệ, A Hành phá lên cười rồi mừng mừng tủi tủi trỏ vào trong, “Mau đi cứu Thiên Hạo ra, mau lên!”
A Tệ tung người xông thẳng vào trong, Thanh Dương lập tức đặt A Hành xuống đất chạy ngược trở lại.
A Hành nằm dài trên mặt đất, ôm chặt lấy Liệt Dương, cười khúc khích.
Liệt Dương bực bội lắc lắc mình, vừa lắc vừa mổ mổ nàng nhưng A Hành
chẳng những không né mà còn siết chặt hơn nữa, Liệt Dương bị siết đến
hết cả giận, đành ngẩng đầu chịu đựng.
Lát sau A Tệ đã cõng Thiếu Hạo chạy tới, Thanh Dương bế xốc A Hành lên, tất cả liều mạng xông ra, chẳng ai nói với ai một lời.
Mọi người vừa xông ra khỏi cửa động thì mặt trời lặn xuống Ngu uyên, làn
khói đen phía trên Ngu uyên dày thêm, đen đặc như mực, chẳng trông thấy
bất cứ thứ gì.
“Điện hạ!” Chu Du mừng rỡ gọi lớn, ả ôm chặt lấy
Trùng Minh điểu, mặt mũi tay chân chi chít vết thương, nhếch nhác đứng
trên vách núi, thấy khói đen lan đến chân mình, ả tái mét mặt, thân
người ngả nghiêng chực ngã nhưng chẳng hề xê dịch nửa bước.
Thanh Dương khẽ huýt một tiếng, lập tức Trùng Minh điểu run rẩy bay đến, y nhảy lên tọa kỵ, bay thẳng ra khỏi Ngu uyên.
Mãi tới khi rời khỏi Ngu uyên, mọi người mới lếch thếch đậu xuống, ngoảnh
đầu trông lại cả vùng trời Tây đều vần vũ khói đen, mặt trời đang lặn
xuống Ngu uyên từng chút từng chút một.
Thanh Dương giận dữ hỏi
Chu Du, “Sao ngươi còn đứng ngây ra ở Ngu uyên thế, định chờ chết đấy
à?” Y giận ả có gan chờ chết mà chẳng xông vào trợ giúp.
Chu Du hùng hồn đáp, “Chẳng phải điện hạ bảo nô tỳ đứng đợi ư? Đương nhiên nô tỳ cứ phải đứng đó đợi chứ sao.”
Thanh Dương sững sờ còn Thiếu Hạo đang nằm phục trên lưng A Tệ nghe vậy cười không ra tiếng.
Chu Du quỳ xuống tạ tội với A Hành, “Vương cơ sai nô tỳ trông nom A Tệ và
Liệt Dương, nhưng thấy mặt trời đã kề sát Ngu uyên mà vương cơ vẫn chưa
ra, chúng liền liều mạng xông vào trong, nô tỳ giữ thế nào cũng không
được.”
A Hành ngẩn người, đành nói: “Chẳng sao đâu, may mà ngươi không giữ được chúng.” Đứng trên vách núi chờ chết và chờ chết trong
sơn động có gì khác nhau đâu? Ả Chu Du này… quả nhiên là đầu gỗ mà.
Lúc này mọi người mới hiểu những vết cào xước trên người Chu Du từ đâu mà
có, A Tệ và Liệt Dương sao lại tả tơi lông lá. Thiếu Hạo phá lên cười
ngặt nghẽo, vừa ho sù sụ vừa bảo Thanh Dương: “Ngươi nói khúc gỗ này rốt cuộc có đầu óc hay không?”
Thanh Dương cau mày nhìn ra đỉnh núi phía xa, chẳng buồn để ý kẻ khác nói gì.
A Hành chỉ bị thương ngoài da chứ không thương tổn linh lực, vừa rời khỏi Ngu uyên, nàng đã hồi phục nhanh chóng, bèn lại bên hồ nước rửa bùn đất máu me dính trên mặt trên tay.
A Tệ bám theo nàng tới bên hồ,
Thiếu Hạo rớt khỏi lưng nó, ùm một tiếng lăn tõm xuống hồ, may sao A
Hành nhanh tay nhanh mắt giữ được y lại.
Thiếu Hạo cười: “Ta tu luyện thủy tinh mà, lần này cảm ơn nàng giúp đỡ.”
Bấy giờ A Hành mới sực hiểu ra hồ nước là nơi trị thương của y. Nước là gốc rễ của vạn vật, thần tiên tu tập thủy tinh dù bị thương nặng tới đâu
cũng mau hồi phục hơn hẳn kẻ khác.
A Hành nhoẻn cười thả tay ra để Thiếu Hạo từ từ chìm xuống đáy nước.
Thanh Dương bước tới bên nàng, hai chân giẫm thẳng lên mặt nước, lập tức cả hồ nước bắt đầu đóng băng.
Y dặn dò: “Ta và Thiếu Hạo đều bị thương nên trước khi tiến vào Ngu uyên, để đề phòng bất trắc, hai ta đã hợp lực giăng một trận pháp bên ngoài
Ngu uyên, hiện giờ Xi Vưu đang khốn đốn trong đó, trước khi Thiếu Hạo
kịp hồi phục vết thương, nhất định chúng ta phải đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư
từ tay Xi Vưu.”
A Hành tròn mắt kinh ngạc: “Hai người ai nấy dẫn theo thuộc hạ tới Ngu uyên, còn chẳng có cơ hội gặp nhau, sao có thể
hợp lực bày trận vậy?”
Thanh Dương thản nhiên đáp, “Chừng nào
muội giao du với một kẻ suốt mấy ngàn năm sẽ biết rằng có những chuyện
chẳng cần phải nói ra.”
Nhìn hồ nước đã đóng băng toàn bộ, A
Hành nửa đùa nửa cợt nói: “Hẳn y cũng hiểu được ý đồ của huynh khi ngăn
trở y trị thương lúc này.”
Chu Du vừa biến mất đã lại ló ra từ
đâu đó, gơ tay chỉ chỉ cho Thanh Dương một hồ nước nhỏ ở xa, đó chính là hồ nước đầu tiên mà bọn họ bắt gặp từ khi thoát khỏi Ngu uyên.
Thanh Dương giậm mạnh lên mặt hồ đóng băng bên dưới, lập tức lớp băng lách cách nứt ra, y cũng theo đó chìm xuống dưới.
A Hành còn đang ngơ ngác đã thấy Thanh Dương cầm tượng gỗ nhảy ra khỏi
hồ, quăng pho tượng xuống dưới chân nàng rồi nhảy lên lưng Trùng Minh
điểu bay vút về phía hồ nước Chu Du chỉ.
A Hành nhặt pho tượng
lên, nhận ra nó được chạm khắc vô cùng sống động, hệt như Thiếu Hạo thu
nhỏ vây, nơi trái tim còn điểm một chấm máu tươi trích từ tim Thiếu Hạo. Thì ra vừa rời khỏi Ngu uyên, y đã dùng Khôi Lôi thuật hoán đổi bản
thân, kẻ dọc đường cười nói đùa cợt với họ chỉ là một con rối gỗ mà
thôi.
Nghĩ đến Thiếu Hạo vừa cảm kích tạ ơn mình chỉ là một con rối gỗ, A Hành lạnh cả sống lưng.
Thấy A Hành ngẩn người, Chu Du ngỡ rằng nàng không hiểu sao mình lại tìm
được Thiếu Hạo, bèn trỏ mấy cây thù du nói, “Trước khi tiến vào Ngu
uyên, điện hạ dặn nô tỳ phải lưu ý tất cả mọi nơi có nước, nô tỳ bèn lén trồng bên mỗi hồ nước một cây thù du[3], nếu không e rằng đã bị Thiếu
Hạo qua mặt rồi.”
[3] Thù du: một loài cây rụng lá, ra hoa li ti màu vàng, quả có hình oval, màu đỏ, vị chua, có thể dùng làm thuốc. (ND)
Lúc A Hành cùng A Tệ đuổi đến nơi, cả hồ nước đã đông cứng lại thành băng,
Thanh Dương đang nhắm mắt ngồi xếp bằng trên mặt băng.
A Hành cất tiếng, “Xin lỗi Đại ca.”
Thanh Dương dặn, “Ta cầm chân Thiếu Hạo ở đây, muội đem Chu Du cùng…” Thanh
Dương quan sát A Tệ và Liệt Dương, cũng chẳng coi chúng là súc vật nữa,
“Cùng bọn chúng đi đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư về. Nhớ đừng ra tay vội, để
Yến Long và Xi Vưu đánh đến nỗi hai bên đều thương tích, bấy giờ hẵng
lợi dụng trận pháp đoạt Hà Đồ Lạc Thư, có điều muội cũng đừng chần chừ
chậm trễ, linh khí địa thế nơi này rất có lợi cho Thiếu Hạo, ta chẳng
nắm chắc sẽ giữ chân y được bao lâu đâu!”
A Hành đang định đi
chợt nghe Thanh Dương nói tiếp: “Muội nhớ đừng để Yến Long chết, y là
con cờ hay nhất để kiềm chế Thiếu Hạo đấy.”
“Muội hiểu rồi.”
“Còn gì nữa không?”
A Hành vụt hỏi: “Tam ca là do huynh giết ư?”
Thanh Dương cười nhạt đáp: “Là Chúc Dung giết, muội nghe đâu được mấy câu tầm xàm ba láp này thế?”
“Hôm nọ muội nghe được ở chỗ phụ vương đấy. Tuy phụ vương chẳng nói rõ ra
nhưng Đồng Ngư thị lẩm bẩm nói với muội, có lẽ phụ vương cũng đem lòng
hoài nghi.”
Thanh Dương nhếch môi cười, “Mấy chuyện này không cần muội lo, đi đoạt Hà Đồ Lạc Thư đi.”
“Đại ca, huynh đừng vì dã tâm của mình mà đẩy mẹ và Tứ ca vào vòng nguy
hiểm, bằng không, muội nhất định sẽ không tha thứ cho huynh đâu!”
Dứt lời nàng nhảy lên lưng A Tệ, bay vút lên trời.